Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

PHÂN TÍCH QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ ý THỨC, TỪ đó XÂY DỰNG ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG VÀ LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.25 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING

BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN
Đề tài số 3:
PHÂN TÍCH QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC, TỪ ĐÓ XÂY DỰNG
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG VÀ LIÊN HỆ VỚI
THỰC TIỄN.

Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp học phần:
Khóa:

Nguyễn Thị Thu Giang
11211795
Triết học Mác – Lênin (221)_05
63

Hà Nội - 2022

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................3
I. LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC.........................................................................................................4
1. Phạm trù vật chất và ý thức........................................................................4


1.1. Phạm trù vật chất......................................................................................4
1.2. Phạm trù ý thức........................................................................................6
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức..........................................................7
2.1. Vật chất quyết định ý thức.......................................................................8
2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất..................9
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
.............................................................................................................................10
1. Ý nghĩa phương pháp luận........................................................................10
2. Vận dụng vào thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay...............................11
KẾT LUẬN........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15

2


LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vơ vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa
dạng, nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì nó cũng xoay quanh hai lĩnh
vực: vật chất và ý thức. Trước đó, có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh
vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm trước
đó và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học
của vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng: Vật chất là cái có trước, ý thức
là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động
trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền kinh
tế trì trệ, một hệ thống quản lí yếu kém cũng là do một phần khơng nhận thức
đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này được nhận
thức đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng lợi

sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và chủ nghĩa Mác
– Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng lí luận vững
chắc cho con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và tìm được đường lối cách
mạnh đúng đắn.
Việc vận dụng cơ sở lí luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo
chủ nghĩa duy vật biện chứng trong cơng cuộc tiến lên XHCN, phát triển đất
nước có ý nghĩa rất quan trọng. Với tư cách là một công dân nước Cộng hòa xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, em có mong muốn được tìm hiểu thêm về vấn đề này,
do đó em đã chọn đề tài: “Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và
liên hệ với thực tiễn.”
Do mới tiếp cận với triết học và kiến thức năng lực cịn hạn chế nên bài
viết của em khó tránh được những thiếu sót, em kính mong nhận được sự nhận
xét, góp ý của thầy để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Em
xin chân thành cảm ơn!
3


I. LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC
1. Phạm trù vật chất và ý thức
1.1. Phạm trù vật chất
Đây là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật nói chung, chủ
nghĩa duy vật biện chứng nói riêng.
a. Quan niệm trước Mác về “vật chất”
Chủ nghĩa duy vật trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó
có các định nghĩa điển hình như:
- Thời cổ đại: “Vật chất” được quan niệm là một hoặc một số chất tự có trong
giới tự nhiên; một hoặc một số thực thể, cụ thể, cảm tính đầu tiên đóng vai trị là

cơ sở hình thành nên tồn bộ sự tồn tại đa dạng trong thế giới.
Ví dụ: Thuyết Ngũ Hành (Trung Quốc), Thuyết Tứ Đại (Ấn Độ)…
- Thời cận đại Tây Âu:
+ Về cơ bản tiếp tục quan niệm về vật chất thời cổ đại nhưng đi sâu phân
tích sự biểu hiện của vật chất dưới các hình thức cụ thể trong GTN.
+ Manh nha của xu hướng mới: “Vật chất” được quan niệm là tất cả
những gì có thuộc tính của vật thể như: được tạo nên từ nguyên tử, có
thuộc tính khối lượng, có thể cảm nhận bằng các giác quan,…
 Các định nghĩa trên đều giải thích thế giới từ bản thân cấu tạo vật chất của
nó, từ đó tạo phương pháp luận đúng cho sự phát triển của nhận thức khoa học
và thực tiễn cải tạo thế giới. Tuy nhiên, định nghĩa vẫn chưa bao quát được mọi
tồn tại vật chất và chưa tiếp cận đầy đủ theo giác độ vấn đề cơ bản của triết học,
đặc biệt khi khoa học tự nhiên hiện đại phát triển và nhu cầu phát triển của khoa
học xã hội.
b. Định nghĩa vật chất của Lênin
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin đã đưa
ra một định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
4


cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất của Lênin, theo đó, vật
chất là phạm trù rộng lớn nhất mà nhận thức luận chưa vượt qua được và định
nghĩa đã đưa ra được một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngồi ý thức và khơng
phụ thuộc vào ý thức. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là
tiêu chuẩn để phân biệt giữa vật chất và khơng phải vật chất, dù con người có

mong muốn hay khơng thì vật chất ln tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào
đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người. Trước khi
loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý thức vì
chưa có con người, vì vậy thấy được vật chất tồn tại khách quan, không lệ thuộc
vào cảm giác. Theo đó, Lênin cho rằng vật chất là cái có trước, khơng phụ thuộc
vào ý thức, cịn ý thức (cảm giác) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất.
Thứ ba, vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh. Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng nhưng được biểu hiện qua các
dạng sự vật, hiện tượng cụ thể và các giác quan của con người có thể cảm nhận
được. Sự chép lại, chụp lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ
ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về vật chất càng sâu sắc, tồn diện.
Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất ln mang
tính thứ nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức, quyết
định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó cịn là điều kiện
để hiện thực hoá ý thức. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã quyết hai mặt vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó
cịn cung cấp ngun tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù này.
Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc
5


khách quan - xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận
thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan...
1.2. Phạm trù ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần
kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của

vật chất nhưng khơng phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức.
Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức
phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực
bởi bộ óc con người. Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của
con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của
ý thức.
Sự phát triển của giới tự nhiên mới tạo ra tiền đề vật chất có năng lực
phản ánh, chỉ là nguồn gốc sâu xa của ý thức. Hoạt động thực tiễn của loài
người mới là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời của ý thức. Lao động và
ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của lồi vượn
người thành bộ óc con người và tâm ly động vật thành ý thức con người. Ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc của con người.
b. Bản chất của ý thức
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững
thuyết phản ánh chủ nghĩa duy vật biện chứng đã luận giải một cách khoa học
bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai hiện tượng chung nhất của thế giới
hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất, nhưng giữa chúng ln có mối liên hệ
biện chứng.
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là q
trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Về mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực khách quan
trong óc người. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa
6


là đều tồn tại thực; nhưng vật chất là hiện thực khách quan, còn ý thức là hiện
thực chủ quan. Ý thức là cái phản ánh thế giói khách quan, ý thức khơng phải là
sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm

tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh ln tồn tại cảm tính. Vì
vậy, “Ý thức là cái vật chất ở bên ngồi “di chuyển” vào trong đầu óc của con
người và được cải biến đi ở trong đó.” [C.Mác và Ph.Ăngghen]
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Trong đó, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với
thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu của con người. Sự
sáng tạo ấy là sự sáng tạo theo quy luật, khuôn khổ nhất định của sự phản ánh
nên phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Sự phản ánh ý
thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể
và đối tượng phản ánh; Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng
hình ảnh tinh thần; Ba là, chuyển hố mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách
quan. Để thúc đẩy q trình chuyển hóa này, con người cần sáng tạo đồng bộ nội
dung, phương pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào hiện thực
khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Qua nguồn gốc và bản chất của ý thức, ta thấy được: Ý thức là hình thức
phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên cở sở
thực tiễn xã hội - lịch sử.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Kiên trì đường lối duy vật, nắm vững phép biện chúng, luôn theo sát và
kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của
các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái
quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý
thức và mối quan hệ giữa chúng, cái được coi là “vấn đề cơ bản của mọi triết
học, đặc biệt là triết học hiện đại.”
7


Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, “Vật chất và ý thức có mối quan

hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực
trở lại vật chất.”
2.1. Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: Vật chất có trước, quyết
định ý thức, điều đó thể hiện qua cac khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Ý thức xuất hiện gắn
liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người
là kết quả của một q trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự
nhiên, của thế giới vật chất. Cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ
phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa
học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con
người; vật chất là cái có trước, cịn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất,
cịn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là
nguồn gốc sinh ra ý thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức dưới bất kỳ hình
thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nhờ vào sự phát
triển, vận động của thế giới vật chất theo khách quan vào bộ óc con người mới
có nội dung của ý thức.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là
hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Khác với chủ nghĩa duy
vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ
nghĩa duy vật biện chúng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người
hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế
giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn
tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật
chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Sự vận động,
biến đổi không ngùng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự
vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Vai trò quyết định của vật
8



