Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIỂU LUẬN CAO cấp CHÍNH TRỊ XUNG đột sắc tộc, dân tộc TRÊN THẾ GIỚI và NHỮNG vấn đề đặt RA TRONG QUAN hệ dân tộc ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.74 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC

BÀI THU HOẠCH

LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
TÊN MƠN HỌC: LÝ LUẬN DÂN TỘC VÀ QUAN HỆ DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM

TÊN BÀI THU HOẠCH: XUNG ĐỘT SẮC TỘC, DÂN TỘC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ DÂN
TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

- NĂM 2022


2
2

MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
1.
Tôn giáo và tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo
1.1.
Quan niệm về dân tộc, xung đột dân tộc
1.2.


1.3.
2
2.1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ dân
tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc
Xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới trên thế giới
hiện nay và nguyên nhân
Khái quát tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới

1
1
2
2
3
5
7
7

trên thế giới hiện nay
Nguyên nhân xung đột sắc tộc, dân tộc trên thế giới

13

Những vấn đề về quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay

15

3.1.


Khái quát tình hình dân tộc Việt Nam

15

3.2.

Đặc điểm quan hệ dân tộc ở Việt Nam

17

2.2.
3

3.3.

Một số giải pháp thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay

PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

21
26
27

Phần I: MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới đã xảy ra
những cuộc xung đột, trong đó có một số cuộc xung đột liên quan đến dân
tộc, tôn giáo hoặc xen lẫn cả dân tộc và tôn giáo, như: xung đột giữa những

cộng đồng Hồi giáo theo dòng Sunni và Shiite hay các dòng khác nhau ở
trong một quốc gia như: Syria, Iraq; giữa một số quốc gia Ả-rập, Hồi giáo với
nhau và với Israel (Do Thái giáo); giữa Hồi giáo và Công giáo ở Philippines,
Indonesia; giữa Hồi giáo và Phật giáo ở miền Nam Thái Lan, Myanmar,... do


3
3

đó, vấn đề dân tộc và giải quyết mối quan hệ dân tộc, sắc tộc là một trong
những vấn đề cơ bản và cấp bách được đặt ra trong chương trình nghị sự của
nhiều quốc gia ở tất cả các châu lục với quy mơ, tính chất và mức độ, hình
thức khác nhau. Trong đó, lợi ích dân tộc trở thành tiêu chí quan trọng nhất
trong quan hệ dân tộc và là nguồn gốc nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột
dân tộc, sắc tộc, giữa các quốc gia, dân tộc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, ngay trong chủ đề, Đảng ta xác
định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức
mạnh đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[5,
tr.57]. Điều đó phản ánh mối quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam nói riêng
hiện nay là đàn kết, cùng nhau phát triển vì một đất nước thống nhất, thịnh
vượng. Tuy nhiên, bên cạnh nhwgx kết quả đạt được, vấn đề giải quyết mối
quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều
nội dung cần giải quyết, như việc phát triển không đồng đều giữa các tộc
người, các thế lực thù địch ln tìm các chống phá, gây chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Do vậy, việc nghiên cứu “Xung đột sắc tộc, dân tộc trên thế
giới và những vấn đề đặt ra trong quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay” có ý

nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc nhận thức đặc điểm xu thế thời đại, xác
định quan điểm chính sách dân tộc, đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Phần II. Nội dung
1. Cơ sở lý luận


4
4

1.1. Quan niệm về dân tộc, xung đột dân tộc
Hiện nay, ở Việt Nam, thuật ngữ dân tộc thường được hiểu theo hai
nghĩa: dân tộc - tộc người (ethnie) và dân tộc - quốc gia (nation).
Theo nghĩa thứ nhất (nghĩa hẹp), dân tộc là một cộng đồng người ổn
định hoặc tương đối ổn định, được hình thành trong những điều kiện lịch sử
nhất định, có chung nguồn gốc và những đặc điểm tương đối bền vững về
ngơn ngữ, văn hố, tâm lý và ý thức tự giác dân tộc thông qua tự nhận tộc
danh (dân tộc Kinh, Tày, Ê Đê, Chăm...). Theo nghĩa này, dân tộc có những
đặc trưng cơ bản: các thành viên sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ)
để giao tiếp; có chung những đặc điểm sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá
tinh thần, tạo nên bản sắc của văn hố dân tộc; có chung ý thức tự giác dân
tộc (sự tự ý thức về dân tộc mình từ nguồn gốc nhân chủng, ngơn ngữ, sắc
thái văn hoá đến tên gọi; ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của dân
tộc mình). Ý thức tự giác dân tộc trở thành đặc trưng quan trọng nhất để phân
định dân tộc này với dân tộc khác. Ngồi ra, “dân tộc” cịn được dùng với
hàm nghĩa chỉ dân tộc thiểu số.
Theo nghĩa thứ hai (nghĩa rộng), dân tộc là một cộng đồng người cùng
chung sống trên một lãnh thổ, có chung một chế độ kinh tế, thể chế chính trị,
nền văn hố, có một ngơn ngữ chung để giao tiếp và có chung đặc điểm tâm

lý dân tộc, tạo nên ý thức quốc gia - dân tộc. Trong đó, cùng chung một thể
chế kinh tế, chính trị - xã hội là đặc trưng quan trọng; cùng chung một nền
văn hoá là đặc trưng tạo nên bản sắc của mỗi dân tộc.
Xung đột dân tộc là một khái niệm với nội hàm rộng, bao hàm cả xung
đột giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội bộ dân tộc; cả xung đột giữa các tộc
người trong cùng một dân tộc và cả xung đột giữa các quốc gia dân tộc với
nhau. Xung đột dân tộc là một dạng cao của xung đột xã hội, nó diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự,


