Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

“Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.48 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
*****

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những
biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay?”

Sinh viên thực hiện

:

Trần Phương Anh

Mã sinh viên

:

72DCKT20083

Lớp

:

72DCKT22

Khóa


:

72 (2021-2025)

Giáo viên hướng dẫn :

Lê Thị Huyền

HÀ NỘI – 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG........................................................................................................... 2
I.
Nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai
đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. .......................... 2
1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền. ................................................... 2
2. Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước. ........................................ 2
3. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. .................... 3
4. Đặc điểm độc quyền nhà nước. ................................................................ 3
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước. ............... 3
b) Sự hình thành, phát triển của sở hữu nhà nước. ................................... 4
5. Biểu hiện mới của tư bản độc quyền nhà nước. ....................................... 5
a) Biểu hiện mới trong cơ chế quan hệ nhân sự. ....................................... 5
b) Biểu hiện mới về sở hữu nhà nước. ....................................................... 5
c) Biểu hiện mới trong vai trò điều tiết kinh tế.......................................... 6
II.

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay. ............................................................ 6


1. Thực trạng nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay. ...................... 6
2. Một số hình thức độc quyền ở Việt Nam. ................................................. 9
3. Điều kiện vận dụng độc quyền nhà nước để phát triển nền kinh tế Việt
Nam. .............................................................................................................. 11
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 17


MỞ ĐẦU
Độc quyền là hiện tượng các hãng cam kết lại, thỏa thuận cùng nhau quy định
mức giá và sản phẩm làm ra, chia nhau thị trường hoặc cùng nhau vạch ra các
quyết định kinh doanh. Điều này sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc quyền và lợi
nhuận độc quyền. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều về cạnh tranh và phát triển
nền kinh tế. Nguyên nhân hình thành độc quyền có thể là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất, cạnh tranh không lành mạnh đem lại, do khủng hoảng và sự phát
triển của hệ thống tín dụng đem lại.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tất yếu dẫn đến độc quyền. Theo
V.LLênin, độc quyền trong chủ nghĩa tư bản có năm đặc điểm kinh tế cơ bản. Các
đặc điểm này trong điều kiện hiện nay có những biểu hiện mới. Trong nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa độc quyển phát triển đến một trình độ nhất định sẽ
xuất hiện độc quyền nhà nước. Độc quyền nhà nước có vai trị quan trọng đối vuói
sự ổn định của nhà nước tư sản. Chủ nghĩa tư bản có vai trị rất lớn trong q trình
phát triển của xã hội, nhưng chủ nghĩa tư bản cũng có những giới hạn lịch sử
khơng thể tự vượt qua được. Những giới hạn đó sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản không
thể tồn tại vĩnh viễn.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số mơ hình nền kinh tế cịn
có nhiều tồn tại và cần có những giải pháp cụ thể để giải quyết. Trong số, vấn đề
cần được giải quyết là tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Sự

tồn tại của quá nhiều doanh nghiệp, trong đó có nhiều doanh nghiệp làm khơng
hiệu quả. Một số độc quyền nhà nước dường như biến thành độc quyền doanh
nghiệp do chưa có sự phân định rõ ràng.
Tơi chọn đề tài tiểu luận về “Phân tích nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và
những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước? Vận dụng vấn đề này vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay”
để làm rõ độc quyền là gì? Độc quyền sẽ ảnh hưởng thế nào đến nền kinh tế của
Việt Nam?
1


NỘI DUNG
I. Nguyên nhân, bản chất, đặc điểm và những biểu hiện mới trong giai
đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc
quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị thế độc
quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh vật chất cho sự ổn định của chế
độ chính trị - xã hội ứng với điều kiện phát triển nhất định trong các thời kỳ lịch
sử.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất của ba q trình
gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò
can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với
sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy nhà nước
ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
2. Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước.
Do tích tụ và tập trung sản xuất cao: Tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích

tụ và tập trung sản xuất càng cao, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn địi hỏi phải
có một sự điều tiết từ một trung tâm đối với sản xuất và phân phối.
Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mới
có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng các tổ chức độc quyền
tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm
và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thụộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao
thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản,... Vì vậy, nhà nước phải
đứng ra đảm nhận phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc
quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Sự gia tăng phân hóa xã hội: Sự thống trị của độc quyền đã làm gia tăng sự
phân hóa giàu nghèo, làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Trong
2