chất đối với ý thức được biểu hiện ở vai trị của kinh tế đối với chính trị, đời
sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ý thức tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Điều này được thể hiện
qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra,
nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát
triển riêng, khơng lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra
đời thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi
những điều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “thiên nhiên thứ hai”
phục vụ cho cuộc sống của con người. Tự ý thức không thể trực tiếp thay đổi
hiện thức khách quan nên ý thức cho con người tri thức để đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã
xác định.
Thứ ba, ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đốn một cách
chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng đúng
đắn góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức
mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực
khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn, nhất
là trong thời đại ngày nay, khi thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực

lượng sản xuất trực tiếp. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn,
nhưng nó khơng thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác
9


định, và phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các
chủ thể hoạt động.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Ý nghĩa phương pháp luận.
Theo quan niệm của triết học Mác Lênin, mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức là mối quan hệ biện chứng, vật chất là cái có trước, quyết định ý thức. Từ
đó ta rút ra được phương pháp luận chung là để giải quyết mọi vấn đề cần phải
xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời phát huy các nhân tố chủ quan để có
được sự sáng tạo trong giải quyết vấn đề ấy trên cơ sở cái khách quan ấy.
Trong quá trình nhận thức, học tập, nghiên cứu, con người phải bắt đầu từ
việc quan sát, xem xét, phân tích đối tượng vật chất. Qua việc tác động vào
chúng, ta sẽ bắt đối tượng vật chất phải bộc những thuộc tính, quy luật của nó và
khi đó, ta sẽ thu nhận được tri thức. Chẳng hạn khi ta bắt đầu nghiên cứu thiên
văn học thì cần phải có những sự quan sát về vũ trụ bao la, rộng lớn. Nhận thức,
cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bẳn thân sự vật hiện
tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó thì mới có
được cái nhìn tồn diện, khái quát nhất về sự vật, hiện tượng.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu
tính sáng tạo; phải coi trọng vai trị của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và
giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải luôn chủ
động, phát huy hết trí thơng minh, khả năng suy nghĩ của mình. Phải ln tìm
tịi, sáng tạo ra cái mới trên cơ sở tích lũy, kế thừa những cái cũ phù hợp mà

không được thụ động, trông chờ, ỷ lại trong mọi tình huống. Có như vậy, con
người mới ngày càng tài năng, xã hội ngày phát triển.
Chúng ta không được tuyệt đối hóa vai trị của các điều kiện vật chất
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vật chất có vai trị quyết định, chi phối
10


nhưng khơng có nghĩa là những thiếu hụt đối tượng vật chất sẽ khiến con người
thất bại trong việc tìm ra giải pháp khả thi.
Triết học Mác – Lênin không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần mà
cũng cần phải có tính tồn diện và phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan
của ý thức để có cái nhìn đa dạng, tránh đánh giá sự việc từ một phía, máy móc.
Chống quan điểm duy ý, duy vật bình thường chỉ tuyệt đối hóa vai trị của ý thức
mà hạ thấp vai trò của vật chất trong thực tiễn. Đồng thời nâng cao nhận thức,
sử dụng và phát huy vai trị của con người, có nhận thức đúng đắn, biết kết hợp
hài hịa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội; phải có động cơ
trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức
và hành động của mình.. Đảm bảo tính thống nhất biện chứng khách quan và
chủ quan trong hoạt động của con người là một yếu tố quan trọng trong nhận
thức.
2. Vận dụng vào thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay
Chủ nghĩa Mác – Lênin đóng vai trị quan trọng, trực tiếp đến con đường
tiến lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đảng ta đa vận dụng, phát triển cơ
sở lí luận, đặc biệt là quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức để giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội mà sự nghiệp đổi mới
đặt ra. Sau khi giải phóng đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong tình trạng đất
nước bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, cở sở vật chất yếu kém, năng suất lao
động thấp, kinh tế đảo lộn…
Với tinh thần đánh giá đúng và nói rõ sự thật, Đại hội Đảng lần thứ VI đã

khẳng định những thành tựu đạt được, nêu rõ những yếu kém, khó khăn chưa
vượt qua. Đại hội đã phân tích những nguyên nhân chủ quân, tìm ra những sai
lầm, khuyết điểm, Đảng cho rằng nguyên nhân chủ quan là do những sai lầm,
khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, bảo thủ trì trệ
trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là sai lầm về chính sách
kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí.
11