5
5

tơn giáo và ý thức hệ… Hình thức các cuộc xung đột sắc tộc, dân tộc rất đa
dạng; như xung đột mâu thuẫn quyền lực chính trị giữa các phe phái; xung đột
về tranh chấp lãnh thổ, biên giới giữa các dân tộc; đối đầu, cạnh tranh quyết
liệt giữa các tôn giáo hoặc giữa các giáo phái; tranh chấp về quyền lợi kinh tế,
quản lý, khai thác tài nguyên; xung đột do phân biệt chủng tộc, đòi ly khai
thành lập nhà nước độc lập... Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề xung đột dân
tộc có ý nghĩa quan trọng đối với việc ổn định và phát triển của mỗi quốc gia
dân tộc, cũng như đối với công cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì hịa
bình, độc lập dân tộc, đân chủ và tiến bộ xã hội.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ dân tộc
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu
lên luận điểm nổi tiếng: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa các
dân tộc cũng đồng thời mất theo”[9, tr. 624], một dân tộc đi áp bức một dân
tộc khác thì dân tộc ấy khơng có tự do. Như vậy, theo Mác - Ăngghen: trong
xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ln gắn bó chặt chẽ với

nhau, sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác là nguồn gốc áp
bức, bóc lột của dân tộc này với dân tộc khác. Do đó, giải quyết vấn đề dân
tộc phải ln gắn với vấn đề giai cấp, chỉ có đấu tranh thủ tiêu giai cấp mới
xóa bỏ được nạn người bóc lột người và tình trạng áp bức dân tộc. Chỉ có điều
đó các dân tộc mới thực sự bình đẳng, mới có tự do thực sự và điều kiện phát
triển tồn diện, có sức mạnh để bảo vệ mình.
Kế thừa, bổ sung, phát triển tinh thần của C.Mác - Ph. Ăngghen về quan
hệ dân tộc, V.I. Lênin cho rằng, mọi nguồn cơn của xung đột và chiến tranh đều
do sự tranh giành quyền và lợi ích giữa các dân tộc. Vì vậy, chỉ có một sự quan
tâm lớn lao đến lợi ích của các dân tộc khác thì mới loại trừ được nguồn gốc


6
6

của mọi sự xung đột, mới trừ bỏ được lòng nghi ngờ lẫn nhau, mới trừ bỏ được
nguy cơ gây ra những mưu đồ nào đó, mới tạo ra được lịng tin. Theo đó, V.I.
Lênin đã chỉ ra những nội dung cơ bản mang tính chất cương lĩnh về vấn đề
dân tộc như sau:
Một là, các dân tộc đều có quyền bình đẳng: Bình đẳng là quyền của
mọi dân tộc khơng phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao
hay thấp, khơng phân biệt chủng tộc, màu da. Quyền bình đẳng giữa các dân
tộc được bảo đảm trên tất các các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Đây cũng là
cơ sở lý luận, phương pháp luận để giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế
giới, trong các khu vực hay trong một quốc gia. Theo Lênin: Ngun tắc bình
đẳng hồn tồn gắn chặt với việc bảo đảm quyền lợi của các dân tộc thiểu số,
bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng một cho dân tộc và bất cứ một sự vi
phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ. Thực chất
của bình đẳng dân tộc là xóa bỏ nạn nơ dịch của dân tộc này đối với dân tộc
khác, khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc, để các

dân tộc được tham gia bình đẳng vào các hoạt động của cộng đồng quốc gia
và quốc tế.
Hai là, các dân tộc đều có quyền tự quyết: Quyền tự quyết của các dân
tộc chính là quyền tự chủ đối vận mệnh và con đường phát triển của các dân
tộc, bao gồm: quyền tự quyết định về thể chế chính trị, kể cả quyền phân lập
về chính trị (vì mục đích chung của dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người)
hoặc quyền tự nguyện liên hiệp lại thành khối liên minh các dân tộc trên cơ sở
bình đẳng, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích nhân dân lao động các dân tộc và vì
mục tiêu phát triển hịa bình, phồn thịnh, hữu nghị giữa các dân tộc.
Ba là, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc: Thực chất của nội dung
này là đảm bảo sự thống nhất giữa phong trào cơng nhân với phong trào giải
phóng dân tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, thực hiện liên minh giai


7
7

cấp công nhân các dân tộc chống kẻ thù chung, hồn thành sứ mệnh lịch sử
của giai cấp cơng nhân ở các nước và trên thế giới.
Những luận điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận,
phương pháp luận trong giải quyết vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, đoàn kết,
tập hợp lực lượng cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và quan hệ
dân tộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Người nhận định: chỉ
có kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ với cuộc
đấu tranh giải phóng các giai cấp lao động bị áp bức, bóc lột, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người thì

cách mạng mới thành công và thành công đến nơi.
Để thực hiện được mục tiêu cao cả đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc
xây dựng, tăng cường, phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân trên
nền tảng liên minh cơng - nơng - trí thức, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tập hợp đông đảo
và rộng rãi các lực lượng cách mạng. Bởi, đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm
cho mọi thắng lợi và thành công của cách mạng.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiểu sâu
sắc về sức mạnh khơng gì có thể lay chuyển nổi trong mối quan hệ gắn bó
máu thịt, tình anh em, nghĩa đồng bào từ thuở bình minh “đẻ đất, đẻ nước” đã
giúp cho 54 dân tộc Việt Nam trải qua bao hoạn nạn, biến cố thẳng trầm của
lịch sử, vẫn đoàn kết thủy chung, một lịng giữ cho “non sơng ngàn thuở vững
âu vàng”, trường tồn đến ngày nay mà không kẻ thù nào có thể đồng hóa. Vì
vậy, trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam (ngày 19/4/1946),
Người nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Ê
đê, Xơ đăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt


