Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm may mặc của hanosimex trên thị trường nội địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.91 KB, 56 trang )


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4: Báo cáo kết quả kinh doanh từ 2004 đến 2006 31
Danh Mục Sơ Đồ Bảng Biểu
Sơ đồ 1 : Mô hình tiêu thụ sản phẩm………………………………………………
Bảng 1 : Sản phẩm sản xuất chủ yếu qua các năm…………………………………
Bảng 2 : Số lượng các cửa hang của TCT qua một số năm…………
Bảng 3 : Kim ngạch xuất khẩu qua một số năm……………………………………
Bảng 4 : Báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 2004 đến năm 2006…………………
Bảng 5 : Các kết quả đạt được của năm 2008, so với 2007 và
1

kế hoạch tháng 1/2009……………………………………………………………
Bảng 6 : TÌnh hình tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường XK……………….
Bảng 7 : Giá trị tiêu thụ sản phẩm may mặc ở thị trường trong nước
Bảng 8 : Doanh thu tiêu thụ theo cơ cấu sản phẩm…………………………………
Bảng 9 : Daonh thu tiêu thụ theo cơ cấu thị trường…………………………………
Biểu đồ doanh thu tiêu thụ mặt hang qua các năm…………………………………
2

Giới Thiệu
1.Sự cần thiết của đề tài.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn
của các quốc gia. Để đạt được sự tăng trưởng và phát triển đòi hỏi các quốc gia phải luôn
nỗ lực phấn đấu không ngừng, đặc biệt là các doanh nghiệp trong nền kinh tế của quốc gia
đó. Việc quyết định ba vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế
nào? càng trở lên quan trọng. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh nhưng nó lại là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho các doanh nghiệp tồn tại, phát
triển. Tiêu thụ giúp quá trình tái sản xuất diễn ra, giúp doanh nghiệp không ngừng nâng


cao vị thế của mình.
Năm 2006 Việt Nam ra nhập WTO đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hội
nhập và phát triển kinh tế. Từ đây nền kinh tế Việt Nam sẽ hoà nhập vàp dòng chảy của
nền kinh tế thế giới. Mỗi biến động của nền kinh tế thế giới đều có ảnh hưởng, tác động tới
Việt Nam, trực tiếp là tới các DN.
Dệt may nói chung và may mặc nói riêng là một trong những ngành chịu ảnh hưởng khá
lớn của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế cho thấy năm 2008 vừa qua khi mà
cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ lan rộng kéo theo sự suy thoái của nền kinh tế thế giới,
nhiều DN xuất khẩu dệt may VN đã gặp rất nhiều khó khăn, có nguy cơ phá sản. Do khủng
hoảng, nên việc xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng sang các thị trường lớn như EU, Mỹ,
Nhật gặp nhiều khó khăn đặc biệt là sản phẩm may mặc. Mà theo dự báo của các chuyên
gia thì khủng hoảng có thể kéo dài sang năm 2010, và còn phải mất một thời gian khá dài
thì nền kinh tế thế giới mới khôi phục được.
Đứng trước bối cảnh chung của nền kinh tế, việc tập trung vào thị trường nội địa là hướng
đi được nhiều Doanh Nghiệp trong ngành Dệt May lựa chọn. Và Tổng Công Ty Cổ Phần
Dệt May Hà Nội – Hanosimex cũng không phải là một ngoại lệ. Là một DN lớn có truyền
thống trong ngành, hàng năm doanh thu từ xuất khẩu chiếm 40-50% tổng doanh thu nhưng
trước sự suy thoái chung của nền kinh tế Hanosimex cũng đang gặp phải không ít khó
khăn. Việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước là một hướng đi giúp DN
giữ vững, ổn định và tháo gỡ khó khăn trong thời điểm hiện tại. Vì vậy, sau một thời gian
được thực tập tại Hanosimex, đề tài mà em lựa chọn nghiên cứu cho chuyên đề của mình
là: “ Biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm may mặc của Hanosimex trên thị trường
nội địa”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
1

Có những biện pháp hữu hiệu giúp DN thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm may mặc của
mình trên thị trường nội địa, để tháo gỡ những khó khăn gặp phải do khủng hoảng kinh tế,
do cạnh tranh, nhằm đảm bảo được mục tiêu phát triển của DN trước mắt và lâu dài.
3. Câu hỏi nghiên cứu.

Chuyên đề thực tập mà em thực hiện nhằm tập trung trả lời các câu hỏi sau đối với DN:
1.Các khó khăn mà Hanosimex gặp phải trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm may mặc
trên thị trường nội địa là gì?
2. Tại sao Hanosimex lại tập trung thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm may mặc trên thị trường nội
địa ở thời điểm hiện tại?
3. Những giải pháp thúc đẩy tiêu thụ mà Hanosimex đã áp dụng ? Những biện pháp trong
thời gian tới ?
4. Số liệu và phương pháp phân tích.
Số liệu thu thập được là số liệu thứ cấp, được cập nhật từ Website của DN, và từ Dệt
May VN,các kết quả, báo cáo từ phòng Kinh doanh, Phòng kế toán,… của Hanosimex.
 Sử dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả để phân tích các số liệu thu thập được.
5. Kết cấu đề tài.

Chương I: Lý Luận Chung Về Tiêu Thụ Sản Phẩm Của Hanosimex Trên Thị
Trường Nội Địa.
Chương II: Thực Trạng Tiêu Thụ Sản Phẩm May Mặc Của Hanosimex Trên Thị
Trường Nội Địa.
Chương III: Một Số Biện Pháp Thúc Đẩy Tiêu THụ Sản Phẩm May Mặc Của
Hanosimex Ở Thị Trường Trong Nước.