Để đưa Cách mạng nước ta tiến lên, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, từ tư duy đến tổ chức bộ máy nhà nước. Chúng ta vẫn tiếp
tục xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhưng theo suy nghĩ và nhận thức mới, điều kiện
và hoàn cảnh mới, vận dụng những kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình
xây dựng xã hội chủ nghĩa trước đây để đổi mới tư duy lý luận.
Đảng đã đề ra các định hướng xác định những chủ trương đổi mới về kinh
tế, thực hiện ba chương trình lớn: Lương thực – Thực phẩm – Hàng hóa tiêu
dùng, hàng xuất khẩu, là cốt lõi của của nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong 5 năm
1986 – 1990, có nghĩa sống cịn trong tình hình trước mắt, điều kiện ban đầu
khơng thể thiêu để triển khai cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp. Khuyến khích phát triển nền kinh tế đa thành phần, thừa nhận sự tồn
tại của kinh tế tiểu tư sản, kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng đúng quan hệ hàng
hóa – tiền tệ. Với sự nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tịi khai thác các
con đường đổi mới, Đại hội lần thứ VII đã đánh giá tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới có nhiều tiến bộ, đạt nhiều thành
tựu bước đầu. Nhờ vậy, tình hình chính trị của đất nước cũng dần ổn định, tạo
điều kiện cho phát triển kinh tế, đánh dấu bằng sự ra đời của nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường.
Nhờ có đường lối đổi mới mà sản xuất phát triển, đời sống nhân dân cải
thiện, do đó góp phần làm ổn định đất nước về cả kinh tế, chính trị, phát huy dân

chủ trong xã hội. Đại hội VI đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan
và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng
đúng đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.” Khẳng định điều
đó địi hỏi chúng ta càng phải nhận thức đúng bản chất cách mạng, khoa học của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kiên định và vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi
mới; đòi hỏi phải phát triển và đối xử chủ nghĩa đó với tư cách thực sự là “nền
tảng”, “kim chỉ nam” cho hành động.
12


Dù có những thành tựu to lớn đó, Đại hội lần thứ VI đã chỉ ra những tồn
tại cần giải quyết, đặc biệt là về kinh tế, lạm phát còn cao, thiếu chính sách cụ
thể tạo mơi trường ứng dụng khoa học cơng nghệ, sơ hở trong quản lí…
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn phương pháp
luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào quá trình
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, cần
phải có cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất phát triển. Đất nước ta
đang dần đạt được các yêu cầu trên là nhờ vào đường lối lãnh đạo sáng suốt của
Đảng và Nhà nước cùng sự đồng lịng nhất trí của nhân dân.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa và hiện đại
hóa, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri
thức và tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lịng
u nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa
nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức.
Đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và
thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nâng cao
công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong

Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.

13


KẾT LUẬN
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể nói là sự nghiệp vơ cùng
khó khăn, phức tạp và được xem là mục tiêu cách mạng quan trọng nhất của
Đảng và Nhà nước hiện nay. Cùng với sự biến đổi hết sức phức tạp của tình hình
thế giới đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình kinh tế - chính trị - xã hội nước
ta. Chính điều đó địi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách, đường
lối đúng đắn, kiên trì, giữ vững lịng tin, quyết tâm vượt qua khó khăn, nhạy
bén, thích ứng kịp thời với tình hình mới biến đổi khơng ngừng.
Và chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền
tảng tư tưởng lí luận vững chắc cho con đường chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được
áp dụng vào tình hình nước ta đã giúp ta định hướng được cách thức thực hiện,
phát triển nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở để đưa đất nước đi lên Chủ nghĩa xã
hội, xây dựng nên một xã hội dân giàu, nước mạnh.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta có quyền hi vọng về một
đất nước Việt Nam giàu mạnh, cơng bằng, văn minh, mỗi cơng dân có nghĩa vụ
góp sức mình vào quá trình xây dựng đất nước.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội
[2] Giáo trình Những ngun lí cơ bản của Chủ Nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị
Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 1994
[4] Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
[5] Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII.

15



×