MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu
sắc và toàn diện, chứa đựng cả sự phát triển và cả những tương tác đầy mâu
thuẫn. Thích ứng với những biến đổi đó, chủ nghĩa tư bản có những thích nghi
mới, đã sử dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ để
phát triển lực lượng sản xuất và và thúc đẩy xu hướng quốc tế hóa hoạt động
kinh tế quốc tế mới, sự bành trướng hoạt động của các công ty xuyên quốc gia,
đã và đang tác động mạnh mẽ đến thị trường thế giới, làm tăng thêm xu hướng
liên kết về kinh tế, tài chính – tiền tệ, thương mại và sự hội nhập của thị trường
từng quốc gia vào thị trường từng khu vực và thế giới. Mặt khác, sự điều tiết nền
kinh tế thị trường một cách toàn diện, thường xuyên của nhà nước tư sản đã làm
nảy sinh chủ nghĩa bảo hộ mới, hình thành các liên minh khu vực, các khối kinh
tế. Nhiều tổ chức kinh tế quốc tế được hình thành, hợp tác kinh tế ngày càng
tăng, nhưng cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt, quyết liệt.
Tình hình trên đã làm nảy sinh những ý kiến cho rằng lý luận của
V.I.Lênin về phân chia thị trường thế giới giữu các liên minh độc quyền của bọn
tư bản trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản” (Trích trong Lênin, toàn tập, tập 27) không còn phù hợp nữa. Bởi vậy, việc
nghiên cứu lỹ luận ấy và tìm hiểu những biểu hiện mới của nó trong giai đoạn
hiện nay để giúp cho các doanh nghiệp nước ta có những đối sách thích hợp khi
hội nhập thị trường khu vực và thế giới là rất cần thiết. Vì thế “Lý luận của
V.I.Lênin về phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền tư
bản và những biểu hiện mới trong giai đoạn hiện nay” được tác giả chọn làm
đề tài tiểu luận kết thúc học phần môn Các tác phẩm kinh điển Mác – Lênin II.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của Cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn!
2. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu về phân chia thị trường thế giới được sự quan tâm của
giới kinh doanh và nghiên cứu. Cho đến nay đã có một số công trình của các tác
giả trong và ngoài nước như:
“Những hiện tượng mới trong cuộc đấu tranh phân chia thị trường thế
giới của bọn đế quốc” của tác giả I.U.Suscop bàn về những chủ thể,
đối tượng và hình thức của phân chia thế giới trước những năm 70.
Công trình của A.Bogdanov về mâu thuẫn giữa ba trung tâm tư bản
và những cuộc đấu tranh phân chia thị trường giữa chúng đến
những năm 80 của thế kỷ XX.
PGS.PTS Nguyễn Khắc Thân, “Các tác phẩm chủ nghĩa tư bản hiện
đại mâu thuẫn và vấn đề các công ty xuyên quốc gia hiện đại”.
PGS.PTS Lê Văn Sang, “Chủ nghĩa tư bản hiện đại”.
Nhiều bài đăng trên báo, tạp chí trong và ngoài nước có liên quan đến
phân chia thị trường thế giới, những chỉ đề cập riêng từng khía cạnh của vấn đề,
chứ chưa trực tiếp nghiên cứu những biểu hiện mới về phân chia thị trường thế
giới giữa các liên minh độc quyền tư bản dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nhằm phân tích có hệ thống lý luận của Lênin về phân chia thế
giới giữa các liên minh của bọn tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Làm rõ những giá trị khoa học của lý luận này và những hiểu biết mới
của phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn hiện nay.
- Tìm hiểu những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp cho quá trình hội nhập của nước ta mà chủ yếu là sự
hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường khu vực và thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích một cách có hệ thông lý luận của Lênin về phân chia thế giới
giữa các liên minh độc quyền của bọn tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
độc quyền.
- Phân tích những nhân tố tác động đối với thị trường thế giới và những
biểu hiện mới của việc phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn hiện nay. Từ
đó, rút ra mối liên hệ bản chất của các nhân tố tác động, xu hương vận động và
kết quả của việc phân chia thị trường thế giới ngày nay.
- Trên cơ sở phân tích đó tiểu luận đề xuất một số phương hướng, giải
pháp để Việt Nam và các doanh nghiệp của mình hội nhập thị trường thế giới và
khu vực có hiệu quả cao nhất.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiểu luận tập trung nghiên cứu lý luận của Lênin về việc phân chia
thế giới giữa các liên minh của bọn tư bản trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc,
giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” và những biểu hiện mới từ đầu thập kỷ
70 trở lại đây dưới góc độ kinh tế chính trị (chủ yếu là thị trường hàng hóa và
dịch vụ); ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế chính trị
Mác – Lênin, như các phương pháp duuy vật biện chứng, trìu tượng hóa khoa học,
logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp lý luận của Lênin với quan điểm
đường lối của Đảng, thực tiễn Việt Nam, rút ra những điểm mới, những mối liên hệ
bản chất của các hiện tượng, các quan hệ đang diễn ra trên thị trường quốc tế, để
thấy rõ xu thế vận động tất yếu của thị trường thế giới ngày nay.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
- Hệ thống hóa lý luận của Lêni về phân chia thị trường thế giới giữa các
liên minh độc quyền tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- Nêu ra những biểu hiện mới về phân chia thị trường thế giới trong giai
đoạn hiện nay. Khẳng định những giá trị khoa học lý luận mà Lênin đưa ra,
những hạn chế bởi điều kiện lịch sử (chưa cho phép Lênin tổng kết và rút ra
được những nhận định và dự đoán chính xác), góp phần vào việc bảo vệ và phát
triển những giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Cung cấp luận cứ khoa học, những giải pháp cho quá trình hội nhập vào
thị trường khu vực và thế giới của Việt Nam mà chủ yếu là của các doanh
nghiệp ở nước ta.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm
3 chương, 6 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ LÊNIN VÀ TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA
ĐẾ QUỐC, GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN”
1.1.
Tiểu sử Lênin
V.I. Lênin tên thật là Vladimir Ilits Ulianov
(Lênin), sinh ngày 22 tháng Tư năm 1870 ở Simbirsk
(nay là Ulianovsk), mất ngày 21 tháng Giêng 1924 ở
làng Gorki gần Moskva.
Xuất thân trong một gia đình trí thức tiến bộ ở
Nga, cha của Lênin thì hoạt động trong ngành giáo
dục nên Lênin là một người có khả năng học tập xuất
sắc từ nhỏ. Năm 1887 Lênin tốt nghiệp xuất sắc bậc
Trung học được nhận Huy chương vàng nên được
vào thẳng bất kỳ trường Đại học nào ở nước Nga. Ông xin vào học khoa Luật
của Đại học Tổng hợp Kazan. Tại đây, Lênin tham gia nhóm cách mạng trong
sinh viên, trở thành thành viên của Hội đồng hương bí mật Samarsko Simbirskoe.