8
8

Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, no đói giúp nhau...sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết
của chúng ta không bao giờ giảm bớt” [10, tr. 217]. Đánh giá cao vị trí, vai trị
của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách mạng,
ngày 30/11/1968, trong Điện gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên,
Người viết: “Quân và dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh hay Thượng
đoàn kết một lịng, ln ln nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ, thi đua giết giặc, lập cơng, giữ gìn bn rẫy, thu được
những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm

lược. Đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt
chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành
được, luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức
củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến” [10, tr. 414 415].
Với Hồ Chí Minh, trong kháng chiến đã vậy, thì ngày nay, các dân tộc
anh em muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hóa của mình thì chúng ta phải tẩy
trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ
nhau như anh, em một nhà [11, tr. 496], đồng bào các dân tộc, không phân
biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ nhau, để cùng xây dựng Tổ quốc
chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc hạnh phúc, ấm
no [13, tr. 282]. Chống áp đặt, kỳ thị, phân biệt đối xử hay ban ơn trong quan
hệ dân tộc.
Những quan điểm, tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải quyết
vấn đề dân tộc giải phóng với vấn đề giai cấp, về sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân với sự nghiệp cách mạng, thực chất là giải quyết mối quan hệ
giữa các dân tộc trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục
tiêu cuối cùng của các quan điểm, tư tưởng ấy là nhằm bảo đảm quyền tự do,
bình đẳng, được tôn trọng và giúp nhau phát triển, tiến bộ, ai cũng có cơm ăn,


9
9

áo mặc, ai cũng được học hành và phát triển toàn diện giữa các dân tộc. Tư
tưởng về giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh chính là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta trong quá trình hoạch định
các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, vì một Việt Nam hùng
cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới trên thế giới hiện nay và
nguyên nhân

2.1. Khái quát tình hình xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới trên
thế giới hiện nay
Bước sang thiên niên kỷ mới, thế giới đang đứng trước những vấn đề
hết sức phức tạp, trong đó xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới diễn ra khá
rộng khắp và đe dọa nghiêm trọng độc lập dân tộc, hịa bình, ổn định và an
ninh của nhiều quốc gia và các khu vực trên thế giới. Đánh giá tình hình thế
giới hiện nay, Đảng ta khẳng định: Trước tình hình thế giới “đang trải qua
những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hịa
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song đang đứng trước nhiều trở
ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp
tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn… Tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh
tranh, ảnh hưởng của các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan… Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có
thể cịn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Cạnh tranh kinh tế, chiến
tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ,
nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng
quyết liệt” [5, tr. 105 - 106] … “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật
đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều


10
10

nơi với tính chất ngày càng phức tạp”. Có thể nói rằng hiện nay mâu thuẫn và
xung đột dân tộc, sắc tộc đang diễn ra ở khắp các châu lục trên thế giới.
Ở châu Âu, mặc dù với sự hình thành của Liên minh Châu Âu (EU)
làm cho quá trình nhất thể hố về kinh tế, chính trị, tiền tệ diễn ra mạnh mẽ…
nhưng xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn bùng nổ ở nhiều nơi, gây nên tình hình

mất ổn định nghiêm trọng. Điểm nóng đầu tiên phải kể đến là sự phân hoá của
Liên bang Nam Tư do sự xung đột giữa cộng đồng người Xéc-bi và người Bơxni-a Héc-xê-gơ-vi-na với người Crốt-ti-a; kế đến là phong trào ly khai của
người An-ba-ni ở Cô-xô-vô là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc
chiến Cô-sô-vô nồi da nấu thịt năm 2001; cuộc xung đột dai dẳng giữa hai
quốc gia láng giềng ác-mê-ni-a và A-zéc-bai-dan cùng tranh chấp tỉnh Na-gora-nưi Ca-ra-bắc; cuộc chiến giữa cộng đồng người theo đạo Tin lành với
cộng đồng Thiên chúa giáo ở nước Anh; tình hình tranh chấp giữa cộng đồng
người Síp (gốc Thổ-nhĩ-kỳ) với người Síp gốc Hy-lạp và mới đây nhất là cuộc
xung đột chính trị giữa Liên bang Nga với Cộng hồ Gru-zia về vấn đề Ápkha-zia và Nam Ô-sét-tia.
Ở châu Á, điển hình như phong trào địi độc lập của người Cuốc ở I-rắc
và Thổ-nhĩ-kỳ đòi thành lập nhà nước Kuốc-đi-xtăng; phong trào ly khai đòi
độc lập ở Tây Tạng ở Trung quốc do Đạt-lai Lạt-ma theo đuổi từ nhiều năm
qua. Khu vực tây Nam Á vẫn nóng lên với cuộc xung đột kéo dài giữa ấn-độ
và Pa-ki-xtan ở khu vực Ca-sơ-mia. Bên cạnh đó cuộc chiến địi ly khai của
phong trào “Những con hổ giải phóng Ta-min” ở Xri-lan-ca, phong trào địi
độc lập ở Đơng Ti-mo những năm qua và A-xê ở In-đô-nê-xi-a hiện nay; đặc
biệt xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin kéo dài hàng chục năm qua đã giết
hại hàng ngàn người dân vô tội và tạo sự bất ổn nghiêm trong ở khu vực Tây