2

Chương 1: Lý Luận Chung Về Tiêu Thụ Sản Phẩm May Mặc
Của Hanosimex Trên Thị Trường Nội Địa
I.Những Vấn Đề Cơ Bản Về Tiêu Thụ Sản Phẩm Của Doanh Nghiệp.
1. Khái Niệm Về Tiêu Thụ Sản Phẩm.
Theo nghĩa rộng, tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá, là quá trình
chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ hàng sang tiền, và sản phẩm được coi là tiêu

thụ khi được khách hàng chấp nhận mua và thanh toán tiền hàng.
Tiêu thụ sản phẩm còn được hiểu là một quá trình kinh tế boa gồm nhiều khâu từ việc
nghiên cứu thị trường , xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng, tổ chức sản xuất đến thực
hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng…nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Theo nghĩa hẹp, tiêu thụ sản phẩm đồng nghĩa với bán hàng, đó là việc chuyển dịch quyền
sở hữu sản phẩm, hàng hoá của người bán cho người mua đồng thời người bán thu được
tiền hàng, cụ thể là người bán có nghĩa vụ giao hàng hoá cho người mua và nhận tiền còn
người mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền theo thoả thuận của hai bên.
Có nhiều hình thức và phương thức tiêu thụ sản phẩm. Dưới đây là một số căn cứ để phân
loại:
* Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có :
- Hình thức bán tại kho của Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Hình thức bán qua cửa hàng, quầy hàng.
- Hình thức bán tại các đơn vị tiêu dùng.
* Căn cứ vào khâu lưu chuyển sản phẩm có :
- Hình thức bán buôn
- Hình thức bán lẻ
* Theo phương thức tiêu thụ sản phẩm :
- Bán theo Hợp Đồng và Đơn đặt hàng.
- Bán đấu giá và xuất khẩu hàng hoá.
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa Doanh nghịêp với người tiêu dùng cuối cùng có :
- Hình thức tiêu thụ trực tiếp
- Hình thức tiêu thụ gián tiếp: qua điện thoại, môi giới, internet,…
* Căn cứ vào phạm vi tiêu thụ sản phẩm có:
- Hình thức tiêu thụ nội địa
- Hình thức tiêu thụ quốc tế.
2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm.
a. Đối với nền kinh tế quốc dân.
3


Tiêu thụ là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu góp phần
bảo đảm cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, cân đối giữa cung và cầu, bình ổn giá cả và
đời sống nhân dân. Tiêu thụ giúp cho người tiêu dùng có được giá trị sử dụng mà mình
mong muốn và người sản xuất đạt được mục đích của mình trong kinh doanh. Tạo thêm
công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Qua tiêu thụ, hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái giá trị và đồng
thời vòng chu chuyển Vốn kinh doanh của DN được hoàn thành. Tiêu thụ giúp cho quá
trình tái sản xuất được diến ra liên tục và có điều kiện phát triển. Sản phẩm làm ra được
tiêu thụ thì tính chất hữu ích của sản phẩm mới được xác định, khi đó giá trị và giá trị sử
dụng mới được thực hiện, lao động của người sản xuất hàng hoá nói riêng và của toàn bộ
xã hội nói chung mới được thừa nhận.
b. Đối với Doanh nghiệp.
- Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Doanh
nghiệp được thực hiện theo kế hoạch giao nộp sản phẩm với giá cả và địa chỉ do Nhà nước
quy định. Còn trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định 3vấn
đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Cho ai? Bằng cách nào? Do vậy tiêu thụ trở thành vấn đề sống
còn của Doanh nghiệp.
- Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh và
lợi nhuận của Doanh nghiệp, đồng thời nó cũng chi phối và quyết định đến các hoạt động
nghiệp vụ khác của Doanh nghiệp như: Nghiên cứu thị trường, tạo nguồn hàng, dịch vụ, dữ
trữ,… quyết định sự mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất của Doanh nghiệp và là cơ sở để xác
định vị thế của Doanh nghịêp trên thị trường.
- Tiêu thụ sản phẩm là khâu cơ bản, trực tiếp thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá,
đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Khi sản
phẩm của Doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận
(thị trường chấp nhận). Sức tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy
tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu tiêu dùng và sự hoàn
thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những
điểm mạnh và điểm yếu của Doanh nghiệp.
-Tiêu thụ sản phẩm là tiền đề giúp Doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh

cho loại sản phẩm được tiêu thụ. Thông qua tiêu thụ sản phẩm, Doanh nghiệp nắm bắt
được nhu cầu cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, Từ đó, tiến hành xây dựng các kế
hoạch phù hợp, mở rộng hướng kinh doanh, tạo ra những sản phẩm mới, tìn kiếm khả năng
và biện pháp nhằm thu hút khách hàng…
- Kết quả của tiêu thụ sản phẩm phản ánh kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Đó là kết quả của một chiến lược, của năng lực điều hành, quản lý… Từ đó Doanh
4

nghiệp có thể rút ra những bài học để có những chiến lược tiêu thụ sản phẩm tốt hơn, nhằm
đạt được mục đích kinh doanh của mình.
3. Những nội dung cơ bản của Tiêu thụ sản phẩm.
Sơ đồ 1: Mô hình tiêu thụ sản phẩm
Thị
trường
Nghiên cứu
thị trường
Lập các kế
hoạch tiêu
thụ sản
phẩm
Thị trường
Sản phẩm
Dịch vụ
Giá, dsố
Phân phối
và giao tiếp
Ngân quỹ
Quản lý hệ
thống PP
Phối hợp và

tổ chức thực
hiện các KH
Quản lý lực
lượng bán
Tổ chức
bán hàng
và cung cấp
DV
Quản lý dự
trữ và hoàn
thiện SP
Hàng
hoá
dịch
vụ
Thôn
g tin
TT
5