Ông tham gia phong trào đấu tranh để bảo vệ người lao động nghèo khổ từ
rất sớm.Do tham gia tuyên truyền cách mạng trong sinh viên, tháng Chạp 1887,
Lênin bị đuổi học và bị phát lưu đến làng Kokushino Kazan. Tháng 10 năm
1888, trở về Kazan gia nhập nhóm Mác xít. Lênin có nghị lực rất cao trong việc
tự học. Chỉ trong vòng hai năm miệt mài đèn sách, năm 1891, Lênin đã thi đỗ tất
cả các môn học của chương trình 4 năm khoa Luật trường ĐH Tổng hợp Kazan
với tư cách thí sinh tự do. Sau khi tốt nghiệp khoa luật Lê-nin làm trợ lý luật sư
ở Samara. Tháng 8/1893, chuyển về Peterburg. Tại đây ông đã thấm nhuần nỗi
thống khổ về lao động, thể hiện khả năng xuất chúng trong việc lãnh đạo quần
chúng, gây dựng uy tín trong các nhóm mác – xít ở Peterburg với học vấn uyên
bác và sự tinh thông chủ nghĩa Mác.
Năm 1894, trong cuốn Thế nào là những người bạn dân và học chiến đấu
chống lại những người xã hội dân chủ như thế nào? Và năm 1899, trong cuốn Sự
phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga Lênin được thừa nhận là người lãnh đạo của
nhóm Mác- xít ở Nga. Mùa thu 1895, Lênin thành lập ở Peterburg Hội liên hiệp
đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, tập hợp các nhóm cách mạng ở
Peterburg. ở Mát xcơ va , Kiev, Iaroslav và những thành phố khác cũng thành
lập các hội liên hiệp tương tự. Lênin đã gặp Nadegiơda Konstantinovna
Krupskaia . Hai người yêu nhau và trở thành bạn đời chung thuỷ.
Đêm mồng 9 tháng Chạp 1895, do bị tố giác nhiều hội viên của Hội liên
hiệp, trong đó có Lênin bị cảnh sát bắt. Sau 14 tháng bị cầm tù, tháng Hai 1897,
Lênin bị đi đày 3 năm ở làng Shushenkoe (miền Đông Sibir). Trong thời gian
lưu đày Lênin đã viết xong hơn ba mươi tác phẩm, trong đó có cuốn khá đồ sộ:
Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở nước Nga (1899).
Năm 1900, thời hạn lưu đày của Lênin kết thúc. Năm 1903, tại Luân đôn
tiến hành Đại hội lần thứ II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga. Lênin phát
biểu phải xây dựng một đảng Mác xít kiểu mới có kỷ luật nghiêm mình, có khả
năng là người tổ chức cách mạng của quần chúng. Nhóm số đông ủng hộ Lênin
gọi là những người Bolshevik, nhóm số ít chủ trương thành lập đảng đấu tranh
theo kiểu Nghị viện gọi là những người menshevik.
Lênin bắt đầu chu du và sống ở nhiều nước trên thế giới như Thụy Sĩ, Tiệp
Khắc, Đức, Anh, Pháp, cùng với tổ chức của mình ông đã xây dựng và phát triển
tổ chức giải phóng giai cấp công nhân ở nhiều nước trên thế giới, xây dựng nên
cơ quan ngôn luận của tổ chức: Tờ báo tia lửa.
Tháng Tư 1905, tại Luân đôn tiến hành Đại hội lần thứ III ĐCNXHDC
Nga, Lênin được bầu là chủ tịch Đại hội.
Tháng Sáu 1912 từ Paris chuyển về Krakov lãnh đạo tờ Pravda (Sự thật).
Thời kỳ này, Lênin soạn thảo xong Đề cương Mác xít về vấn đề dân tộc. Cuối
Tháng Bảy 1914, bị cảnh sát áo bắt nhưng sau đó ít lâu được trả lại tự do và đi
Thuỵ Sĩ. Trong thời gian Đại chiến thế giới lần thứ I Lênin đưa ra khẩu hiệu
biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Trong tác phẩm Chủ nghĩa
đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916) và những tác phẩm
khác Lênin đã phát triển chính trị kinh tế học Mác xít và lý luận về cách mạng
xã hội chủ nghĩa, kiện toàn những vấn đề cơ bản của triết học mác xít (Bút ký
triết học).
Tháng 10 năm 1917, Lênin từ Phần Lan trở về Peterburg xây dựng, thông
qua kế hoạch khởi nghĩa vũ trang và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để toàn
Đảng, toàn dân và binh lính sẵn sàng hành động. Tối ngày 6 Tháng Mười Một
1917, V.I. Lê-nin đến Cung điện Smolnưi trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Đến
rạng sáng ngày 7 Tháng Mười một 1917 (dương lịch), toàn thành phố
Petersbuorg nằm trong tay những người khởi nghĩa, và đến đêm ngày 7 Tháng
Mười Một 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga đã toàn thắng. Chính quyền đã về
tay nhân dân. Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới do Đảng của giai cấp
vô sản lãnh đạo đã ra đời.
Lênin đã lãnh đạo nhân dân Liên Xô vượt qua khó khăn thực tiễn của đất
nước, đánh bại âm mưu của bọ phản động trong cuộc nội chiến và đẩy lùi chính
sách can thiệp của 14 nước đế quốc (1919 – 1920).
Ngày 30 Tháng Tám 1918, Lênin bị ám sát và bị thương nặng, nhưng sau
đó ít lâu sức khoẻ hồi phục, Lênin là người sáng lập Quốc tế Cộng sản (1919).
Năm 1921 chính sách NEP (chính sách kinh tế mới) của Lênin được thông qua
tại Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Nga. Năm 1922 Lênin ốm nặng. Trong
diễn văn cuối cùng đọc tại hội nghị toàn thể Xô Viết đại biểu thành phố Mát xcơ
va (ngày 20 Tháng Mười một 1922) Lênin tin tưởng rằng thi hành chính sách
NEP nước Nga sẽ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa. Tháng Chạp 1922 đến
Tháng Ba 1922 Lênin đọc ghi âm lại một số bài báo quan trọng như: Những
trang nhật ký, Bàn về hợp tác hóa, Bàn về cách mạng của chúng ta, Thà ít mà
tốt; Thư gửi Đại hội.
Ngày 21 Tháng Tư 1924, Lênin qua đời ở làng Gorki (Mát xcơ va).
1.2.Giới thiệu về tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư
bản"được Lênin viết trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng sáu năm
1916 trong hoàn cảnh:
Về kinh tế - xã hội:
Lực lượng sản xuất:
Cách mạng Khoa học - Kỹ thuật đã có bước phát triển rực rỡ, các thành
tựu khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống, quy
mô sản xuất không ngừng mở rộng, tạo tiền đề từ Chủ nghĩa Tư bản chuyển từ
tự do cạnh tranh sang độc quyền.