điều kiện như vậy địi hỏi “nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu
những mâu thuẫn xã hội”, như các chính sách trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu
nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội,... → Nhà nước phải đại biểu cho toàn
xã hội về quản lý sản xuất.
Sự kết hợp giữa các nhà nước tư sản để điều tiết quan hệ chính trị, kinh tế quốc
tế: Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên
minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột
lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó địi hỏi phải có sự
điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng thể thiếu vai trò
của nhà nước.
3. Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm phục vụ lợi ích
của các tổ chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì, phát triển chủ nghĩa tư bản.
→ Nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là sự thống nhất của ba q trình
gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò

can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với
sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy nhà nước
ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền. → Bảo vệ lợi ích của tư bản độc
quyền.
Trong cơ cấu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản, “nhà nước đã trở
thành một tập thể tư bản khổng lồ”. Nhà nước cũng là chủ sở hữu những doanh
nghiệp, là nhà tư bản tập thể, và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản
xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể
thực sự bấy nhiêu.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hộ kinh tế - chính trị - xã
hội chức khơng phải một chính sách trong giai đoạn độc quyền chủ nghĩa tư bản.
4. Đặc điểm độc quyền nhà nước.
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước.
3


Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái. Chính các đảng
phái này đã tạo cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị
và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước. Đứng đằng sau
các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu, đó chính là các Hội
chủ xí nghiệp. Các Hội chủ này hoạt động thơng qua các đảng phái của giai cấp
tư sản, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định về mặt nhân sự và đường lối
chính trị, kinh tế của các đảng, tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà nước ở
các cấp. Thông qua các Hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền
tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan
chức và nhân viên chính phủ được “cài cắm” vào ban quản trị của các tổ chức độc
quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự hoặc trở thành
những người đỡ đầu cho các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn
gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ
chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

b) Sự hình thành, phát triển của sở hữu nhà nước.
Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản, của tư bản
độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy
trì sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sở hữu nhà nước bao gồm: những
động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, những doanh
nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, ...
Sở hữu nhà nước thực hiện được các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc di chuyển tư bản của các tổ chức
độc quyền đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, chuyển từ những
ngành ít lãi sang những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn một cách dễ dàng,
thuận lợi.
Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những
chương trình nhất định.
4


Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước thì thị trường nhà nước cũng hình
thành và phát triển. Sự hình thành thị trường nhà nước thể hiện ở việc nhà nước
chủ động mở rộng thị trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm hoặc mua,
đặt hàng của các doanh nghiệp độc quyền thông qua những hợp đồng được ký kết.
Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư nhân kiếm được một khối lượng
lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất các loại hàng hố
đó cao hơn hẳn tỷ suất lợi nhuận thông thường
5. Biểu hiện mới của tư bản độc quyền nhà nước.
a) Biểu hiện mới trong cơ chế quan hệ nhân sự.
Do sự phát triển của trình độ dân trí và quy luật cạnh tranh trong xã hội tư bản
dẫn đến những thay đổi về quan hệ nhân sự trong bộ máy chính quyền nhà nước

như sau:
- Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền lực nhà nước trở thành phổ biến.
- Trong nhiều trường hợp, trọng tâm quyền lực nhà nước thuộc về một thế lực
trung dung có vị thế cân bằng giữa các thế lực đối nghịch nhau.
b) Biểu hiện mới về sở hữu nhà nước.
- Ngân sách nhà nước: Việc chi tiêu ngân sách nhà nước được quy định trong
luật ngân sách nhà nước làm cho giới hành pháp bị giới hạn, thậm chí bị quản lý
chặt chẽ; Vấn đề chống lạm phát, chống thất nghiệp được ưu tiên; Dự trữ quốc
gia thành nguồn vốn chỉ sử dụng trong những tình huống đặc biệt; Cổ phần của
nhà nước trong các ngân hàng và các công ty lớn trở thành phổ biến.
Nhà nước tư sản hiện đại là nhân tố quyết định sự ổn định kinh tế vĩ mô thông
qua thu – chi ngân sách, kiểm soát lãi suất, trợ cấp và trợ giá, kiểm sốt tỷ giá hối
đối, mua sắm cơng… Trong những điều kiện nhất định, ngân sách nhà nước còn
được dùng để cứu những tập đoàn lớn khỏi nguy cơ phá sản.
Tại một số nước, định hướng ưu tiên cho các vấn đề xã hội trong chi tiêu ngân
sách nhà nước được luật pháp hóa. Trong số đó có phần chi cho các hoạt động
bảo vệ môi trường, an sinh xã hội. Nhờ đó, ở những nước phát triển có mơi trường
xanh và sạch hơn… Nhưng đó khơng phải là sự thức tỉnh của giai cấp tư sản, mà
5


thực ra chỉ là thành quả của cuộc đấu tranh bền bỉ nhiều năm của nhân dân tiến
bộ ở những nơi đó mà thơi.
- Vai trị đầu tư của nhà nước: Nhà nước đầu tư trong nghiên cứu khoa học cơ
bản, trong xây dựng kết cấu hạ tầng, trong giải quyết các nhủ cầu mang tính xã
hội ngày càng tăng…, nhà nước tạo nên những cơ sở vật chất, gánh chịu những
rủi ro lớn để các công ty tư nhân tập trung vào các lĩnh vực có lợi nhuận hấp dẫn.
Nhờ lợi thế vượt trội của mình về tiềm lực khi tham gia đấu thầu các dự án đầu
tư bằng ngân sách nhà nước mà các tập đoàn độc quyền thường thu được lợi nhuận
khổng lồ khi thực hiện các đơn đặt hàng trong các dự án đầu tư của nhà nước.