11
11

Á… đó là những vấn đề phức tạp và nhạy cảm ở khu vực châu Á trước đây
cũng như hiện nay.
Ở châu Phi, các cuộc xung đột đẫm máu giữa các bộ tộc người Hu-tu
và người Tút-xi ở U-gan-đa, phong trào Hồi giáo cực đoan ở An-giê-ri, Xuđăng và cuộc chiến tranh giữa Ê-rơ-tê-ri-a và Ê-ti-ơ-pi. Cịn ở châu Mỹ và
châu Đại dương luôn xảy ra xung đột giữa người gốc Âu với thổ dân bản địa;
vấn đề phân biệt chủng tộc giữa người da đen với người da trắng ở Hoa-kỳ;
xung đột giữa cộng đồng người nói tiếng Pháp với người nói tiếng Anh ở Cana-đa… đã và đang tạo nên nhiều bất ổn cho các châu lục này.
Ở Đông Nam Á, ở một số nước, vấn đề dân tộc sắc tộc hiện nay cũng

hết sức nan giải.
Indonesia có khoảng 250 triệu dân, trong đó có 87% dân số theo Hồi
giáo và 8% theo Công giáo. Xung đột căng thẳng giữa người Công giáo với
người Hồi giáo đã kéo dài ở nhiều nơi. Xung đột giữa người Công giáo và
người Hồi giáo ở quần đảo Maluku với dân số khoảng 3 triệu người, trong đó
người theo đạo Hồi chiếm 55%, theo đạo Công giáo chiếm 44%. Xuất phát từ
tâm lý bị phân biệt đối xử nên đã hình thành những bất đồng giữa hai cộng
đồng tôn giáo này và những mâu thuẫn âm ỉ trở thành xung đột lớn. Những
người Hồi giáo đã thành lập các đơn vị bán quân sự được trang bị vũ khí sẵn
sàng tiến hành cuộc “Thánh chiến” để bảo vệ người Hồi giáo. Xung đột ở
Aceh, một tỉnh có khoảng 5 triệu dân với 98% dân số là người Hồi giáo và là
một trong những tỉnh giàu tài nguyên thiên nhiên của Indonesia với nhiều
dầu, khí đốt, vàng, bạc, cao su. Ngày 18/11/2009, tại Banda Aceh (thủ phủ
Aceh) đã diễn ra một cuộc biểu tình lớn đã làm khoảng 5.000 người thiệt
mạng.


12
12

Philippines có khoảng gần 100 triệu dân, trong đó có 85% người theo
Cơng giáo, 5% tín đồ Hồi giáo,... Cuộc xung đột giữa người Công giáo với
người Hồi giáo do tổ chức Hồi giáo Abu Sayyaf gây ra ở quần đảo Mindanao
(hịn đảo lớn thứ hai của Philippines), phía Nam Philippines với khoảng 20%
người dân trên đảo theo đạo Hồi. Do tình trạng nghèo đói và sự khác biệt về
tơn giáo, đảo đã trở thành cái nôi của phong trào ly khai với sự ra đời của Tổ
chức Mặt trận Hồi giáo giải phóng Moro (MILF) và Mặt trận Giải phóng dân
tộc Moro (MNLF). Cả MILF và MNLF đều chủ trương thành lập nhà nước
riêng ở đảo này. Trong những thập niên qua, khoảng 120.000 người thiệt
mạng vì xung đột giữa hai tổ chức này với quân Chính phủ. Tổ chức Abu

Sayyaf đã gây ra nhiều vụ bắt cóc, cướp của, giết người. Năm 1986, (MILF)
tách khỏi MNLF tuyển mộ 40.000 tay súng và đòi thành lập Nhà nước độc lập
gồm 4 tỉnh có đa số dân Hồi giáo ở Mindanao. Từ đó đến nay, xung đột, bắt
cóc, giết người thường xuyên xảy ra giữa người Công giáo và các nhóm Hồi
giáo tại đây.
Tại Thái Lan: Thái Lan một đất nước mà Phật giáo được coi là quốc
đạo với gần 70 triệu dân, trong đó khoảng 95% dân số theo đạo Phật, còn số
người theo Hồi giáo chỉ khoảng 2,3 triệu, sống tập trung chủ yếu ở 3 tỉnh
miền Nam Thái Lan là: Pattani, Yala và Narathiwat. Ba tỉnh này vốn là của
Malaysia nên hâu hết người dân ở đây là người Mã Lai theo đạo Hồi, trong
khi đó người theo Phật giáo thường là người gốc Thái nên đã bị những người
Hồi giáo coi không phải là người bản xứ. Những người Hồi giáo tại đây cảm
thấy không được chính quyền quan tâm; đa số những chức vụ quan trọng
trong bộ máy hành chính được giao cho người theo đạo Phật trong khi người
Hồi giáo thấy bị mất đất đai, văn hóa truyền thống,... Từ đó, họ ln tìm cách
chống lại, tạo ra những bất ổn của khu vực miền Nam Thái Lan làm hàng
ngàn người thiệt mạng trong các cuộc xung đột giữa người Hồi giáo với cảnh