Sự phát triển và ứng dụng mạnh mẽ của động cơ điện trong sản xuất, sự phát
triển của giao thông vận tải, đường sắt, đường hàng không đã dẫn đến hàng loạt
những ngành công nghiệp mới, với quy mô cực kỳ lớn ra đời.
Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc đã thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung tư bản, đẩy nhanh sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Khủng hoảng kinh tế diễn ra:
Trong thời kỳ này, các cuộc khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa
nổ ra hầu hết ở khắp các nước tư bản. Có thể kế đến là: cuộc khủng hoảng tài
chính 1825; khủng hoảng thị trường chứng khoán ở Anh, Đức, Hà Lan (1836 1837); khủng hoảng tài chính diễn ra ở Mỹ (1861) và tiếp theo vào năm 1914
khủng hoảng tài chính tiếp tục diễn ra ở đây, hàng loạt những cường quốc tham
gia vào cuộc chiến tranh này, thi nhau bán cổ phiếu lấy tiền chi trả cho quân sự.
Các cuộc khủng hoảng nổ ra đã đẩy hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ rơi
vào tình trạng phá sản, dẫn tới quá trình tích tụ và tập trung tư bản với quy mô
lớn chưa từng thấy đã xảy ra. Các công ty cổ phần ra đời và phát triển mạnh mẽ,
hình thành những quy mô sản xuất lớn, từ đó thúc đẩy chủ nghĩa tư bản độc
quyền ra đời.
Cạnh tranh:
Vào giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, việc phát triển nền kinh tế
thị trường tự do được diễn ra chưa từng có trong lịch sử kinh tế của nhân loại,
điều đó đã thúc đẩy quá trình hình thành các tập đoàn tư bản lớn và xuất hiện
các tổ chức độc quyền.
Về mâu thuẫn trong xã hội:
Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản: đến thế kỷ XIX với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền thì giai cấp công
nhân ngày càng trở nên đông đảo. Nhưng ở bên kia, sự áp bức bóc lột về chế độ
độc quyền với người lao động ngày càng nặng nề hơn. Với những cuộc chiến
tranh xâm lược làm cho giai cấp vô sản ngày càng bần cùng hóa đi. sự giác ngộ
của giai cấp công nhân ngày càng tăng lên, phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân liên tục nổ ra ở hầu khắp các nước. Điển hình như công cã Pari
(1871), sự xuất hiện của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế 2).
Mâu thuẫn giữa các nước tư bản với các dân tộc thuộc địa phụ thuộc: các
cường quốc kinh tế đã tiến hành cuộc xâm lược thuộc địa, hình thành hệ thống
khắp nơi trên thế giới và các nước đế quốc tiến hành bóc lột khắc nghiệt, tàn bạo
với nhân dân các nước thuộc địa, làm cho nhân dân thuộc địa trở nên lầm than,
điêu đứng, điều đó đã đẩy cao mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với các
nước đế quốc, từ đó xuất hiện phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mâu thuẫn ở giữa các nước đế quốc với nhau: xung đột lợi ích, tranh giành
thuộc địa và khu vực ảnh hưởng, quy luật phát triển không đồng đều giữa các
nước tư bản đã làm cho các nước này mâu thuẫn lẫn nhau. Đến cuối thế kỷ XIX,
nước Anh mất dần vị trí bá chủ trên thế giới, Mỹ đã đuổi kịp vượt xa Anh về
khoa học kỹ thuật, đứng đầu thế giới về công nghiệp, khoa học kỹ thuật, tương
quan lực lượng thế giới thay đổi, các nước tư bản phát triển sau đòi phân chia lại
hệ thống thuộc địa, làm xuát hiện một loạt cuộc đấu tranh giữa các nước đế quốc
như: Mỹ - Tây Ban Nha (1898), Nga - Nhật (1904 - 1905)... đỉnh cao là cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất giữa 2 tập đoàn đế quốc Anh - Đức.
Về chính trị tư tưởng:
Các lý luận gia Tư sản - bọn tay sai của giai cấp Tư sản trong phong trào
công nhân, bọn cơ hội chủ nghĩa đã ra sức "tô son, chát phấn" bênh vực cho chủ
nghĩa tư bản. Họ cho rằng chủ nghĩa đế quốc là một bản tính vĩnh cửu của lịch
sử xã hội loại người, là xu hướng phổ biến vốn có, họ đặt ra những viễn tưởng
về chủ nghĩa tư bản.
Trong phong trào công nhân quốc tế: chủ nghĩa cải lương, cơ hội ráo riết
hoạt động, xuất hiện những bọn xã hội Xô – vanh, là nguy cơ đối phong trào
cách mạng đương thời: Xêđơman, Vandabanto (Bỉ)...
Quốc tế II sau khi Ăngghen mất đã bị bọn cơ hội thao túng, truyền bá chủ
nghĩa cơ hội hữu khuynh, có hại cho phong trào cộng sản công nhân quốc tế.
Với toàn bộ những hoàn cảnh trên, đòi hỏi phải có những phân tích khoa học
về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chỉ rõ nguyên nhân các cuộc đấu tranh
đang diễn ra, các mâu thuẫn của thời hoàn cành đó, cần phải có một tác phẩm để
vạch trần bộ mặt của bọn phản động cơ hội xét lại, khẳng định tính đúng đắn và
giá trị của học thuyết Mác.
Sự ra đời của tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản” được Lênin đã viết vào mùa xuân năm 1976 tại Thụy Sĩ và được
xuất bản lần đầu tiên ở Nga năm 1977. Tác phẩm được tái bản nhiều lần bằng
các thứ tiếng khác nhau trên thế giới.
1.1.2.Nội dung khái quát và kết cấu tác phẩm
Kết cấu tác phẩm
Tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" được
Lênin viết với kết cấu chặt chẽ. Ngoài 2 lời tựa phần mở đầu cho các lần xuất
bản thì tác phẩm gồm 10 chương, với các nội dung sau:
Chương I: Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Chương II: Các ngân hàng và vai trò mới của chúng
Chương III: Tư bản tài chính và bọn đầu sọ tài chính
Chương IV: Xuất khẩu tư bản
Chương V: Việc phân chia thế giới giữa các liên minh của bọ tư bản
Chương VI: Việc phân chia thế giới giữa các đại cường quốc
Chương VII: Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn đặc biệt của chủ nghĩa tư bản
Chương VIII: Tính ăn bám và sự thối nát của chủ nghĩa tư bản
Chương IX: Phê phán của chủ nghĩa đế quốc
Chương X: Vị trí của chủ nghĩa đế quốc trong lịch sử
Trong lời tựa được viết tại Pêtơrôgrát tháng 4 năm 1917, Lênin lưu ý người
đọc rằng cuốn sách được viết vào mùa xuân 1916 tại Thủy Sĩ, bị chế độ kiểm
duyệt Nga Hoàng làm cho nội dung bị cắt xén, có chỗ bị biến dạng. Lần xuất
bản này, trong điều kiện tự do, không phải dùng lối nói của "người nô lệ".