c) Biểu hiện mới trong vai trò điều tiết kinh tế.
- Các chính phủ, nghị viện tư sản hiện đại được tổ chức như một công ty cổ
phần tư bản chủ nghĩa. “Đa nguyên tư sản” được sử dụng để làm dịu đi làn sóng
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tiến bộ. Sự tham gia của các đảng đối lập chỉ
được chấp nhận ở mức độ chưa đe dọa quyền lực của giai cấp tư sản độc quyền.
- Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước có xu hướng gia tăng. Viện trợ cho
nước ngồi của chính phủ trở thành một bộ phận điều tiết kinh tế trong nước, đó
có thể là phương án cứu nguy cho hàng hóa tồn đọng, cơng nghệ lỗi thời hoặc thị
giá cổ phiếu sụt giảm… Điều này lý giải cho việc trong các dự án song phương,
nước tiếp nhận chỉ được một phần ít ỏi ngoại tệ, cịn đa phần là hàng hóa, cơng
nghệ, chun gia của nước cung cấp. Vì thế, được chỉ định thực hiện những dự án
này là một cơ hội lớn cho các tập đoàn độc quyền.
II. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
1.

Thực trạng nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay.
Sau rất nhiều thăng trầm trong lịch sử, đến nay có thể khẳng định rằng nền

kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển.
Tuy nhiên cịn phụ thuộc lớn vào nơng nghiệp, du lịch, xuất khẩu thơ các nguồn
tư vốn của nước ngồi.
Hiện nay, Nhà nước vẫn thực hiện việc điều chỉnh giá cả kiểu hành chính với
một số mặt hàng thiết yếu như yêu cầu các công ty, doanh nghiệp điều chỉnh mức
6


đầu tư, giá cả xăng dầu, kiểm soát nguyên vật liệu xây dựng như sắt, thép, xi
măng,..
Năm 2021 là năm đầu tiên triển khai việc nghiên cứu, học tập, quán triệt và tổ
chức thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trong bối cảnh

tình hình trong nước và thế giới có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó
lường, nhất là phải chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 với những
biến chủng mới. Kinh tế thế giới phục hồi nhưng không đồng đều, chưa bền vững;
lạm phát tăng nhanh; thị trường tài chính, tiền tệ biến động mạnh, tiềm ẩn nhiều
rủi ro. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, đất nước ta cũng phải chống đỡ
với khó khăn, thách thức rất lớn do đợt dịch COVID-19 lần thứ tư với biến chủng
Delta có tốc độ lây lan nhanh, nguy hiểm hơn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ, tính mạng của người dân và các mặt của đời sống kinh tế-xã hội nước
ta.
Trong bối cảnh khó khăn chồng chất khó khăn đó, Chính phủ, chính quyền các
địa phương và tồn hệ thống chính trị đã cùng với tồn Đảng, tồn dân, tồn quân
ta nỗ lực phấn đấu, hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra,
đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực. Đáng chú ý là
Việt Nam đã ứng phó, kiềm chế, kiểm soát được dịch bệnh, từng bước chuyển
sang trạng thái "Thích ứng an tồn, linh hoạt, kiểm sốt hiệu quả dịch COVID19."
Đợt dịch thứ tư bùng phát ở những địa bàn đông dân cư đã dẫn đến sự quá tải
cục bộ hệ thống y tế ở thời điểm vaccine khan hiếm và chưa có thuốc đặc trị.
Chúng ta đã chứng kiến nhiều mất mát, đau thương ở đợt bùng dịch này nhưng
dưới sự lãnh đạo sát sao, đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành ráo riết, cụ
thể của Nhà nước, tồn hệ thống chính trị và đồng bào, chiến sỹ cả nước ta đã vào
cuộc một cách đồng bộ, quyết liệt trong phòng, chống dịch; hạn chế tối đa thiệt
hại và kiềm chế được dịch bệnh; tích cực thực hiện các chính sách an sinh xã hội
và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn.
Quan trọng hơn cả là Việt Nam đã nỗ lực duy trì, phục hồi và thúc đẩy phát
triển kinh tế với nhiều điểm sáng tích cực. Nền kinh tế nước ta tiếp tục được đánh
7