13
13

sát kể từ khi cuộc chiến tranh du kích địi ly khai bùng phát trở lại vào tháng
01/2004 cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu lắng xuống.
Từ những sự kiện trên cho thấy rằng vấn đề dân tộc, sắc tộc thực sự là
vấn đề phức tạp, căng thẳng gây nên cho các quốc gia những hậu quả hết sức
nặng nề cả về kinh tế, chính trị, văn hố-xã hội và mơi trường; đe doạ hồ
bình, an ninh các khu vực và thế giới. Người ta tính rằng cho đến những năm
cuối của thế kỷ XX, lịch sử loài người đã từng phải hứng chịu khoảng 15.000
cuộc chiến tranh lớn nhỏ, làm khoảng 3 tỷ 650 triệu người chết. Theo bản báo

cáo: “Những cuộc xung đột vũ trang cuối thời kỳ chiến tranh lạnh 1989-1992”
của Viện nghiên cứu quốc tế về hịa bình ở Oslo (Na uy), số lượng các cuộc
chiến tranh nhỏ tăng lên tới 82 cuộc, liên quan ít nhất tới 64 quốc gia, đặc biệt
đẫm máu là ở châu Âu, nơi khơng có chiến sự kể từ 40 năm trước. Các cuộc
xung đột dân tộc năm 1992 làm chết 70.000 người và năm 1995 con số người
chết không dưới 100.000 người. Cũng theo thông tin của Viện này, năm 1989
có 36 cuộc, năm 1994 có 32 cuộc và năm 1995 có 30 cuộc xung đột xảy ra
trong 25 vùng trên thế giới. Theo một thống kê khác, chỉ trong vong 4 năm
sau chiến tranh lạnh (Tính đến tháng 10 - 1995), trên tồn thế giới có 38 cuộc
xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ làm 1,5 triệu người chết, 2,8 người bị
thương và tàn phế, 27 triệu người phải tị nạn chiến tranh.....
2.2. Nguyên nhân xung đột sắc tộc, dân tộc trên thế giới
Mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau: cả nguyên nhân bên trong, ngun nhân bên ngồi;
có ngun nhân trực tiếp, ngun nhân gián tiếp, trong đó nổi lên là do một số
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Những nguyên nhân do lịch sử để lại.


14
14

Đó là những mâu thuẫn từ xa xưa để lại, tích tụ hàng thế kỷ trước đây
và nay khi có điều kiện, những mâu thuẫn này lại trỗi dậy, nếu khơng phát
hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời, rất dễ bùng phát thành xung đột. Mọi
hiềm khích, nhìn chung đều nẩy sinh từ các vấn đề nhạy cảm như sắc tộc, tơn
giáo, tư tưởng, tâm lý, lợi ích kinh tế, lãnh thổ… Các quan hệ trên các lĩnh
vực đó in sâu vào ý thức, tiềm thức của cư dân cộng đồng. Mọi sự động chạm
đến quyền và lợi ích dân tộc, mọi hành động áp bức, xâm lược đều để lại ký
ức sâu sắc trong nhân dân. Vì vậy, các hiềm khích và mâu thuẫn dân tộc trong

lịch sử luôn chất chứa, âm ỉ và khi gặp sự kích động hay có điều kiện thì bùng
phát thành xung đột.
Thứ hai: Do âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực cực đoan trong các dân tộc.
Chủ nghĩa đế quốc đã, đang và sẽ vẫn là nguyên nhân trực tiếp và chủ
yếu gây ra xung đột dân tộc và sắc tộc. Chúng luôn rêu rao đấu tranh cho hịa
bình, nhưng thực chất bên trong lại xúi giục, tiếp tay chia rẽ các dân tộc, hoặc
tìm cách gây mất ổn định để dễ bề thống trị, xâm lược. Hiện nay, chủ nghĩa đế
quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng mâu thuẫn và xung đột dân tộc,
đã kích động chiến tranh để kiềm chế sự phát triển của các dân tộc, xé nhỏ và
làm suy yếu các nước không nằm trong quỹ đạo của chúng. Chúng ra sức lợi
dụng tình hình đó để bán vũ khí, thử nghiệm vũ khí mới, vừa để thực thi áp
đặt chủ nghĩa thực dân mới, chống phá lực lượng cách mạng, tiến bộ, lập
chính phủ thân Mỹ như cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, Cô-sô-vô, LiBăng… Đối với một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chủ nghĩa đế quốc,
đứng đầu là đế quốc Mỹ coi vấn đề dân tộc là mũi tiến công chiến lược, bằng
chiến lược “Diễn biến hịa bình”, tìm mọi cách liên hệ và nuôi dưỡng những
phần tử cực đoan trong các nước XHCN, nhằm chia rẽ đồn kết dân tộc, kích


15
15

động ly khai, đòi “tự trị” để làm suy yếu, đi đến xóa bỏ hồn tồn chế độ xã
hội chủ nghĩa trên thế giới.
Thứ ba: Do sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã tác động lớn đến
vấn đề dân tộc. Phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế thối trào, lực
lượng dân chủ và tiến bộ trên thế giới mất đi chỗ dựa vững chắc. Các lực
lượng tiến bộ ở các dân tộc hoang mang, mất phương hướng chính trị, tình
đồn kết quốc tế suy giảm, dẫn đến suy yếu. Đồng thời, các dân tộc thuộc thế

giới thứ ba gặp nhiều khó khăn hơn trước, họ thiếu đi sự giúp đỡ trực tiếp của
Liên Xô của hệ thống XHCN thế giới, thiếu đi trụ cột giữ vững hịa bình, an
ninh thế giới. Các trào lưu dân tộc chủ nghĩa thừa dịp bùng phát mạnh mẽ
khắp nơi.
Thứ tư: Do sai lầm trong giải quyết vấn đề dân tộc, sắc tộc của các
giai cấp cầm quyền.
Có thể nói, sự bùng nổ xung đột, nội chiến dân tộc có nguyên nhân lớn
từ các chính sách sai lầm của Đảng và nhà nước cầm quyền, điều đó đã được
thực tế chứng minh. Ở các quốc gia đa dân tộc giai cấp cầm quyền và nhà
nước đóng vai trị quan trọng hàng đầu trong giải quyết mối quan hệ dân tộc
(tộc người), cũng như giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, nhiều quốc gia,
thực hiện đồng hóa cưỡng bức, duy trì quan hệ bất bình đẳng dân tộc, phân
biệt, chia rẽ dân tộc theo tư tưởng dân tộc sô vanh, dân tộc hẹp hịi, khơng
quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó bộ
máy cơng chức nhà nước yếu kém năng lực, quan liêu, tham nhũng, tranh
giành quyền lợi mưu cầu lợi ích cá nhân, dẫn đến đời sống nhân dân khổ cực,
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng, làm cho các dân tộc nổi dậy đấu tranh
đòi ly khai, tự trị.