Nội dung:
Trong tác phẩm, Lênin đã phân tích về các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn phát triển mới. Đồng thời, Lênin nêu lên định nghĩa
tổng quát về chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra bản chất thực của chủ nghĩa đế quốc và
phê phán nó.
Trong phần mở đầu, Lênin đã nhắc đến các cuộc chiến tranh Tây Ban Nha Mỹ (1898) và Anh - Bôe (1899 - 1902) coi như là cái mốc của sự chuyển biến
chủ nghĩa tư bản cũ thành chủ nghĩa tư bản đế quốc và xác định nội dung của
tác phẩm là "sẽ cố gắng trình bày sơ lược và hết sức giản đơn mối liên hệ và sự
tương quan giữa các tính chất kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc... không
bàn đến những mặt khác ngoài mặt kinh tế của vấn đề".
Những thật ra đó chỉ là cách viết để trách sự kiểm duyệt gắt ghe của chế độ
Nga Hoàng. Từ sự phân tích kinh tế, Lênin đã rút ra những vấn đề chính trị của
chủ nghĩa đế quốc và từ đó đưa ra những kết luận về chính trị. Tác phẩm được
Lênin thường dùng lối nói bóng, trích dẫn những đoạn văn của các học giả Tư
sản để nói lên chính kiến của mình, ngôn ngữ phổ cập, nhiều dẫn chứng cụ thể,
nhiều sự kiện lịch sử cụ thể nhằm phổ biến cuốn sách đến toàn thể nhân dân lao
động, làm cho những nội dung lý luận phức tạp được tiếp thu một cách dễ dàng.
Trong 10 chương của tác phẩm, có sáu chương đầu Lênin tập trung phân tích
những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, của bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. Bốn chương còn lại Lênin tập trung tổng kết
những luận điểm đã được trình bày trong các chương trên, nêu lên định nghĩa
tổng quát về chủ nghĩa đế quốc, tính chất ăn bám, thối nát của chủ nghĩa đế
quốc, phê phán những định nghĩa sai lầm của bọn tư sản đương thời. Từ đó rút
ra bản chất kinh tế và chính trị của chủ nghĩa đế quốc cùng địa vị lịch sử của nó.
1.1.3.Ý nghĩa tác phẩm
Ý nghĩa lịch sử
Vạch rõ tình hình tổng quát của nền kinh tế tư bản thế giới, của những
quan hệ quốc tế vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vạch rõ bản chất kinh tế
của chủ nghĩa đế quốc.
Vạch rõ bản chất của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Đó là cuộc chiến
tranh xâm lược, cướp bóc, phân chia lại thuộc địa, phân chia lại khu vực ảnh hưởng
của tư bản tài chính và hậu quả của nó để lại là chiến tranh điêu tàn trên khắp thế
giới. Đưa cách mạng đi vào cuộc khủng hoảng, đó là bước chuẩn bị và nó cũng chỉ
có thể kết thúc bằng cách mạng vô sản và sự thắng lợi của cách mạng vô sản.
Tác phẩm đã phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác về học thuyết giá trị
thặng dư trên các vấn đề sở hữu, tổ chức quản lý, sản xuất giá trị thặng dư, chỉ
rõ quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản với vô sản trên bình diện quốc tế.
Tác phẩm là sự chuẩn bị về lý luận, về tư tưởng cho cuộc cách mạng
Tháng 10 Nga năm 1917, sự thắng lợi của cách mạng Tháng 10 là bằng chứng vĩ
đại nhất chứng minh cho giá trị của tác phẩm.
Ý nghĩa thời đại
Tác phẩm là nên tảng lý luận để các thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu, phát triển
lý luận về chủ nghĩa tư bản, về sự phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các phương thức
sản xuất. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới rất nhiều thay đổi, biến động.
Chương 2
LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ VIỆC PHÂN CHIA THẾ GIỮA
CÁC LIÊN MINH CỦA BỌN TƯ BẢN TRONG TÁC
PHẨM “CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC, GIAI ĐOẠN TỘT CÙNG
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN”
2.1. Phân chia thị trường thế giới là một tất yếu khách quan của chủ nghĩa
tư bản độc quyền
2.1.1. Tiền đề cần thiết cho sự phân chia thị trường thế giới
Lênin đã khẳng định phân chia thị trường thế giới là một tất yếu khách
quan khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền,
khi mà tổ chức độc quyền trở thành phổ biến và thống trị trong thế giới tư bản,
cạnh tranh gay gắt giữa chúng đã đưa đến sự thỏa thuận phân chia thị trường thế
giới, hình thành các tôt chức độc quyền quốc tế. Bản chất của độc quyền là xu
hướng bành trướng sự thống trị.
Lênin viết: “Các liên minh độc quyền của bọn tư bản – Các-ten, Xanh-đica, Tơ-rớt – chia nhau trước hết thị trường trong nước bằng cách chiếm lấy, ít
nhiều hoàn toàn, nền sản xuất trong nước họ. Nhưng dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, thị trường trong nước lại tất nhiên gắn liền với thị trường bên ngoài. Chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra thị trường toàn thế giới từ lâu rồi. Do việc xuất khẩu tư
bản tăng lên, và những quan hệ với nước ngoài và với các thuộc địa, cũng như
những “khu vực ảnh hưởng” của các liên minh độc quyền lớn nhất được hết sức
mở rộng, nên “tự nhiên” tình thế đã đưa đến một sự thỏa thuận quốc tế giữa
các liên minh này, đưa đến sự hình thành những Các-ten quốc tế.”[16, 462]
Nguyên nhân của việc phân chia ấy chính là sự cạnh tranh và xuất khẩu tư
bản tăng dần lên thì những quan hệ với nước ngoài, với những thuộc địa và
những “ khu vực ảnh hưởng” của các tập đoàn độc quyền lớn nhất được mở rộng
bằng nhiều cách. Điều đó đã dẫn đến những hiệp nghị liên minh quốc tế giữa các
tập đoàn quốc tế lớn nhất hình thành những tổ chức siêu độc quyền.
Trong tác phẩm, Lênin đã dẫn ra sự hình thành tổ chức độc quyền quốc tế
về điện của hai nước Mỹ và Đức [16, 463-466] qua đó có thể thấy rằng: quá
trình tập trung sản xuất và độc quyền hóa trong công nghiệp điện đã diễn ra
trong phạm vi quốc gia ở mỗi nước, sau đó dẫn đến sự đấu tranh giành giật khu
vực ảnh hưởng trên phạm vi quốc tế giữa hai tổ chức độc quyền khổng lồ A.E.G
của Đức và G.E.C của Mỹ, cuối cùng hình thành tổ chức độc quyền quốc tế về
điện của hai cường quốc đó. Từ đó, cuộc cạnh tranh giữa các Tơ-rớt Mỹ và Đức
chấm dứt, dẫn đến việc ký kết hiệp ước để phân chia thế giới: tổng công ty
G.E.C nhận phần Mỹ và Canada. Tổng công ty A.E.G thì được phần các nước
Đức, Áo, Nga, Hà-Lan, Đan-mạch, Thụy-Sỹ, Thổ, bán đảo Ban-căng.