giá là nền kinh tế phát triển ổn định, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài. Mặc dù tăng trưởng kinh tế quý 3 âm 6% do đợt bùng phát dịch lần thứ tư,

nhưng sang quý 4 đã đạt mức tăng 5,22%, cao hơn cùng kỳ năm 2020 (4,61%),
và cả năm ước tăng 2,58%. Thu ngân sách nhà nước vẫn tăng 16,4%, cao hơn mức
tăng 11,3% của năm 2020. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2021
đạt mức kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020 (đưa Việt Nam trở
thành 1 trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại); cán cân
thương mại duy trì xuất siêu năm thứ 6 liên tiếp, đạt khoảng 4 tỷ USD. Thị trường
tiền tệ, tín dụng, tỉ giá ổn định; mặt bằng lãi suất bình quân giảm; dự trữ ngoại hối
tiếp tục được củng cố, tăng trên 10%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tương
đương 34,4% GDP, tăng 1,2% so với năm 2020. Nông nghiệp tiếp tục giữ được
vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; xuất khẩu
nông sản đạt 48,6 tỷ USD. Một số tổ chức tín dụng yếu kém, dự án, doanh nghiệp
chậm tiến độ, kém hiệu quả, thua lỗ, kéo dài đang từng bước được xử lý. Đã khởi
cơng xây dựng một số cơng trình, dự án đường bộ cao tốc; tiếp tục đẩy mạnh triển
khai nhiều dự án kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia.
Một tín hiệu lạc quan nữa là trong khó khăn, chúng ta vẫn tiếp tục quan tâm
phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Hội nghị Văn hóa tồn quốc được tổ chức
rất thành cơng, đã đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được dư luận rộng rãi trong cả nước hoan
nghênh và đồng tình, ủng hộ. Các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ người dân,
doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh đã được triển khai đồng bộ, có hiệu quả
thiết thực, góp phần tích cực tiếp tục bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân
dân.
Đặc biệt, quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường, nâng cao
hiệu quả; chủ quyền quốc gia, mơi trường hịa bình, ổn định tiếp tục được giữ
vững, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.
Xử lý linh hoạt, hiệu quả và phù hợp các tình huống phức tạp trên biển và tuyến
biên giới. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội; tập trung trấn áp các loại tội phạm; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện
8



chính trị quan trọng của đất nước. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư
tưởng sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động. Hoạt động
đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, triển khai đồng bộ, toàn
diện, linh hoạt, hiệu quả và đạt nhiều kết quả quan trọng, nổi bật là hoạt động
ngoại giao vaccine. Công tác bảo hộ công dân, thông tin đối ngoại, ngoại giao
kinh tế, văn hóa tiếp tục được chú trọng, đẩy mạnh. Vị thế, uy tín quốc tế của
nước ta ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực, hiệu quả, có trách nhiệm
vào việc giữ vững hịa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.
2.

Một số hình thức độc quyền ở Việt Nam.
Độc quyền là gì và pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hiện nay nên điều chỉnh

vấn đề này như thế nào? Độc quyền kinh tế được hiểu là “ hiện tượng chỉ có một
số ít người độc chiếm thị trường khiến ở đó khơng có sự tự do cạnh tranh về phía
cung”. Trong kinh tế học, hiện tượng này được gọi là độc quyền tuyệt đối và là
biểu hiện của cạnh tranh khơng hồn hảo. Đó là hình thức cạnh tranh mà giá cả
của hàng hố trên thị trường bị chi phối bởi một hoặc một số nhà kinh doanh nhất
định. Thông thường, một thị trường độc quyền được biểu hiện qua 3 yếu tố như
sau: Thứ nhất, tồn bộ thị trường đó được nắm giữ bởi một hoặc một số người bán
nhất định. Thứ hai, sản phẩm của nhà sản xuất được bán trên thị trường là duy
nhất mà khơng có sản phẩm thay thế gần tồn tại. Nói cách khác, đó là việc khơng
tồn tại thị trường sản phẩm liên quan. Thứ ba, tồn tại những rào cản để ngăn cản
việc các doanh nghiệp khác kinh doanh trên thị trường liên quan. Rào cản được
coi là đặc trưng quan trọng nhất của một thị trường độc quyền bởi lẽ, nếu khơng
có rào cản, các doanh nghiệp khác sẽ lập tức tham gia vào thị trường kinh doanh
khi nhà độc quyền thực hiện chính sách tăng giá bán hoặc giảm chất lượng và số
lượng sản phẩm. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh khi muốn trở thành độc quyền
đều cần phải có một rào cản và nhờ vào đó để cản trở các đối thủ khác. Rào cản