16
16

Thứ năm: Do hệ quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện
đại để lại.
Ngày nay, cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại phát triển như vũ
bão, thúc đẩy mạnh mẽ q trình tồn cầu hóa và khu vực hóa, đồng thời cũng
làm thức tỉnh ý thức dân tộc, xu thế độc lập dân tộc tự chủ, tự cường tăng lên,
cùng với nó là các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc tìm mọi cách cản trở và
cổ vũ, kích động trào lưu ly khai. Mặt khác, do sự phát triển mạnh mẽ của

các phương tiện thông tin, các ấn phẩm qua mạng Internet đã đe dọa nghiêm
trọng bản sắc văn hóa dân tộc. Các dân tộc tìm mọi cách giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc (tộc người), ý thức dân tộc trỗi dậy và dễ bị kích động phát triển
thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đòi ly khai, phân lập.
Thứ sáu: Do sự kết hợp giữa vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo ở từng
quốc gia dân tộc.
Thực chất điều này cũng nằm trong âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa đế quốc lợi dụng vấn đề tôn giáo để gây mâu thuẫn và xung
đột dân tộc. Các cuộc xung đột dân tộc mang mầu sắc tôn giáo đều diễn ra dai
dẳng, không kém phần quyết liệt như: Bắc Ailen, trung Đông, Tây tạng
(Trung quốc). Vấn đề tôn giáo không chỉ ở một quốc gia mà cịn mang tính
khu vực và quốc tế, như: vấn đề đạo Hồi, đạo Thiên chúa.
Những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới từ trước đến nay để
lại những hậu quả hết sức to lớn. Khơng những chỉ ở quốc gia đó, mà cịn
ảnh hưởng lớn đến hịa bình, an ninh khu vực và quốc tế. Trong vài thập kỷ
vừa qua, hàng trăm vạn người đã chết vì chiến tranh xung đột, hàng triệu
dân thường phải chạy tị nạn khắp nơi trong cảnh đói rét khốn cùng, hàng
chục vạn phụ nữ, trẻ em chết đói. Nhất là các cuộc xung đột ở châu Phi, Ban
căng, Áp-ga-ni-xtan, đông Timo, Xéc-bi-a, Cô-sô-vô… Xung đột và nội


17
17

chiến gây ra hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội, sự tàn phá các cơ sở kinh tế,
văn hóa, tiềm lực quốc gia bị suy kiệt. Các dân tộc anh em bị đẩy vào cảnh
huynh đệ tương tàn, thù hằn sâu sắc. Quan hệ tộc người, dân tộc bị rạn nứt,
gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác xung đột dân tộc, sắc tộc phá vỡ sự đoàn
kết quốc tế, làm suy yếu lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo điều
kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động, chia rẽ.

Các nước đế quốc lợi dụng sự tương tàn của thời kỳ hậu chiến tranh ở các
nước, các khu vực để bòn rút tài nguyên, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Nội chiến và xung đột dân tộc, sắc tộc còn để lại hậu quả nghiêm trọng về
môi trường trước mắt cũng như lâu dài. Hàng ngàn tấn hóa chất độc hại, trăm
ngàn tấn vũ khí trút xuống trái đất, điều đó khơng phải ngay một lúc có thể
khắc phục được, mà phải chi hàng chục tỷ đơla trong thời gian dài mới giải
quyết triệt để.
Tóm lại, cịn chủ nghĩa đế quốc thì nguy cơ xung đột dân tộc, sắc tộc
còn hiện hữu, sự bất đồng về lợi ích và tư tưởng bá chủ, áp đặt giá trị của chủ
nghĩa đế quốc lên các dân tộc là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến xung đột
và nội chiến. Xung đột dân tộc, sắc tộc để lại hậu quả to lớn cả về người và
của cho nhân loại. Sức tàn phá của nó nặng nề trên tất cả các lĩnh vực: Kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, mơi trường. Vì vậy chỉ có đứng vững trên lập
trưường của giai cấp cơng nhân, xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân
lao động, vì sự tiến bộ của nhân loại, mới có thể giải quyết dứt điểm các mâu
thuẫn và xung đột dân tộc trên thế giới, xây dựng một thế giới văn minh tiến
bộ.
3. Những vấn đề về quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
3.1. Khái quát tình hình dân tộc Việt Nam


18
18

Theo truyền thuyết, các dân tộc (các tộc người) trong đại gia đình dân
tộc Việt Nam, cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, được nở ra từ
một bọc trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở
mang xây dựng non sông, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay
và biển Đơng bốn mùa sóng vỗ. Bờ cõi dân tộc Việt Nam liền một dải từ
chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây)

đến quần đảo Trường Sa (Đông). Các tộc người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, có truyền thống u
nước, đồn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội,
trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục
địa với Đông Nam á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hố
trong khu vực. Ở đây có đủ 3 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á, ngữ hệ
Nam đảo và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8
nhóm ngơn ngữ khác nhau. Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh,
Mường, Thổ. Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng,
Sán Chay, Tày, Thái. Nhóm Mơn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba na, Brâu, BruVân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ
mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ơi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
Nhóm Mơng - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mơng, Pà thẻn. Nhóm Kađai có 4
dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo. Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là:
Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai. Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái,
Sán dìu. Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lơ lơ, Phù lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngơn ngữ khác nhau,
song do các tộc người sống xen kẽ với nhau nên một tộc người thường biết
tiếng của các tộc người khác có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với
nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các tộc người vẫn lưu giữ được bản