3.1. Nghiên cứu thị trường.
Đối với tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, thị trường đóng một vai trò rất quan
trọng, quyết định tới sự thành công hay thất bại trong kinh doanh. Vậy nghiên cứu thị
trường là gì? Thực chất nghiên cứu thị trường là quá trình tìm hiểu, thu thập, xử lý thông
tin, là việc phân tích về mặt lượng và chất của cung và cầu của một sản phẩm hay dịch vụ.
Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời các câu hỏi: Sản xuất những sản phẩm gì? sản xuất như
thế nào? sản phẩm bán cho ai? Vì vậy, nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên
đối với các Doanh nghịêp bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hay muốn mở rộng và phát
triển kinh doanh.
Mục đích của nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng tiêu thụ những loại

hàng hoá hay nhóm hàng trên một địa bàn nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định.
Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn nhu cầu thị trường. Tuỳ theo mục
đích và năng lực của mỗi Doanh nghiệp mà có thể tiến hành nghiên cứu thị trường một
cách tổng quan hay chi tiết.
Có thể nói nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặt biệt quan trọng, vì đây là nhân tố có ảnh
hưởng trực tiếp đến khối lượng, giá bán, mạng lưới và hiệu quả của công tác tiêu thụ.
Nghiên cứu thị trường giúp cho Doanh nghiệp nắm bắt được xu hướng, sự biến đổi nhu cầu
của khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của Doanh nghiệp, thấy được các
biến động về thu nhập và giá cả, từ đó có các biện pháp điều chỉnh phù hợp. Đây là một
công việc đòi hỏi nhiều công sức và chi phí. Và khi tiến hành nghiên cứu thị trường sản
phẩm, Doanh nghiệp phải giải đáp được các vấn đề sau:
- Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm của Doanh nghiệp?
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp trên thị trường đó ra sao?
- Doanh nghiệp cần có những biện pháp liên quan gì để tăng khối lượng sản phẩm tiêu
thụ?
- Những mặt hàng nào? thị trường nào? có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn phù hợp
với năng lực và đặc điểm sản xuất của Doanh nghiệp hay đâu là thị trường trọng điểm của
Doanh nghiệp? và đâu là sản phẩm chính?
- Với mức giá nào thì khả năng chấp nhận của thị trường là lớn nhất trong từng thời kỳ?
- Yêu cầu chủ yếu của thị trường: mẫu mã, bao gói, phương thức thanh toán, phương thức
phục vụ,…
- Tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối sản phẩm?
Qua quá trình điều tra, nghiên cứu, phân tích những thông tin thị trường thu thập được
Doanh nghiệp sẽ tiến hành lựa chọn những sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường. Sự
thích ứng ở đây là thích ứng về giá cả, chất lượng, số lượng, thời gian mà thị trường đòi
hỏi, đặt biệt phải phù hợp với năng lực của Doanh nghiệp. Đây là một nội dung rất quan
6

trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động tiêu thụ vì trong nền kinh tế thị trường các
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải cung cấp cái mà thị trường cần chứ

không phải dựa trên cái mà Doanh nghiệp sẵn có.
3.2. Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là việc xây dựng, đề ra các kế hoạch nhằm triển khai các
hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Các kế hoạch này được lập và xây dựng dựa trên kết quả của
công tác nghiên cứu thị trường. Lập kế hoạch tiêu thụ, là cơ sở giúp cho quá trình sản xuất
kinh doanh cảu Doanh nghiệp diễn ra nhịp nhàng và liên tục. Đồng thời đây cũng là căn
cứ để xây dựng kế hoạch hậu cần vật tư và các bộ phận khác của kế hoạch sản xuất- kỹ
thuật – tài chính doanh nghiệp…
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phải đề cập được tới các vấn đề : khu vực thị trường, tập hợp
khách hàng, sản phẩm, giá cả, doanh số, phân phối, giao nhận, dịch vụ khách hàng, ngân
quỹ cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm, các yêu cầu về nhân lực, tài lực, vật lực, cho việc
tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Trong xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, Doanh nghiệp có
thể sử dụng các phương pháp như : phương pháp cân đối, phương pháp quan hệ động,
phương pháp tỷ lệ cố định,… Trong đó phương pháp cân đối là phương pháp được sử
dụng chủ yếu.
3.3. Chuẩn bị hàng hoá xuất bán.
Đây là nghiệp vụ tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh trong khâu lưu thông. Để cho quá
trình lưu thông hàng hoá được liên tục, không bị gián đoạn thì các Doanh nghiệp phải chú
trọng đến các nghiệp vụ sản xuất ở Kho như: tiếp nhận, phân loại, lên nhãn hiệu cho sản
phẩm, bao gói, sắp xếp hàng hoá ở kho- bảo quản và ghép đồng bộ để xuất bán cho khách
hàng. Tiếp nhận đầy đủ về số lượng và chất lượng hàng hoá từ các nguồn nhập Kho theo
đúng mặt hàng, quy cách, chủng loại hàng hoá. Kho hàng hoá của Doanh nghiệp thường
được đặt ở gần nơi sản xuất của Doanh nghiệp. Nếu Kho đặt ở xa nơi sản xuất thì Doanh
nghiệp phải tổ chức tốt việc giao nhận hàng hoá, đảm bảo kịp thời, nhanh chóng, đặc biệt
phải chú ý đến phương tiện vận tải, bốc xếp, thực hiện tiết kiệm chi phí khâu lưu thông.
3.4. Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều hình thức,
hay nhiều kênh khác nhau, theo đó sản phẩm vận động từ các Doanh nghiệp sản xuất đến
tận tay người tiêu dùng cuối cùng.
Kênh tiêu thụ có thể được phân loại theo số cấp của kênh. Ví dụ: Kênh cấp không,

kênh 1cấp, 2cấp hay đa cấp. Trên cơ sở mối quan hệ giữa Doanh nghiệp với người tiêu
dùng cuối cùng, đặc điểm của sản phẩm mà tiêu thụ sản phẩm có thể được thực hiện qua
kênh trực tiếp và kênh gián tiếp.
7