Tổ chức độc quyền quốc tế ấy chi phối hoàn toàn công nghiệp điện trên
thế giới đến mức “trên quả đất, không có công ty điện nào khác lại hoàn toàn
độc lập đối với hai “cường quốc” về công nghiệp điện ấy được. Lênin vạch rõ:
“Dĩ nhiên là cạnh tranh với tơ-rớt ấy – trên thực tế đó là tơ-rớt duy nhất
và bao trùm cả thế giới – thì khó khăn biết chừng nào; nó chi phối một số tư
bản hàng mấy tỷ và có các “chi nhánh”, các cơ quan đại diện, đại lý, liên hệ, v.
v. ở khắp mọi nơi trên thế giới”.[16, 465-466]
Lênin cũng đã chỉ ra tiền đề cần thiết cho sự phân chia thị trường thế giới
chính là sự phát triển và mở rộng thị trường của chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển
không đều giữa các nước và các khu vực khác nhau trong chủ nghĩa tư bản cũng
là điều kiện để cho các nước tư bản chủ nghĩa phát triển hơn, mở rộng thị trường
sang các nước tư bản kém phát triển. Chính sự phát triển không làm cho việc tìm
kiếm thị trường của các nước, các khu vực phát triển hơn trở thành bức bách khi
yêu cầu, khi yêu cầu đó không giải quyết được bằng các quan hệ kinh tế thì tất
tất yếu dẫn đến chiến tranh để giành thị trường. Và thực tế, chiến tranh thế giới
lần thứ nhất và lần thứ hai đã nổ ra nhằm mục đích chia lại lãnh thổ và thị
trường thế giới giữa các cường quốc đế quốc chủ nghĩa là một minh chứng.
2.1.2. Nguồn gốc dẫn đến phân chia thị trường thế giới
Trong những năm 80 của thế kỷ thứ XIX, trên cơ sở cạnh tranh và tập
trung sản xuất cao, các độc quyền tư bản chủ nghĩa hình thành rồi trở thành phổ
biến và chiếm vị trí thống trị trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi đó, các tổ
chức độc quyền với bản chất bành trướng đã không ngừng mở rộng sự thống trị
ra phạm vi quốc tế, thực hiện phân chia thị trường thế giới.
Tổ chức độc quyền tư bản tài chính đã đẩy nhanh quá trình tích tụ tập
trung sản xuất, mở rộng quy mô tư bản, mở rộng thị trường. Lênin viết: “Tư bản
tài chính lại them vào động cơ đấu tranh để giành nguồn nguyên liệu, để xuất
khẩu tư bản, để giành “khu vực ảnh hưởng” – nghĩa là các khu vực giao dịch
có lợi, các tô nhượng có lợi, lợi nhuận độc quyền,v.v”[16, 535]
Như vậy, tổ chức độc quyền và sự bành trướng thống trị của chúng ra
phạm vi quốc tế là nguồn gốc và là nguyên nhân cơ bản làm cho thị trường thế
giới bị phân chia.
2.2. Những biểu hiện của phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh
độc quyền tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
2.2.1. Chủ thể phân chia thị trường thế giới trong chủ nghĩa tư bản độc quyền
Trong thời đại chủ nghĩa tư bản độc quyền, các liên minh độc quyền tư bản là
chủ thể chính trong phân chia thị trường thế giới. Lênin đã nêu lên các dẫn chứng về
sự phân chia thị trường thế giới trong các ngành khác nhau giữa các liên minh độc
quyền tư bản như: hai liên minh độc quyền tư bản trong lĩnh vực điện lực AEG
(Đức) Và GEC (Mỹ), mỗi liên minh độc quyền này chi phối hàng tram công ty khác
nhau. Công ty AGE thống trị từ 175-200 công ty…Công ty GEC cũng là một doanh
nghiệp “liên hiệp” rất lớn, phạm vi hoạt động của nó ở cả Châu Mỹ và Châu Âu [16,
463-464] đã thỏa thuận chia nhâu thị trường điện thế giới.
Cuộc phân chia giữa các Tờ-rớt Mooc-gan là “Công ty thương mại hàng
hải quốc tế” của Anh và Mỹ với công ty Lô-ít ở Bắc Đức trong ngành hàng hải
thương mại…đây chính là các mien minh độc quyền tư bản của các nước tư bản
tiên tiến nhất lúc bấy giờ.
Ngoài ra, một mầm mống phôi thai của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước sau này đã xuất hiện đó là “tổ chức của chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Lênin
nhận xét rằng: “ở đây, chúng ta thấy rõ rằng tổ chức độc quyền của tư nhân và
tổ chức độc quyền nhà nước hòa với nhau làm một trong thời đại tư bản tài
chính, và thực tế, cả hai đều chỉ là những mắt xích của cuộc đấu tranh đế quốc
chủ nghĩa giữa những bọn độc quyền lớn nhất để phân chia thế giới”.[16, 469]
Như vậy, chủ thể phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền là các tổ chức độc quyền (bao hàm cả tư bản tài chính). Mặc
dù, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đã manh nha hình thành, nhưng nhà
nước tư sản tham gia vào cuộc cạnh tranh này chủ yếu vẫn là vai trò người hỗ
trợ cho các tổ chức độc quyền, chứ chưa đóng vai trò là một chủ thể. Các vùng
nguyên liệu, nơi tiêu thụ hàng hóa và đầu tư tư bản có lợi là đối tượng của sư
phân chia này.
2.2.2. Đối tượng của phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền
Phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
được các chủ thể thực hiện thông qua việc chia nhau vùng đất, lãnh thổ mà mỗi
chủ thể được độc quyền hoàn toàn trong việc tiêu thụ hàng hóa và độc chiếm
nguồn nguyên liệu hoặc thị phần của từng loại hàng hóa mà các chủ thể chia
nhau để cùng thu lợi nhuận độc quyền.
Thị trường mà chúng tìm kiếm là những vùng đất mới, những nơi có đất
đai rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào, giá nhân công rẻ; nguyên liệu mà chúng tìm
kiếm là các mỏ kim loại như sắt, đồng, dầu lửa, cao su, các cây công nghiệp
khác. Tuy nhiên, thị trường trong chủ nghĩa tư bản độc quyền luôn gắn với vùng
lãnh thổ, những nơi đầu tư khai thác nguồn lực, tiêu thụ hàng hóa, cho nên đi
liền với việc tranh giành thị trường, các cường quốc đế quốc tăng cường xâm
chiếm thuộc địa. Việc tìm kiếm thuộc địa đã trở nên ráo riết, vì: “Chỉ có việc
chiếm được thuộc địa mới hoàn toàn đảm bảo cho các tổ chức độc quyền đối
phó có hiệu quả với mọi trường hợp bất trắc trong cuộc đấu tranh với đối thủ
của mình…khi đối thủ muốn tự vệ bằng một đạo luật về chế độ độc quyền nhà
nước. Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự
cạnh tranh ngày càng gay gắt và cuộc tìm kiếm nguồn nguyên liệu trên toàn thế
giới ngày càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm lấy thuộc địa ngày càng
quyết liệt hơn.”[16, 481]. Việc chiếm thuộc địa và những vùng đất mới không
nằm ngoài việc đảm bảo lợi ích độc quyền của tư bản.