19
19

sắc văn hố riêng của mình. Trong số 54 tộc người, có những tộc người vốn
sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có những
tộc người từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết
sức thuận lợi nên nhiều tộc người ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên
nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống,

rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho
đến trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn
chuyển đến nước ta sau năm 1945, đây là những đợt di cư lẻ tẻ, do nhiều
nguyên do khác nhau. Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các tộc
người rất khơng đều nhau, có tộc người có số dân trên một triệu người như
Tày, Thái... nhưng cũng có tộc người chỉ có vài trăm người như Pu-Péo, Rơmăm, Brâu... Trong đó, tộc người Kinh là tộc người đa số, chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng đồn
kết, đóng vai trị chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước
và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
3.2. Đặc điểm quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam, với đặc thù là một quốc gia đa tộc người. Quá trình phát
triển cùng với các tộc người bản địa sinh sống làm ăn, thì một số tộc người từ
các vùng khác di cư đến và định cư ở Việt Nam, cùng với nhiều lý do khác
nên quan hệ dân tộc ở Việt Nam, cũng có những mâu thuẫn nhất định, nhưng
ở Việt Nam chưa từng xảy ra chiến tranh, hay xung đột giữa các dân tộc.
Tuy số dân và trình độ phát triển mọi mặt, có sự chênh lệch đáng kể,
nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, thương yêu đùm bọc lẫn
nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc
khó khăn. Ở nước ta khơng có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá,


20
20

thơn tính các dân tộc ít người, do đó cũng khơng có tình trạng dân tộc ít người
chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước,
các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp,
tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững

bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn chung các dân tộc trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam đều bình đẳng, đồn kết kể cả trong lịch sử trước đây cũng như hiện
nay. Hay nói cách khác xu hướng chủ đạo của quan hệ dân tộc ở nước ta là
bình đẳng, hợp tác và hịa hợp.
Sự đồn kết gắn bó của các tộc người trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam xuất phát từ một số lý do cơ bản sau:
* Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đồn kết trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc có chung cội
nguồn. Nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết như
truyện "Quả bầu mẹ" giải thích các dân tộc có chung nguồn gốc; truyện “Đơi
chim” đẻ ra hàng trăm, hàng ngàn trứng nở ra người Kinh, người Mường,
người Thái, người Khơ-mú; truyện của dân tộc Ba-na, Ê-đê kể rằng người
Kinh, người Thượng là anh em một nhà; đặc biệt là truyện Lạc Long Quân
lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra trăm người con, một nửa theo
cha xuống biển trở thành người Kinh, một nửa theo mẹ lên núi thành các dân
tộc thiểu số. Vua Hùng được coi là Tổ tiên chung của cả nước. Còn các tài
liệu lịch sử cũng cho thấy, người Việt, người Mường là con cháu của người
Lạc Việt, là chủ nhân của nền văn hố Đơng Sơn. Theo nhiều nhà nghiên
cứu, việc tách nhóm Việt - Mường thành các dân tộc là một quá trình lâu dài,
bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ I, đầu thiên niên kỷ II sau công nguyên.


21
21

Người Tày, Thái, Nùng là những bộ phận của người Tày, Thái cổ, trong quá
trình lịch sử đã tách thành các dân tộc Tày, Thái, Nùng. Người H'mông, Dao
xưa kia có cùng nguồn gốc, sau tách thành các dân tộc H'mơng, Dao và Pà
Thẻn. Cũng có những dân tộc khác nhau về nguồn gốc lịch sử như các dân

tộc La Hủ, Lơ Lơ, Vân Kiều, Sán Dìu... Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch
sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với
nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một nguồn gốc sinh ra, có sự khác
nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là người trong một nước, con
trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai
sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Mặt khác, nước ta ở khu
vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng rất khắc nghiệt,
hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt. Do yêu cầu tồn tại và phát triển ở một
nước nơng nghiệp, trồng lúa nước là chính, cư dân ở Việt Nam phải liên kết
nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây dựng các hệ
thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm bảo phát triển sản xuất.
Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó, giúp đỡ nhau trong
lao động sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn
đạo đức. Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính
tồn cầu, càng địi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức
phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn
hán gây ra. Cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát
huy sức mạnh của khối đồn kết dân tộc và thơng qua cuộc đấu tranh đó, đại
gia đình các dân tộc Việt Nam càng thêm gắn bó chặt chẽ. Cùng với lịch sử
chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta cịn có lịch sử chống giặc ngoại xâm vô
cùng oanh liệt. Đất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao thông
Bắc - Nam, Đông - Tây của khu vực châu Á - Thái bình dương, có tài nguồn
ngun thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý - chính trị, địa – quân sự có