thị trường được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các hình
thức phổ biến như sau: Các quy định của pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Đây là
loại rào cản rất thường gặp, nó tạo ra sự độc quyền hợp pháp cho các doanh
nghiệp. Vấn đề cần xem xét ở đây là tính hợp lý của các rào cản thị trường do
9


pháp luật tạo ra. Trong những hoàn cảnh nhất định, Chính phủ ở hầu hết các quốc
gia đều cần thiết phải sử dụng rào cản do pháp luật tạo ra để đảm bảo phát triển
kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng hoặc bảo hộ sản xuất trong nước. Trong những
trường hợp đó, sự tồn tại của các rào cản thị trường là hợp lý. Chẳng hạn, việc nhà
nước chỉ cho phép một hoặc một số doanh nghiệp được hoạt động trong các lĩnh
vực mà nhà nước cần giữ độc quyền như các ngành thuộc an ninh, quốc phòng
hay những ngành dịch vụ cơng ích hoặc những ngành có tác động mạnh và ảnh
hưởng đến đời sống của toàn bộ xã hội như: cấp, thoát nước, nắm giữ mạng lưới
truyền tải điện quốc gia, mạng lưới đường sắt tàu hoả... Trong những trường hợp
này, pháp luật cần thiết phải tạo ra các rào cản thị trường.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình độc quyền sau: Loại thứ nhất là
kết quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp cơng ty Coca Cola
như đã phân tích ở trên được coi là ví dụ về hình thức độc quyền là kết quả của
cạnh tranh trên thị trường nước uống có ga của Việt Nam. Tuy thế, như đã đề cập
ở trên, nền kinh tế thị trường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển,
vì vậy, cho đến nay chỉ có một vài trường hợp liên quan đến độc quyền là kết quả
của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Chắc chắn trong tương lai, loại hình
độc quyền này sẽ phổ biến hơn. Tuy nhiên, đây là hiện tượng bình thường của bất
kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào. Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển, vấn đề này sẽ được giải quyết bằng những quy định về chống
độc quyền trong luật cạnh tranh như các quy định về cấm đoán tự thân, quy định
về thoả thuận giá cả giữa các đối thủ cạnh tranh, tẩy chay hàng hoá, lạm dụng sức
mạnh thị trường, tập trung kinh tế v.v... Luật cạnh tranh của Việt Nam cũng đã

bao gồm các quy định này. Đó là những quy định tại chương 2 về các vấn đề thoả
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền,
tập trung kinh tế. Nếu so với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì
những quy định trong Luật cạnh tranh của Việt Nam về kiểm sốt độc quyền chưa
thể nói là đầy đủ. Tuy thế, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc quy
định như vậy là tương đối rõ ràng và thống nhất. Trong tương lai, khi tính cạnh
tranh của thị trường đạt ở mức độ cao hơn với nhiều hành vi cạnh tranh khác phát
10


sinh, sự bổ sung các quy định mới về kiểm soát độc quyền sẽ là cần thiết. Loại
thứ hai là loại hình độc quyền được coi là phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là
độc quyền là kết quả của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của
pháp luật cũng như các chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung cao độ trước đây, chúng ta chỉ thừa nhận hình thức sở hữu nhà nước
và sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân không tồn tại trong thời gian đó. Chế độ cơng
hữu này đã tạo ra sự độc quyền nhà nước trong tất cả các ngành kinh tế. Nhà nước
thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất và cung ứng sản phẩm cho người
tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính đã hình thành
nên các doanh nghiệp nhà nước độc quyền mà một số vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay. Hơn nữa, hiện nay cịn có xu hướng độc quyền nhà nước biến thành độc
quyền doanh nghiệp. Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi thế
cho VNPT ngăn cản các công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông, bởi lẽ
nếu các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông họ buộc phải sử dụng
đường trục viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị phần sẵn có
từ trước cùng với các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá dịch vụ viễn thơng
cung cấp cho người sử dụng cao hơn 30% so với các nước ASEAN . Tình trạng
này cũng tương tự như ở Tổng cơng ty điện lực Việt Nam (EVN). ở nước ta đã có
một số doanh nghiệp sản xuất điện nhưng chỉ EVN đ-ợc nắm giữ hệ thống truyền
tải điện. Trong thị trường điện lực, việc sản xuất điện có liên quan mật thiết đến

việc truyền tải điện. Điều này làm cho các doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ
thuộc vào EVN - một đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường. Chính vì vậy, độc
quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều không thể tránh khỏi.
3.