Kênh tiêu thụ trực tiếp là hình thức nhà sản xuất bán trực tiếp sản phẩm mình sản xuất
ra cho người tiêu dùng cuối cùng mà không phải thông qua một khâu trung gian nào. Kênh
này còn được gọi là kênh cấp không. Nó có ưu điểm là giảm được chi phí trong khâu lưu
thông, thời gian sản phẩm tới được tay người tiêu dùng nhanh hơn và các doanh nghiệp
cũng có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng để thăm dò được những ý kiến
phản hồi của họ. Song bên cạnh những ưu điểm kể trên, kênh này cũng có nhược điểm là
Doanh nghiệp phải tiếp xúc với rất nhiều bạn hàng, phải dành nhiều thời gian và công sức
hơn cho qúa trình tiêu thụ, không chuyên môn hoá được sâu hơn vào các khâu khác. Hiện
nay có các phương thức bán trực tiếp như: bán hàng lưu động, bán qua bưu điện, bán qua
các cửa hàng của nhà sản xuất, Internet,
Kênh tiêu thụ gián tiếp là hình thức sản phẩm của Doanh nghiệp tới được tay người
tiêu dùng cuối cùng phải qua 1 hay 1số khâu trung gian nhất định. Với hình thức tiêu thụ
này Doanh nghiệp sản xuất có thể tiêu thụ được một khối lượng lớn trong thời gian ngắn
nhất, từ đó thu hồi vốn nhanh, tiết kiệm chi phí bảo quản và hao hụt. Hơn nữa, các nhà tiêu
thụ sẽ có chuyên môn sâu hơn trong việc phân phối hàng hóa, sản phẩm tới tay người tiêu
dùng cuối cùng. Nhưng bên cạnh đó hình thức tiêu thụ này cũng có nhược điểm là làm cho
thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, tăng chi phí tiêu thụ và việc kiểm soát chặt chẽ được
các khâu trung gian là tương đối khó.
Chính vì vậy, để hoạt động tiêu thụ có hiệu quả Doanh nghiệp cần phải lựa chọn kênh
tiêu thụ sản phẩm 1cách hợp lý. Việc quyết định sử dụng loại hình thức nào hay kênh nào
là tuỳ thuộc vào đặc điểm của hàng hoá, đặc điểm của thị trường cũng như chiến lược và
mục tiêu mà Doanh nghiệp đặt ra.
3.5. Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng.
Quảng cáo là một trong các hình thức truyền tin thương mại mà các chủ thể quảng cáo
muốn truyền tin quảng cáo cho hàng hoá dịch vụ hay chính uy tín hình ảnh của công ty

thông qua các phương tiện truyền tin tới đối tượng người nhận tin là các khách hàng tương
lai. Những thông tin về sản phẩm trong quảng cáo phải nhằm mục đích bán được hàng có
nghĩa là trước hết phải nhằm khuyến khích việc mua hàng của khách hàng tiềm năng để
dẫn họ đến quyết định mua. Có rất nhiều phương tiện quảng cáo khác nhau như: quảng
cáo bằng pano, ap phich, qua báo chí, phát thanh, truyền hình,…
Hoạt động xúc tiến bán hàng là toàn bộ các hoạt động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy cơ
hội bán hàng trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Xúc tiến bán hàng có tác động trực tiếp
tới việc tăng doanh số bằng những lợi ích vật chất bổ sung cho người mua. Những kỹ thuật
xúc tiến thường được sử dụng trong kinh doanh như: Chào hàng, khuyến mại, khuyến
khích mua thử, được dùng thử, giảm giá,…
8

Như vậy, quảng cáo và xúc tiến bán hàng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng vì nó tác
động vào tâm lý khách hàng tạo sự thu thút chú ý của khách hàng tới sản phẩm. Nó giúp
Doanh nghiệp xây dựng được hình ảnh của mình trong tâm trí người tiêu dùng cũng như
hình ảnh của mình trên thị trường. Nó còn có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh thị
trường và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thương trường nhờ đó quá trình tiêu
thụ sản phẩm của Doanh nghiệp được đẩy mạnh cả về số lượng và thời gian. Không
những thế, hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán còn giúp cho Doanh nghiệp có điều kiện
mở rộng quan hệ với khách hàng, giúp cho cung và cầu gặp nhau góp phần thay đổi cơ cấu
tiêu dùng, hướng dẫn thị hiếu khách hàng.
3.6. Tổ chức hoạt động bán hàng.
Bán hàng là một trong những khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Đó là một quá
trình trong đó người bán phải tìm hiểu nhu cầu, kỳ vọng và đáp ứng mong muốn của
người mua nhằm đem lại quyền lợi lâu dài cho cả hai bên mua và bán.
Khách hàng chính là người nuôi sống doanh nghiệp, chính vì vậy mà Bán hàng là một
nghiệp vụ rất quan trọng trong quá trình tiêu thụ. Việc nắm bắt được nhu cầu của khách là
một quá trình. Thông thường, diễn biễn tâm lý của khách thường trải qua 4giai đoạn: Sự
chú ý – quan tâm hứng thú nguyện vọng mua quyết định mua. Vì vậy sự tác động của
người bán tới người mua cũng phải theo trình tự quy luật đó. Người bán hàng phải luôn