Nguồn nguyên liệu tư bản tìm kiếm còn là những nguyên liệu có thể tìm
ra được bằng các biện pháp khoa học, kỹ thuật ở những vùng đất mới. Từ đó,
bọn tư bản tài chính “có xu hướng muốn chiếm lấy thật nhiều đất...vì nó tính đến
cả những nguồn nguyên liệu có thể có và vì chúng sợ bị lạc hậu trong cuộc
tranh giành…”[16,483]
Như vậy, khách thể hay đối tượng của phân chia thị trường thế giới là thị
trường tiêu thụ hàng hóa như điện, thép, dầu lửa, hóa chất… nguồn nguyên liệu
và đi liền với nó là việc phân chia thuộc địa giữa các cường quốc đế quốc để bảo
vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền ở nước mình.
2.2.3. Hình thức chủ yếu của việc phân chia thị trường thế giới trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
2.2.3.1. Phân chia thị trường gián tiếp thông qua xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản là một đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền
và là một trong những nguyên nhân đẩy tới việc phân chia thị trường thế giới.
Đồng thời, xuất khẩu tư bản cũng là hình thức phân chia gián tiếp thị trường thế
giới giữa các liên minh độc quyền tư bản. Lênin đã kết luận phần trình bày về
xuất khẩu tư bản như sau: “Nói theo nghĩa bóng thì các nước xuất khẩu tư bản
đã chia nhau thế giới”[16, 462].
Xuất khẩu tư bản là việc đầu tư tư bản ra ngoài vào những nước chậm
phát triển hơn, những nước lã hậu đã bị lôi cuốn vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư
bản thế giới có giá đất thấp, lao động rẻ để thu lợi nhuận độc quyền cao của “tư
bản thừa”[16, 456]
Bằng hình thức xuất khẩu tư bản, các tổ chức độc quyền thực hiện mở
rộng thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa một cách thuận lợi mà
không phải trực tiếp cạnh tranh với các đối thủ khác, do “việc dùng những mối
liên hệ để ký kết có lợi, đã thay thế cho cạnh tranh trên thị trường công
khai”[16, 460]
Thông qua xuất khẩu tư bản, các tổ chức độc quyền của các cương quốc
tư bản có được những điều kiện thị trường ít nhiều mang tính độc quyền như
những thị trường đã được phân chia giữa chúng. Cho nên, xuất khẩu tư bản là
hình thức gián tiếp làm cho thị trường thế giới bị phân chia.
Như vậy, xuất khẩu tư bản một mặt củng cố sự phân chia thị trường thế
giới, mặt khác, nó là vũ khí đấu tranh chủ yếu giữa các tổ chức độc quyền nhằm
giành thị trường và phạm vi ảnh hưởng. Nó là hậu quả tất yếu của mâu thuẫn
trong quá trình tích lũy tư bản độc quyền, đồng thời cũng là biện pháp để giải
quyết mâu thuẫn đó.
2.2.3.2. Hình thức phân chia thị trường trực tiếp giữa các liên minh độc
quyền tư bản
Lênin đã đưa ra nhiều đẫn chứng để minh họa cho các hình thức phân
chia thị trường
- Thông qua ký kết hiệp ước sáp nhập giữa các tổ chức độc quyền tư bản:
Thông qua các hiệp ước, các liên minh độc quyền tư bản ký kết, thỏa hiệp
với nhau về thị phần và nguồn nguyên liệu, chia nhau quyền chi phối của mỗi
bên ký kết đối với một ngành nào đó, trong khu vực nào đó của thế giới này.
Lênin chỉ ra: trong ngành hàng hải thương mại có những hiệp ước phân chia thế
giới giữa những tờ-rớt Mooc-gan và công ty thương mại Lô-it ở Bắc Đức. Ở
ngành đường sắt, các Các-ten của các nước Anh, Đức, Bỉ đã thỏa thuận chia
nhau thị trường ngoài nước. Trong đó, các Các-ten của “ Anh - 66%, Đức - 27%,
Bỉ - 7%. Thị trường Ấn Độ hoàn toàn được giao cho Anh kiểm soát.”[16, 470]
tương quan lực lượng của mỗi bên tham gia ký kết. “Đến năm 1904…cácten quốc tế của ngành đường ray lại được khôi phục như sau: Anh – 53,5%,
Đức – 28,83%, Bỉ - 17,67%. Sau đó, Pháp cũng tham gia với định mức như sau:
năm thứ nhất là 4,8%, năm thứ hai 5,8% và năm thứ bao 6,4% ”[16,470]. Sự
thay đổi này là do sự thay đổi giữa tương quan lực lượng giữa các bên tham gia
hiệp ước và đã dẫn đến sự phân chia lại thế giới giữa chúng.
- Sự thôn tính chiếm đoạt thị trường giữa các tổ chức độc quyền.
Giữa các liên minh độc quyền tư bản có sự thôn tính, chiếm đoạt thị
trường bằng cách mua lại các nguồn nguyên liệu, các xí nghiệp của nhau, sáp
hợp lại hoặc là tìm cách đẩy đối thủ đến chỗ phá sản để chiếm đoạt.
Lênin đã đưa ra ví dụ minh chứng trong ngành công nghiệp dầu lửa. Cuốc
chiến dầu lửa giữa một bên là tơ-rớt dầu lửa của Rôc-cơ-phen-lơ (Mỹ) với một
bên là các “ngân hàng Đức và các ngân hàng ở Bec-lanh” liên kết với Nga để
chống lại Rôc-co-chen-lơ đã đi đến kết cụ là thất bại của các “ngân hàng Đức”.
[16, 466-468]
- Chiến tranh quân sự cũng là một hình thức mà các cường quốc đế quốc
sử dụng để chia và phân chia lại thị trường thế giới
Đầu thế kỷ XX, các liên minh độc quyền của bọn tư bản – các-ten, xanhdi-ca, tờ-rớt đã hình thành và có sức mạnh to lớn. Cuộc tranh giành thị trường và
thuộc địa giữa các cường quốc trở nên khốc liệt. Do đó, không thể tránh khỏi
những cuộc chiến tranh đế quốc giành thị trường, nguyên liệu, nhân công,…
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc chiến tranh giữa các nước tư bản
phát triển đã nổ ra. Chiến tranh Anh – Bô-ơ (1899-1902); Mỹ - Tây Ba Nha
(1898); Nga – Nhật( 1904 -1905) và cuộc đại chiến đế quốc lần thứ nhất 19121918 chính là cuộc chiến tranh như vậy.