Điều kiện vận dụng độc quyền nhà nước để phát triển nền kinh tế Việt

Nam.
Viêc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các “phương tiện
thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà
ga sân bay, hệ thống đường sắt nhưng khơng có sự tách biệt rõ ràng các yếu tố
thuộc về cạnh tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm
cho độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy
11


rằng: những quy định này là không phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị
trường và cần phải được thay đổi trong thời gian tới. Không những thế, một số
chính sách kinh tế thời gian qua cũng là nguyên nhân tạo ra độc quyền trong nền
kinh tế nước ta. Điển hình là chính sách thành lập các tổng công ty đã tạo ra sự
độc quyền của một vài doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực như xây dựng,
xi măng, lắp máy... Để thành lập các tổng cơng ty này, một loạt các cơng ty nhỏ
có cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập theo quyết định của Chính phủ. Hơn
nữa, nhà nước cũng đầu tư một lượng vốn lớn vào các tổng công ty. Kết quả là
các cơng ty có một sức mạnh thị trường đáng kể trong ngành nghề mà nó kinh
doanh và nhanh chóng có vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, khơng một
doanh nghiệp nào có thể cạnh tranh với các tổng cơng ty nhà nước. Hiện nay,
Chính phủ chủ trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng
các tập đoàn kinh tế là quan trọng bởi vì xét về mức độ tập trung vốn và công
nghệ, hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam đều rất nhỏ bé so với các cơng ty

nước ngồi, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, hợp tác đi cùng với cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Để có thể
tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, Việt Nam rất cần thiết phải thành
lập các tập đoàn kinh tế đủ mạnh trong những lĩnh vực nhất định. Theo Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trước hết, sẽ có 4 tập đồn kinh
tế được thành lập trong các lĩnh vực điện, ga và khí đốt, viễn thơng và xây dựng.
Theo chính sách này, các tập đoàn kinh tế được thành lập dựa trên việc sáp nhập
các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn. Về mặt lý thuyết cũng như thực tế của luật
cạnh tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm trong trường hợp làm giảm đáng kể cạnh
tranh hoặc đi ngược lại với lợi ích cơng cộng, liên quan đến các vấn đề như lợi
ích khách hàng, giải quyết việc làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược lại, nếu việc
sáp nhập mà có nhiều khả năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn chế
cạnh tranh, nó sẽ khơng bị cấm. Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt
Nam, việc tránh xung đột giữa độc quyền là kết quả của sáp nhập và lợi ích cơng
cộng là rất cần thiết. Khi các tập đoàn kinh tế được thành lập bởi Chính phủ thì
sẽ rất dễ dàng cho các doanh nghiệp này có được vị trí thống lĩnh thị trường và
12


sức mạnh thị trường đáng kể so với các doanh nghiệp khác. Chính vì thế, nếu
khơng có những quy định cụ thể chính sách này có thể tạo ra vị trí độc quyền cho
các tập đồn kinh tế. Thêm vào đó, do hình thức sở hữu mà một số chính sách của
nhà nước cũng có ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, doanh
nghiệp nhà nước được hưởng một số lợi thế khi tiến hành hoạt động kinh doanh
trên thị trường so với các thành phần kinh tế khác. Cụ thể là, trong một số trường
hợp nhất định, nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp bảo đảm cho các khoản nợ của
doanh nghiệp, ưu đãi về quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một số trường hợp,
được chỉ định ngân hàng cho vay vốn hoặc được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Vì
thế, có thể nói rằng: ở một chừng mực nhất định, chính sách kinh tế đã trở thành
rào cản tạo ra độc quyền trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Các rào cản thị trường ở Việt Nam hiện nay rơi vào 3 trường hợp như sau: Thứ
nhất, bằng một số hành vi kinh doanh nhất định, các doanh nghiệp trên thị trường
đã loại bỏ được các đối thủ khác và trở thành độc quyền trên thị trường đó. Thứ
hai, sự tồn tại một số quy định của pháp luật và các chính sách kinh tế đã tạo ra
độc quyền cho các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, pháp luật chưa có sự phân
định rõ việc sử dụng các “phương tiện thiết yếu” liên quan đến độc quyền tự nhiên,
vì thế đã biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Loại rào cản
thứ nhất là hình thức tồn tại phổ biến ở tất cả các quốc gia và sẽ không phải là
ngoại lệ đối với Việt Nam trong tương lai. Luật Cạnh tranh đã đưa ra một số quy
định tương đối phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay để điều chỉnh quan
hệ này.
Cần phải có các quy định để xử lý sự tồn tại của các loại rào cản thứ hai và thứ
ba. Đối với loại hình thứ hai, cần thấy rằng: trong những hoàn cảnh nhất định, sự
tồn tại của rào cản thị trường do pháp luật tạo ra là cần thiết. Điều này được chứng
minh ở chỗ, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận sự tồn tại của độc quyền nhà nước
trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích cơng cộng hoặc an ninh quốc phịng. Ví
dụ như Chính phủ Australia “thừa nhận rộng rãi sự độc quyền nhà nước trong các
lĩnh vực cấp nước, điện lực, đường sắt, đường bộ, bưu chính, viễn thông. Việc
thừa nhận độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực này được giải thích dựa trên cơ
13