làm chủ được quá trình bán hàng về tâm lý, tránh bị khách hàng điều khiển, mà phải luôn
dẫn dắt, hướng khách hàng vào sản phẩm.
Để bán được nhiều hàng các Doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu cảu khách
về chất lượng, mẫu mã, giá cả, dịch vụ đi kèm của sản phẩm,…Trong việc quyết định tổ
chức bán hàng thì việc làm đầu tiên cần phải xem xét đó là Doanh nghiệp sẽ bán dưới hình
thức nào để hàng hoá tới được tay người tiêu dùng cuối cùng, bằng hình thức trực tiếp hay
gián tiếp? Mỗi một hình thức thì đều có những ưu, nhược điểm riêng. Tuỳ vào khả năng
cũng như mục tiêu của Doanh nghiệp mà lựa chọn những hình thức bán phù hợp. Trên thực
tế có các hình thức bán như: bán thông qua đại lý, bán trực tiếp, bán theo hợp đồng, bán trả
góp,
3.7. Phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động tiêu thụ.
Sau mỗi một chu kỳ kinh doanh, Doanh nghiệp cần phân tích đánh giá kết quả hoạt
động tiêu thụ sản phẩm nhằm xem xét khả năng mở rộng, thu hẹp thị trường, rút ra những
bài học, kinh nghiệm qua mỗi một vòng đời sản phẩm để có những kế hoạch, chiến lược tốt
hơn trong giai đoạn tiếp. Khi phân tích cần phải tìm ra được những nguyên nhân của hạn
chế cũng như những kết quả tốt để kịp thời có các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ trong thời
gian tới. Đánh giá hiệu quả tiêu thụ, có thể xem xét trên các khía cạnh như: Tình hình tiêu
thụ sản phẩm theo mặt hàng, theo khu vực thị trường, theo trị giá,…
9

Kết quả của giai đoạn này sẽ là tiền đề, là căn cứ để Doanh nghiệp vạch ra các biện
pháp thúc đẩy tiêu thụ trong thời gian tiếp theo. Vì vậy cần phải tổ chức tốt công tác đồng
thời phải làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như nguy cơ đối với Doanh
nghiệp để Doanh nghiệp có nhưng chiến lược, chính sách kinh doanh phù hợp nhằm đem
lại hiệu quả kinh tế lớn nhất.
4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm.
- Doanh thu tiêu thụ:
DT =∑Pi * Qi
Trong đó:
DT: Tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ

Qi: Khối lượng sản phẩm, hàng hoá i được tiêu thụ trong kỳ
Pi: Đơn giá sản phẩm, hàng hoá i được tiêu thụ trong kỳ
- Lợi nhuận tiêu thụ.
P = ∑DT – ∑CP
Trong đó:
P: Tổng lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
∑DT: Tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ
∑CP: Tổng chi phí tiêu thụ trong kỳ
- Mức lợi nhuận trên doanh số bán, chi phí, vốn kinh doanh:
P1 = (P / DS) * 100%
P2 = (P / CP) * 100%
P3 = (P / VKD) * 100%
Trong đó:
P1: Mức lợi nhuận trên doanh số bán trong kỳ
P2: Mức lợi nhuận trên chi phí trong kỳ
P3: Mức lợi nhuận trên vốn kinh doanh trong kỳ
DS: Doanh số bán thực hiện trong kỳ
CP: Chi phí kinh doanh trong kỳ.
Ngoài ra, còn 1số chỉ tiêu để đánh giá kết quả tiêu thụ của Doanh nghiệp đó là:
- Khách hàng tiêu thụ chủ yếu: 20 – 80 là tỷ lệ vàng về khách hàng mà các Doanh nghiệp
mong muốn. Đó là số lượng khách hàng chủ yếu chiếm 20% trong tổng số khách hàng
nhưng tiêu dùng khối lượng sản phẩm lớn 80% lượng hàng. Giữ chân và phát triển các
khách hàng lớn là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục có ảnh hưởng lớn tới kết quả tiêu thụ
của Doanh nghiệp.
- Khối lượng và danh mục sản phẩm: Chỉ tiêu này cho thấy cầu thị trường hướng vào
Doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp và khách quan về hoạt động tiêu thụ sản
10

phẩm. Chỉ tiêu này tăng cho thấy khả năng đáp ứng sản phẩm theo nhu cầu thị trường của
Doanh nghiệp là khá tốt. Chỉ tiêu này còn cho thấy xu hướng vận động của các sản phẩm

trên thị trường.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ của Doanh nghiệp.
5.1. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
5.1.1 Các chính sách của Nhà nước.
Các chính sách Nhà nước mà phạm vi bài đề cập tới là các chính sách thương mại của
Nhà nước. Nó là một hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp thích hợp mà Nhà nước
áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Mỗi một Doanh nghiệp đều chịu ảnh hưởng rất
lớn từ các chính sách này nhất là đối với ngành Dệt may, sản phẩm may mặc. Trước kia
khi chưa ra nhập WTO hàng may mặc trong nước được Nhà nước bảo hộ, được hưởng thuế
ưu đãi, một số Doanh nghiệp còn được cấp tín dụng ưu đãi. Chính sách thương mại có tác
động đồng bộ đến việc tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho các Doanh nghiệp.
Đồng thời cũng thúc đẩy, tạo ra nhu cầu cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp, buộc các
Doanh nghiệp luôn phải phấn đấu giảm chi phí, tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm.
5.1.2 Môi trường kinh tế quốc dân.
* Yếu tố kinh tế: Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh
của Doanh nghiệp. Các chỉ tiêu như: tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, thu nhập bình quân, tốc
độ tăng trưởng của GDP, lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gửi Ngân hàng, chính sách tài chính,
… Tất cả các chỉ tiêu này đều có ảnh hưởng tới sức mua hàng hoá của người tiêu dùng, nó
còn được ví như máy đo “ nhiệt độ” của thị trường. Ví dụ như khi nền kinh tế suy thoái
làm cho thu nhập giảm, lạm phát cao, người dân có xu hướng cắt giảm khoản tiền cho chi
tiêu. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp đẩy
Doanh nghiệp vào nguy cơ phải thu hẹp sản xuất. Ngược lại nếu nền kinh tế phát triển, lãi
suất và lạm phát có thể kiểm soát, người dân có thu nhập tăng sẽ làm gia tăng sức mua
Doanh nghiệp có cơ hội mở rộng và phát triển kinh doanh do. Chính vì vậy mà sự thay đổi
của các chỉ tiêu kinh tế nói trên đều có thể tạo ra cơ hội cũng như nguy cơ cho Doanh
nghiệp. Tuy không phải tất cả các chỉ tiêu trên đều ảnh hưởng, nhưng mỗi Doanh nghiệp
cần nghiên cứu , xác định xem chỉ tiêu nào có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của mình để có những dự báo cũng như biện pháp khi chỉ tiêu đó thay đổi.