Do đó, chiến tranh không những là hình thức mà các liên minh độc quyền
tư bản muốn dung, mà chiến tranh còn là một chính sách của chủ nghĩa đế quốc,
được các cường quốc đế quốc phát động nhằm vào mục tiêu bảo vệ lợi ích của
độc quyền, lợi ích của giai cấp tư sản, giải quyết mâu thuẫn giữa sự phát triển
của sản xuất và bức tường chắn của các thuộc địa đã được phân chia. Ngoài
chiến tranh ra, chúng không còn cách nào khác để giải quyết mâu thuẫn ấy. Khi
phê phán Cau-xky, Lênin nhấn mạnh: “Thử hỏi, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản,
ngoài chiến tranh ra còn có phương sách nào khác…được chăng”.[16, 502].
2.2.4. Kết quả của sự phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền
2.2.4.1. Những Các – ten quốc tế được hình thành
Kết quả của việc đấu tranh phân chia thị trường thế giới đưa đến sự ra đời
của các liên minh độc quyền quốc tế, mà Lênin gọi là “Các-ten quốc tế”[16,
462]. Những liên minh độc quyền quốc tế này “là mức độ mới của việc tập trung
tư bản và tập trung sản xuất trên toàn thế giới, mức độ đó cao hơn rất nhiều so
với mức độ trước kia” – là mức độ “siêu độc quyền”[16. 462]. Hình thức siêu
độc quyền này biểu hiện thành các hiệp nghị Các-ten và những xí nghiệp chung
của tư bản.
*Hình thành các hiệp nghị Các-ten: để phân định thị trường và quyền
lợi của mỗi bên ở mỗi thị trường. Các hiệp nghị Các-ten quốc tế này đã chi phối
hầu như toàn bộ một ngành công nghiệp nào đó của thế giới như ngành điện,
ngành hàng hải thương mại cũng tương tự.[16, 465-466]
Lênin kịch liệt phê phán luận điểm của một số tác giả tư sản cho rằng:
“những các-ten quốc tế, một trong những biểu hiện nổi bật nhất của của việc
quốc tế hóa tư bản, đã cho phép người ta hy vong rằng, dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, giữa các dân tộc có thể hòa bình”.[16, 471]
Lênin đã vạch trần tính chất phi lý và ngụy biện của những quan điểm đó,
Người nêu rõ: “Về mặt lý luận, thì ý kiến này hoàn toàn phi lý; trong thực tiễn,
đó là một lối ngụy biện và một lối bênh vực bất chính cho chủ nghĩa cơ hội xấu
xa nhất.”[16,471].
Như vậy, Các-ten quốc tế được hình thành trên cơ sở ký kết hiệp ước giữa các
liên minh độc quyền tư bản khổng lồ của các nước tư bản tiên tiến, chúng thỏa thuận
với nhau để phân chia thị trường thế giới, hình thành nên các tổ chức, cơ quan đại
diện ở nước ngoài để thực hiện sự điều hành, phối hợp mọi hoạt động của các công
ty thành viên tham gia hiệp ước và các biến động trên thị trường.
*Hình thành các xí nghiệp chung: trong quá trình cạnh tranh giữa các
liên minh độc quyền tư bản đã tự nguyện hợp nhất lại với nhau thành lập nên
các-ten quốc tế để phân phối sản phẩm sản xuất ra cho thị trường thế giới giữa
các nhóm nhà máy, xí nghiệp của mỗi nước.
Lênin dẫn ra ví dụ trong lĩnh vực sản xuất kẽm cũng hình thành Xanh-đica kẽm quốc tế “một Xanh-đi-ca được thành lập năm 1909 và đã phân phối
chính xác khối lượng sản xuất giữa các nhóm nhà máy: Đức, Bỉ, Pháp, Tây Ba
Nha, Anh”[16, 471. Ở các ngành công nghiệp bồ tạt, ngành thép cũng diễn ra
hình thức tương tự. “Líp – man tính tổng cộng lại thì năm 1897, nước Đức đã
tham dự vào gần 40 các –ten quốc tế, và đến 1910 thì đã tham dự vào gần 100
các-ten”.[16, 471].
Như vậy, các xí nghiệp chung là hình thức tổ chức độc quyền mới trên cơ
sở hợp nhất nhiều công ty, xí nghiệp của nhiều nước cùng sản xuất một loại sản
phẩm nào đó theo hình thức công ty cổ phần, để thực hiện phân chia tỷ trọng của
một loại sản phẩm hàng hóa cho mỗi xí nghiệp, nhà máy thành viên được sản
xuất ra cho thị trường thế giới. Đây là hình thức thứ hai của liên minh đọc quyền
quốc tế.
2.2.4.2. Hệ thống thuộc địa được hình thành và cuộc đấu tranh chia lại thế
giới trong thời đại chủ nghĩa đế quốc
Phân chia thị trường tất yếu sẽ dẫn đến phân chia lãnh thổ, phân chia
thuộc địa. Lênin đã chỉ rõ: “Thời đại chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ cho ta thấy
rằng giữa các liên minh của bọn tư bản, những quan hệ nhất định đã được xác
lập trên cơ sở phân chia thế giới về kinh tế; song với tình hình đó và gắn liền
với tình hình đó, thì giữa các liên minh chính trị, giữa các nước, những quan hệ
nhất định cũng được xác lập trên cơ sở phân chia thế giới về lãnh thổ tranh
giành thuộc địa, tranh giành lãnh thổ kinh tế”[16, 472-473]
Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) các cường quốc đế
quốc đã chia nhau gần hết trái đất, hình thành hệ thống thuộc đia ở khắp Châu
Âu với 74,9 triệu km2 làm thuộc địa.[16, 478]. Tuy nhiên, sự phân chia thuộc và
thị trường giữa các nước đế quốc là không đều nhau. “Vì dưới chủ nghĩa tư bản,
không thể có sự phát triển đều nhau giữa các xí nghiệp, các tờ-rớt, các ngành
công nghiệp, các nước được.”[16, 529].
Tóm lại, lý luận của Lênin đã vạch ra được sự tất yếu của việc phân chia
thị trường thế giới giữa các độc quyền và chỉ ra được đó là một đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa tư bản độc quyền; nó có thể thay đổi về hình thức khi điều kiện
lịch sử thay đổi, song về bản chất và nội dung giai cấp của cuộc đấu tranh sẽ
không bao giờ thay đổi.