22
22

tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược ln nhịm ngó
và tìm cách thơn tính nước ta. Vì vậy một trong những đặc điểm nổi bật của

lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó
có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu
có và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt
Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh
thắng quân xâm lược. Đoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền
thống nổi bật nhất của các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn
năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát huy cao độ, là một trong
những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Những
thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào cho thấy
khối đại đồn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là
động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của
cách mạng nước ta ngày càng được tăng cường.
* Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau
Ở một số vùng nhất định có những tộc người cư trú tương đối tập trung.
Song nhìn chung các tộc người ở nước ta sống xen kẽ nhau, khơng có lãnh thổ
riêng biệt như một số nước trên thế giới. Địa bàn cư trú của người Kinh chủ
yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các tộc người thiểu số cư trú chủ
yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số tộc người như Khơ me, Hoa,
một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các tộc người thiểu số có sự tập
trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà
xen kẽ với các tộc người khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản
mường. Cách đây chưa lâu (khoảng bốn, năm chục năm), Tây Nguyên nói
chung, Đắc Lắc nói riêng, hầu hết cư dân vẫn là người bản địa, mỗi tộc người


23
23

đều có khu vực cư trú riêng, ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng

cịn rõ ràng thì nay tình hình gần đây đã khác xa và xu hướng này còn tiếp tục
gia tăng. Hiện nay tộc người Kinh cư trú ở Đắc Lắc chiếm tỷ lệ khá lớn; cùng
với người Kinh, các tộc người thiểu số miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào
khu vực này ( kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với số lượng
khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như khơng có tỉnh, huyện nào chỉ có một tộc
người cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 tộc người cư trú như Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm đồng... Phần lớn các huyện có từ
5 tộc người trở lên cư trú. Nhiều xã, bản có tới 3-4 tộc người cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các tộc người ở nước ta, tạo điều kiện
để tăng cường hiểu biết nhau, hồ hợp và xích lại gần nhau giữa các tộc
người. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các tộc người chủ yếu dẫn tới sự
giao lưu kinh tế - văn hoá cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần
nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các tộc người khác nhau
ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đồn kết và hồ hợp giữa các dân
tộc anh em. Cùng với đó thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của Đảng,
Nhà nước làm cho các tộc người ngày càng hiểu nhau hơn, thơng cảm nhau
hơn, xóa đi những tự ti mặc cảm hay những hiềm khích có ngun nhân từ
q khứ, để cùng đoàn kết làm ăn, sinh sống và xây dựng xã hội mới.
Mặc dù đoàn kết là cơ bản và trở thành truyền thống quý báu của dân
tộc ta, nhưng có nơi, có lúc vẫn xảy ra những va chạm trong quan hệ tộc
người, vẫn còn những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc; hoặc do sự
khác nhau về phong tục tập quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi
ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa những người thuộc các dân
tộc cùng sống trên một địa bàn. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trước
tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, trước các hiện tượng nhận thức và
thực hiện khơng đúng một số chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở


24
24


một số địa phương, như chính sách đất đai, chính sách xây dựng và phát triển
các vùng kinh tế mới hay một số chính sách xã hội khác…đẫn đến nảy sinh
một số mâu thẫn giữa các tộc người nhất là giữa người Kinh với một số đồng
bào thiểu số, hay tình trạng phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng lên…
Cùng với đó các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động địi ly khai, kích
động chia rẽ dân tộc, như các vụ ở Tây nguyên những năm qua là một điển
hình. Vì vậy trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay đã bắt đầu xuất hiện
một số xung đột cục bộ, xuất hiện tư tưởng đòi ly khai, rõ nhất là ở tộc người
Khơ me Tây nam bộ, hoặc của một số những kẻ phản động, một số người nhẹ
dạ bị lôi kéo trong đồng bào người Thượng ở Tây nguyên… Do đó việc tăng
cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên và
cấp bách không chỉ của Đảng, Nhà nước mà của cả hệ thống chính trị và của
mỗi người dân Việt Nam.
3.3. Một số giải pháp thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay
Đảng ta luôn khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị
trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Các dân tộc trong
đại gia đình Việt nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN” Để thực hiện tốt quan điểm của
Đảng, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc, cần tập trung thực hiện
một số nội dung cơ bản, đó là:
Một là, xây dựng và phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn
kết dân tộc trở thành động lực xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng những khó khăn về đời sống


25

25

kinh tế, hạn chế về nhận thức của đồng bào dân tộc để gieo rắc những tư
tưởng bất bình đẳng dân tộc nhằm gây nên những vụ xung đột, hiềm khích
nghi kỵ lẫn nhau để phá hoại khối đồn kết, gây mất ổn định chính trị. Bởi
vậy, phải nâng cao cảnh giác, đồng thời tiếp tục gìn giữ và phát huy truyền
thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc, coi đó là nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cho
nên“hơn bao giờ hết, phải phát huy cao độ lịng u nước, ý thức tự hào, tự
tơn dân tộc, nêu cao ý chí và bản lĩnh dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồn kết tồn Đảng, tồn dân vì sự phát triển
đất nước”[5, tr.222]. Đảng, Nhà nước cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
ở các vùng dân tộc để giảm sự chênh lệch về đời sống kinh tế, trình độ văn
hóa, đảm bảo bình đẳng giữa các dân tộc. Đồng thời, đề ra những biện pháp
nhằm chặn đứng âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, củng cố an
ninh, quốc phòng, đưa đất nước tiến nhanh, vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, nhận thức và giải quyết quan hệ dân tộc trên quan điểm giai cấp,
kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc
rộng rãi trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức.
Giải quyết quan hệ dân tộc ln đảm bảo lợi ích của các dân tộc về mọi
mặt trên cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục... sao cho dân
tộc nào cũng được ấm no, hạnh phúc, nhất là các dân tộc ở vùng sâu vùng xa,
vùng khó khăn. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nêu lên:“đại
đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hịa quan hệ lợi ích
giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân”[6, tr.159]. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc cũng như
từng dân tộc theo ngun tắc "bình đẳng, đồn kết, tương trợ giúp đỡ nhau
cùng phát triển”, đồng thời chống kỳ thị dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn,



×