* Yếu tố chính trị, luật pháp. Đây là yếu tố tạo ra khuôn khổ pháp lý của môi trường kinh
doanh để Doanh nghiệp hoạt động. Môi trường kinh doanh có ổn định lành mạnh thì các
thành phần kinh tế mới thiết lập được quan hệ bình đẳng, có sự cạnh tranh công bằng.
Chính những khuôn khổ pháp lý buộc các Doanh nghịêp phải nâng cao trách nhiệm của
11

mình với người tiêu dùng và với các bạn hàng. Các chỉ tiêu thuộc yếu tố chính trị, luật
pháp có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp như: sự ổn định
về chính trị và đường lối ngoại giao, sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp và hiệu lực thi
hành chúng trong nền kinh tế, sự cân bằng trong các chính sách của chính phủ,…Muốn
thành công trong kinh doanh các Doanh nghiệp phải nắm bắt, nghiên cứu dự báo được
những thay đổi hay biến động trong tình hình chính trị, luật pháp nước nhà.
* Yếu tố kỹ thuật công nghệ. Đây là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng và trực tiếp tới kết
quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Trong thời buổi khoa học công nghệ phát
triển từng ngày từng giờ mỗi công nghệ mới phát sinh sẽ thay thế các công nghệ ra đời
trước đó không nhiều thì ít. Kỹ thuật công nghệ phát triển cho phép các Doanh nghiệp đẩy
mạnh năng suất, cải tiến sản phẩm và luôn cho phép ra đời những sản phẩm phù hợp nhất
với nhu cầu thị trường. Nó làm thay đổi cả phương thức kinh doanh của Doanh nghiệp, ảnh
hưởng tới khả năng cạnh tranh và tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp trên thị trường.
Những Doanh nghiệp sở hữu nền công nghệ cao luôn tạo được vị thế và chỗ đứng cho
mình trên thị trường.
* Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố tự nhiên và cơ sở hạn tầng liên quan
đến chi phí sản xuất kinh doanh và các thức sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Các điều kiện tự nhiên như: Khí hậu, thời
tiết, mức độ ô nhiễm môi trường, …Các yếu tố cơ sở hạ tầng bao gồm giao thông, bến bãi,
hệ thống thông tin liên lạc,… Tất cả đều có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh và tiêu thụ
của Doanh nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi cộng với cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ giúp
Doanh nghiệp tiết kiệm chi phí kinh doanh bỏ ra. Ngược lại sẽ làm cho Doanh nghiệp phải
gia tăng chi phí để bảo vệ môi trường, khắc phục những thiếu hụt của cơ sở hạ tầng sẽ làm
giảm lợi nhuận của Doanh nghiệp.

* Các yếu tố về văn hoá xã hội. Mỗi một dân tộc đều có một truyền thống văn hoá riêng,
nó chi phối, ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi mua sắm của con người. Hay nói cách khác nó
tác động tới khuynh hướng tiêu dùng của khách hàng.Ví dụ như đối với các nước theo Đạo
Hồi thì Bò là con vật linh, chính vì vậy mà người ta không bao giờ ăn thịt Bò. Những sản
phẩm từ Bò sẽ không tiêu thụ được ở quốc gia này.
Tương tự như vậy nghiên cứu những vấn đề xã hội như Dân số, sự di chuyển của dân cư,
thu nhập, tốc độ phát triển của dân số…sẽ giúp Doanh nghiệp nắm rõ hơn về tình hình cầu
trên thị trường. Một Doanh nghiệp muốn thành công thì phải sản xuất cái mà thị trường cần
chứ không phải cái mà mình có.
5.1.3 Môi trường tác nghiệp.
* Khách hàng: Khách hàng được hiểu là tập thể hay cá nhân có nhu cầu và có khả năng
thanh toán mong muốn được đáp ứng, được thoả mãn về hàng hoá của Doanh nghiệp.
12