sở là các hoạt động nói trên là hình thức độc quyền tự nhiên”.Ở Việt Nam hiện
nay, Nghị quyết của Đảng đã khẳng định: Nhà nước nắm độc quyền trong các lĩnh
vực dịch vụ cơng ích, trong những ngành cơng nghiệp then chốt có liên quan mật
thiết tới đời sống kinh tế - xã hội hoặc an ninh, quốc phòng như điện lực, viễn
thơng, cảng biển, thuốc lá, cấp thốt nước, sản xuất vũ khí, thuốc nổ... Thời gian
tới, Chính phủ nên cụ thể hoá những quy định này bằng cách đưa ra danh mục
các lĩnh vực độc quyền nhà nước để bảo đảm tính rõ ràng của pháp luật và tránh
được việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Đồng thời,

Chính phủ cũng nên thơng tin kế hoạch cụ thể đối với việc xoá bỏ độc quyền trong
những ngành nghề nhất định. Thực tế cho thấy rằng, những lĩnh vực thuộc về độc
quyền nhà nước không phải giống nhau cho mọi quốc gia và cũng không tồn tại
ổn định cho mọi thời kỳ, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước. Tuy thế, pháp
luật nên quy định theo hướng nhà nước sẽ nắm giữ độc quyền trong các lĩnh vực
liên quan đến độc quyền tự nhiên và các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc
phịng. Ngồi ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan quản
lý nhà nước về cạnh tranh (sẽ được thành lập theo quy định của Luật Cạnh tranh)
cần rà soát lại các văn bản pháp luật để tìm ra những quy định về hạn chế cạnh
tranh bất hợp lý, qua đó, đề xuất cơ quan ban hành văn bản đó sửa đổi hoặc huỷ
bỏ cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường nước ta. Chính sách về việc thành
lập các tập đồn kinh tế cũng là vấn đề cần xem xét. Các tập đồn kinh tế khi được
thành lập sẽ có sức mạnh rất lớn và có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp
nước ngồi. Vì vậy, cùng với việc thành lập các tập đồn kinh tế, nên có các quy
định để khuyến khích hơn nữa các cơng ty nước ngồi bao gồm cả các tập đoàn
kinh tế đa quốc gia tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường liên quan ở Việt
Nam. Điều đó vừa bảo đảm được tính cạnh tranh của nền kinh tế đồng thời tạo
môi trường cho các tập đoàn kinh tế nước ta phát triển. Đối với loại hình thứ ba
là trường hợp mà các yếu tố độc quyền tự nhiên gắn liền với các hoạt động cạnh
tranh tiềm năng (như sản xuất điện, dịch vụ vận chuyển hành khách đường sắt
hoặc dịch vụ viễn thông). Nên có quy định tách các yếu tố độc quyền tự nhiên ra
khỏi các hoạt động cạnh tranh tiềm năng đó. Ví dụ như dịch vụ cung cấp cơ sở hạ
14


tầng viễn thông, hoạt động truyền tải điện, dịch vụ cung cấp nhà ga sân bay lần
lượt phải được tách khỏi dịch vụ viễn thông, sản xuất điện, và dịch vụ vận tải hàng
khơng. Chính phủ nên thành lập các doanh nghiệp nhà nước riêng rẽ để quản lý
các yếu tố độc quyền tự nhiên đó. Cùng với việc làm này, Chính phủ nên ban hành
các quy định về việc sử dụng “phương tiện thiết yếu” liên quan đến độc quyền tự