2.3. Những biểu hiện mới về phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn
hiện nay
2.3.1. Những nhân tố tác động đến phân chia thị trường thế giới trong giai
đoạn hiện nay
Phân chia thị trường thế giới trong giai đoạn hiện nay đang chịu tác động
của nhiều nhân tố, cả những nhân tố cố hữu thuộc về chủ nghĩa tư bản và cả
những nhân tố mới của thời đại đã làm cho nó có những biểu hiện mới, hơn giai
đoạn trước.
Tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra từ giữa thập kỷ 70 trở lại đây,
cốt lõi là cuộc cách mạng vi điện tử và các thành tựu khoa học lớn nhất của thế kỷ
XX, cho phép tổ chức lại về căn bản công nghệ sản xuất, tổ chức lại những lĩnh vực
đời sống xã hội trên cơ sở công nghệ cao mà các cuộc cách mạng trước đó chưa đủ
điều kiện tạo ra một cách hoàn chỉnh. Đó là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ vũ trụ...những sản phẩm công nghệ cao đã cho
phép tạo ra nhiều sản phẩm trí tuệ, làm xuất hiện những thị trường công nghệ cao,
sản phẩm trí tuệ,... và cuộc chạy đua để chiếm lĩnh thị trường này trở thành mặt trận
mới hiện nay. Những công nghệ mới ra đời, tạo nên một nhân tố phi thường của
quyền lực và sự làm chủ những công nghệ này từ nay có thể xem là có ý nghĩa quyết
định đối với vị thế của một cường quốc cũng như khả năng triển khai sức mạnh trên
quy mô hành tinh.[19, 3].
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đã làm cho hao mòn
vô hình của các thiết bị công nghệ hết sức nhanh, khấu hao nhanh và việc thay
thế công nghệ mới đẩy công nghệ cũ cho người khác trở thành bức thiết. Cho
nên, việc mua bán và chuyển giao công nghệ cũng được diễn ra dưới nhiều hình
thức khác nhau giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
vẫn đề giữ bí quyết công nghệ vẫn được quan tâm, dẫn đến sự phụ thuộc về
công nghệ giữa các nước đi sau với các nước đi trước ngày càng lớn.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của cách mạng khoa học công nghệ đã thúc đẩy
nhanh quá trình phân công chuyên môn hóa và lao động quốc tế; sự phát triển
của công nghệ tin học, điện tử làm tăng khả năng mở rộng thị trường, giao tiếp,
giao dịch, thương mại điện tử được hình thành.
Như vậy, chính sự phát triển của các ngành công nghệ cao và các sản
phẩm của nó đã làm cho cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền có nhiều thay
đổi và diễn ra một cách quyết liệt.
Nhân tố phong trào giải phóng dân tộc:
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm đầu của thập kỷ 70,
130 nước thuộc địa và nửa thuộc địa giành được độc lập, hệ thống thuộc địa và
nửa thuộc địa của bọn đế quốc bị tan vỡ. Sau khi giành được độc lập, mối quan
hệ kinh tế giữa các nước này với các nước tư bản phát triển trở thành mối quan
hệ ít nhiều có tính chất hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau. Các nước tư bản phát triển
không còn áp đặt một cách tùy tiện theo ý muốn của mình, mà trái lại về cơ bản
phải có sự thương lượng theo kiểu “hiệp thương” với các nước đang phát triển.
Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) thực hiện chiếm lĩnh và chi phối thị
trường các nước đang phát triển bằng cách đầu tư cắm nhánh, tọa nên mạng lưới
chinh nhánh rộng khắp toàn cầu, làm cho các nước đang phát triển chịu sự lệ
thuộc về công nghệ, về vốn. Từ những năm 80 trở lại đây, một số nước đang
phát triển có những tiến bộ và vượt lên trở thành những nước công nghiệp mới
(NICs). Nó đưa đến quan hệ dần phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng phần lớn, các nước
đang phát triển hiện nay còn thua kém các nước tư bản phát triển về nhiều mặt,
vẫn trong tình trạng lạc hậu về kinh tế, kỹ thuật...cho nên quan hệ giữa các nhóm
nước này vẫn là quan hệ bất bình đẳng. Thị trường các nước đang phát triển là
một trong những đối tượng cạnh tranh phân chia của các công ty xuyên quốc
gia, của các cường quốc tư bản.
Tác động của toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế:
Toàn cầu hóa khu vực hóa về kinh tế là xu hướng lớn của thời đại, nó làm
đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa sản xuất, ở tiến trình tự do hóa thương mại và
đầu tư làm cho thị trường phát triển cả về bề rộng và bề sâu. Thị trường quốc
gia, khu vực được mở rông, không còn bị bó chặt bởi phạm vi lãnh thổ, mà là
một “biên giới mềm”, rất linh hoạt, luôn co giãn theo sự biến đổi của sức cạnh
tranh thị trường.
Đồng thời, sự phát triển của phân công lao động quốc tế đã làm tăng khả
năng hợp tác quốc tế, đồng thời mở ra khả năng xâm nhập vào thị trường của
nhau giữa các độc quyền các nước ngày càng lớn. Thị trường công nghệ được
hình thành theo từng cấp bậc khác nhau trong chuỗi quá trình chuyển giao công
nghệ của thế giới hiện nay. Quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư được biểu
hiện ở nhịp độ tăng của thương mại và lượng vốn lưu chuyển trên thế giới.
Bên cạnh đó, vai trò điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế quốc tế như Liên
Hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, Hội nghị thượng
đỉnh 7 nước phát triển (G7)... cũng đã thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại, đầu
tư, tài chính. Quá trình sản xuất cũng được quốc tế hóa bởi các công ty xuyên quốc
gia. Độc quyền tư bản đạt tới mức độ cao và phân chia thị trường thế giới diễn ra
dưới những hình thức mới bởi có các chủ thể này tham gia.
Tác động của quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản:
Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản ngày nay chẳng những
không mất đi mà còn biểu hiện rõ rệt hơn. Đó là sự phát triển không đều giữa
các quốc gia, các khối nước và ngay cả giữa các nước tư bản cũng biểu hiện sự
chênh lệch nhau về tốc độ, tiềm lực.
Sự phát triển không đều giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang
phát triển làm cho thị trường các nước đang phát triển trở thành thuộc địa béo bở
nhất để các tập đoàn tư bản, các nước tư bản phát triển tranh giành nhau quyền
chi phối và thống trị.
Đồng thời, sự phát triển không đều đó, đã làm cho cục diện trên thị trường
có nhiều thay đổi so với trước đây và cũng luôn biến động theo mỗi sự biến đổi
về tương quan lực lượng giữa ba trung tâm kinh tế thế giới là Mỹ - Nhật Bản –
Tây Âu; và nó cũng làm cho cuộc đấu tranh chia lại thị trường thế giới trở nên
đa dạng và phức tạp hơn.
Tác động của cạnh tranh và độc quyền:
Cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh độc quyền – cạnh tranh giữa các độc quyền
quốc gia, độc quyền quốc tế, độc quyền nhà nước và độc quyền nhà nước quốc
tế, các hoạt động trong môi trường cạnh tranh.