Khách hàng chính là đối tượng phục vụ của Doanh nghiệp,là người nuôi sống Doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, sự phong phú đa dạng trong việc cung cấp hàng hoá
giúp khách hàng có được nhiều sự lựa chọn khi muốn mua một sản phẩm nào đó. Để tiêu
thụ được sản phẩm hay bán được hàng đòi hỏi Doanh nghiệp phải sản xuất những sản
phẩm đáp ứng, thoả mãn được yêu cầu của khách về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất
lượng và giá cả. Để làm được điều này đòi hỏi Doanh nghiệp phải nghiên cứu về khách
hàng để từ đó phân loại tìm ra được khách hàng mà Doanh nghịêp hướng tới là ai? Nhu cầu
của họ là gì? Xu hướng? Có thể nghiên cứu khách hàng theo khu vực địa lý, giới tính, thu
nhập, độ tuổi, tôn giáo,…
* Nhà cung ứng. Nhà cung ứng được hiểu là những người cung cấp hàng hóa, dịch vụ là
đầu vào cho Doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn nhà cung ứng là rất quan
trọng đối với Doanh nghiệp vì nó quyết định tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm của
Doanh nghiệp.Việc cung cấp một cách kịp thời và đúng lúc những sản phẩm mà thị trường
cần sẽ giúp Doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá sản phẩm với khối lượng lớn nhất. Điều
này ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Nhà cung ứng, họ cũng

là những người kinh doanh, cũng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp phải tạo
dựng được mối quan hệ với nhiều nhà cung ứng để đáp ứng đầu vào cho Doanh nghiệp
một cách tốt nhất.
* Đối thủ cạnh tranh: Được hiểu là những người cung ứng các mặt hàng tương tự hoặc có
thể thay thế sản phẩm của Doanh nghiệp trên thị trường. Đối thủ cạnh tranh là nhân tố quan
trọng mà Doanh nghiệp cần phải tìm hiểu khi ra nhập thị trường. Thương trường cạnh
tranh khốc liệt, muốn tiêu thụ được sản phẩm Doanh nghiệp không chỉ sản xuất ra cái mà
thị trường cần mà còn phải nghiên cứu xem đối thủ cạnh tranh của mình là ai? Họ mạnh
hay yếu hơn chúng ta? …Để từ đó có các chiến lược tiêu thụ sản phẩm phù hợp. Nếu đối
thủ cạnh tranh mạnh hơn sẽ tạo ra nguy cơ thu hẹp thị trường, mất lợi nhuận cho Doanh
nghiệp. Ngược lại nếu đối thủ cạnh tranh yếu hơn, Doanh nghiệp sẽ có cơ hội mở rộng thị
trường, nâng cao thương hiệu và uy tín trước người tiêu dùng.
Có hai loại đối thủ cạnh tranh chính mà Doanh nghiệp cần quan tâm đó là :
-Đối thủ cạnh tranh hiện tại: Đây là đối thủ trực tiếp cạnh tranh với Doanh nghiệp, họ
cũng đã xây dựng và có uy tín với người tiêu dùng.
-Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Đây là những Doanh nghiệp chuẩn bị ra nhập thị trường.
* Các trung gian thương mại: Bao gồm các cá nhân, tổ chức giúp Doanh nghiệp trong
khâu lưu thông, phân phối hàng hoá tới tay người tiêu dùng. Đó là những người tham gia
vào vào môi giới, vận chuyển, tuyên truyền, tạo dựng thương hiệu cho Doanh nghiệp, dịch
vụ,… và làm đại lý bán hàng cho Doanh nghiệp. Những hoạt động này của trung gian
13

thương mại dựa trên nguyên tắc “đôi bên cùng có lợi”, họ giúp Doanh nghiệp mở rộng thị
trường, phát triển kênh bán hàng, phân phối lưu chuyển hàng hoá tới người tiêu dùng một
cách hiệu quả nhất, qua đó nhận hoa hồng hay tiền công theo hợp đồng. Ngày nay với sự
phát triển của nền kinh tế, các trung gian thương mại ngày càng khẳng định được vai trò
vủa mình. Sự chuyên nghiệp được thể hiện rất rõ qua những khâu trong quá trình lưu
thông, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Một Doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, ách tắc
trong các khâu lưu chuyển hàng hoá nếu không có các trung gian thương mại.
5.2 Nhân tố bên trong Doanh nghiệp.

5.2.1. Chất lượng sản phẩm.
Có thể nói đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu có tác động đến hiệu quả
tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự quan tâm
của người tiêu dùng không chỉ là giá, mà quan trọng là chất lượng sản phẩm. Người tiêu
dùng sẵn sàng chi trả một số tiền lớn nếu sản phẩm đó đáp ứng được nhu cầu chất lượng
của họ. Chất lượng sản phẩm tốt là nhân tố để tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm trên thị
trường. Nó có vai trò không nhỏ trong việc quyết định đầu ra cho sản phẩm của Doanh
nghiệp. Khách hàng có hài lòng về chất lượng sản phẩm thì mới quay lại để mua. Một sản
phẩm có chất lượng không chỉ thể hiện ở độ bền của nó mà còn có cả công nghệ, sự sáng
tạo được ẩn chứa trong sản phẩm, một sản phẩm chất lượng phải là sản phẩm có kiểu dáng
đẹp, phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.
5.2.2. Hệ thống kênh phân phối.
Đây được coi là huyết mạch đối với Doanh nghiệp. Nó tạo nên dòng chảy hàng hoá từ
người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Nhờ có mạng lưới phân phối mà khắc phục
được những khác biệt về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa nhà sản xuất và người
tiêu dùng. Đặc biệt hơn nữa hệ thống phân phối không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ đưa
hàng hoá sản phẩm từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng mà còn có vai trò thúc đẩy nhu cầu
quảng bá sản phẩm, thu thập thông tin khách hàng ,… từ đó tạo ra động lực phát triển cho
hoạt động sản xuất kinh doanh nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Mà trong lĩnh vực
kinh doanh ai nắm giữ được hệ thống phân phối sẽ nắm được “ động mạch chủ” của nền
kinh tế. Chính vì vậy một Doanh nghiệp muốn thành công thì điều không thể thiếu là phải
xây dựng thiết lập cho mình một hệ thống kênh phân phối phù hợp.
5.2.3. Nguồn nhân lực
Có thể nói con người là yếu tố quan trọng cấu thành nên Doanh nghiệp, vận hành các
hoạt động của Doanh nghiệp và quyết định sự thành bại của Doanh nghiệp. Mọi hoạt động
của Doanh nghiệp đều do con người thực hiện cho dù máy móc công nghệ có hiện đại tới
đâu nhưng vẫn cần bàn tay con người điều khiển. Từ việc phân tích đánh giá, đề ra chiến
lược kinh doanh cho tới khi thực hiện đều là các nghiệp vụ do nhân viên của Doanh nghiệp
14