nhiên. Trước hết, các doanh nghiệp độc quyền tự nhiên nắm giữ các “ phương tiện
thiết yếu ” nên giao cho các Bộ chuyên ngành quản lý. Ví dụ như Bộ Giao thơng
vận tải sẽ kiểm sốt hoạt động của các doanh nghiệp quản lý nhà ga sân bay, Bộ
Công nghiệp sẽ quản lý các doanh nghiệp nắm giữ hệ thống truyền tải điện...
Thêm vào đó, cũng cần thấy rằng, không nhất thiết trong mọi trường hợp các
doanh nghiệp quản lý “ phương tiện thiết yếu ” liên quan đến độc quyền tự nhiên
đều phải đáp ứng yêu cầu việc sử dụng các cơ sở đó. Vì vậy, cần có các quy định
về lĩnh vực này. Cụ thể là, nên quy định theo hướng các doanh nghiệp đó khơng
phải chịu trách nhiệm cung cấp “phương tiện thiết yếu” cho các doanh nghiệp
khác trừ khi có nhu cầu cần thiết để đẩy mạnh sự cạnh tranh có hiệu quả cho nền
kinh tế. Ví dụ như, khi nhà ga sân bay đã làm việc hết công suất, các doanh nghiệp
độc quyền tự nhiên khơng có trách nhiệm cung cấp các “phương tiện thiết yếu”
ngay cả khi có yêu cầu của một nhà cung cấp dịch vụ vận tải hàng không. Hơn
thế nữa, nên có các quy định liên quan đến việc xác định giá cả khi sử dụng các
“phương tiện thiết yếu”. Trong thực tế, các doanh nghiệp nắm giữ các “phương
tiện thiết yếu” có xu hướng tính giá độc quyền cho các yếu tố đó. Vì vậy, để tránh
giá cả độc quyền, Bộ chủ quản nên ấn định giá cho việc sử dụng các dịch vụ thiết
yếu này. Việc xác định giá cả sử dụng “ phương tiện thiết yếu” không phải là công
việc dễ dàng. Theo kinh nghiệm của một số nước, giá sử dụng các “ phương tiện
thiết yếu ” phụ thuộc vào một số yếu tố như mức độ, khả năng cung cấp các
“phương tiện thiết yếu” , việc sử dụng theo kế hoạch trong tương lai của các doanh
nghiệp, mức độ thu hồi vốn chi phí xây dựng các “phương tiện thiết yếu” đó. Đồng
thời, cũng nên tính đến tác động của giá cả để thúc đẩy sản xuất và bảo dưỡng các
“ phương tiện thiết yếu” cũng như tác động quan trọng của việc khuyến khích đổi
mới cơng nghệ.
15


KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ

nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Hệ thống kinh tế Việt Nam là một
hệ thống kinh tế hỗn hợp. Khi mà nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển
và thị trường hóa thì ta vẫn thấy sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế còn
khá cao. Và trong số đó, Nhà nước chiếm độc quyền là chủ yếu, Nhà nước nắm
độc quyền trong các lĩnh vực dịch vụ cơng ích, trong những ngành cơng nghiệp
then chốt có liên quan mật thiết tới đời sống kinh tế - xã hội hoặc an ninh, quốc
phòng như điện lực, viễn thơng, cảng biển, thuốc lá, cấp thốt nước, sản xuất vũ
khí, thuốc nổ.... Từ đó có thể thấy được Nhà nước nắm độc quyền về “phương
tiện thiết yếu”. Nhưng sự phân định giữa độc quyền Nhà nước và độc quyền
doanh nghiệp còn chưa lớn nên lầm tưởng độc quyền nhà nước là độc quyền doanh
nghiệp. Thêm vào đó, chúng ta cần có quy định về độc quyền và cạnh tranh để
đảm bảo môi trường về độc quyền và canh tranh. Nhà nước cũng cần loại bỏ một
số độc quyền, để môi trường độc quyền ở Việt Nam đa dạng hơn. Hơn thế nữa
pháp luật nên quy định theo hướng nhà nước sẽ nắm giữ độc quyền trong các lĩnh
vực liên quan đến độc quyền tự nhiên và các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc
phòng. Chúng ta nên áp đặt giá trần và giá sàn để doanh nghiệp độc quyền khơng
lạm dụng vào duy chỉ có mình mới nắm giữ cách sản xuất ra mặt hàng đó mà đẩy
giá lên cao. Có 2 độc quyền chính là: kết quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường và độc quyền là kết quả của cơ chế hành chính. Trong đó độc quyền là kết
quả của cơ chế hành chính phổ biến ở Việt Nam nhất. Việt Nam gặp phải một số
rào cản: thứ nhất, bằng một số hành vi kinh doanh nhất định, các doanh nghiệp
trên thị trường đã loại bỏ được các đối thủ khác và trở thành độc quyền trên thị
trường đó; thứ hai, sự tồn tại một số quy định của pháp luật và các chính sách kinh
tế đã tạo ra độc quyền cho các doanh nghiệp nhà nước; thứ ba, pháp luật chưa có
sự phân định rõ việc sử dụng các “phương tiện thiết yếu” liên quan đến độc quyền
tự nhiên, vì thế đã biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp.

16



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin (Dành
cho bậc đại học khơng chun ngành lý luận chính trị, NXB Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Thanh Hằng (23-06-2021), “Thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện
nay diễn ra như thế nào?” />3. Lê Nguyễn (30-01-2022), “Nhìn lại nền kinh tế 2021 hướng tới năm 2022”
/>4. Ths. Đào Ngọc Báu (01-11-2004) “Vấn đề độc quyền ở Việt Nam”
/>
17



×