làm. Sẽ không có hiệu quả nếu thiếu bàn tay con người trong mọi lĩnh vực nhất là kinh
doanh. Vì vậy mà phát triển nguồn nhân lực là một việc làm cần thiế không thể thiếu đối
với Doanh nghiệp.
5.2.4. Cơ chế quản lý.
Mỗi một Doanh nghiệp thì đều có những cơ chế quản lý khác nhau. Nó thể hiện năng lực
quản lý và điều hành của người lãnh đạo. Cơ chế quản lý tốt, nhân viên lao động trong
Doanh nghiệp sẽ làm việc hết sức mình. Hoạt động giữa các khâu sẽ được phối hợp một
cách nhịp nhàng và chặt chẽ, hàng hoá hay sản phẩm đưa ra thị trường sẽ kịp thời và đúng
lúc. Có được một cơ chế quản lý phù hợp là một bài toán khó đối với các Doanh nghiệp
hiện nay. Một số cơ chế quản lý có thể kể đến trong Doanh nghiệp như : Cơ chế quản lý
chất lượng sản phẩm, quản lý nguồn cung ứng,…
5.2.5. Các nhân tố khác.
Ngoài những nhân tố nêu trên còn có một số nhân tố thuộc về bản thân Doanh nghiệp mà
ảnh hưởng tới kết quả tiêu thụ sản phẩm như: Nền nếp văn hoá của Doanh nghiệp, hệ
thống công nghệ thông tin của Doanh nghiệp,…
II. Khái Quát Chung Về Thị Trường May Mặc Việt Nam
1. Đặc điểm về thị trường May mặc nói chung.
- Có thể nói sản phẩm May mặc là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, không một người tiêu
dùng nào là không cần đến nó. Điều này làm cho thị trường các sản phẩm may mặc luôn
sôi động với các hoạt động mua và bán. Cầu về sản phẩm may mặc cũng ít biến đổi, tuy
nhiên mẫu mã và kiểu dáng sản phẩm thì thường xuyên thay đổi, nó phụ thuộc vào xu
hướng thời trang cũng như điều kiện thời tiết của các khu vực.
- Trong nền kinh tế thị trường các ngành công nghiệp đều có liên quan chặt chẽ tới
nhau, ngành công nghiệp Dệt may nói chung và sản phẩm may mặc nói riêng cũng vậy, sự
phát triển của nó kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ khác như
vận tải, Marketing,…Trong Thương mại sản phẩm dệt may nói chung và sản phẩm may
mặc nói riêng là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế và là
một trong những yếu tố quan trọng cần thiết để tăng cường tính cạnh tranh và đảm bảo
giao thương của sản phẩm trên thị trường. Chính vì vậy mà Tổ chức thương mại thế giới
luôn có chế độ bảo hộ mậu dịch có những chính sách đối với hoạt động xuất khẩu hàng

may mặc.
- Đối với những Doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc, đòi hỏi số lượng công nhân lớn,
trình độ không cao nhưng phải có tay nghề, vì để sản xuất ra các sản phẩm phải trải qua rất
nhiều công đoạn. Yêu cầu về vốn và công nghệ đối với sản phẩm may mặc không quá lớn,
điều này làm cho số lượng các Doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất trong lĩnh vực này
15

không ngừng tăng qua các năm, điều này làm cho sự cạnh tranh trên thị trường may mặc
ngày càng cao.
- Đặc trưng của sản phẩm may mặc là loại sản phẩm có yêu cầu phong phú, đa dạng tuỳ
thuộc vào thị hiếu, văn hoá, phong tục, tập quán, tôn giáo, địa lý, khí hậu , về giới tính,
tuổi tác, thu nhập của người tiêu dùng. Điều này làm cho thị trường sản phẩm may mặc
nhiều phân khúc khác nhau.
- Sản phẩm may mặc là sản phẩm mang tính thời trang cao, vì vậy phải thường xuyên
thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc, chất liệu để đáp ứng được tâm lý chuộng cái mới có
những nét độc đáo riêng gây ấn tượng đối với người tiêu dùng. Và một điều cũng không
kém phần quan trọng đó là thương hiệu của sản phẩm trên thị trường, ngày nay khi đưa ra
quyết định mua hàng, người tiêu dùng quan tâm nhiều tới thương hiệu của nó hơn cùng
với tên tuổi của nhà phân phối.
- Do có tính thời vụ, nên yếu tố về thời gian cung cấp sản phẩm may mặc ra thị trường là
rất quan trọng. Hàng cần được giao đúng thời điểm, luôn kịp thời nếu không sẽ bị lỗi mốt
dẫn đến tồn kho.
2. Đặc điểm về thị trường may mặc Việt Nam.
- Với lợi thế về nguồn nhân công, cùng điều kiện tự nhiên phong phú, khí hậu nhiệt đới
gió mùa đã giúp cho Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu hàng Dệt may có tiếng ở khu
vực và trên thế giới. Luôn sôi động với các hoạt động mua và bán, hiện nay trên thị trường
Việt Nam có khoảng 3000 Doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất ở lĩnh vực Dệt may và
may mặc. Điều này làm cho tính cạnh tranh trên thị trường sản phẩm của các Doanh
nghiệp là rất cao.
- Lao động trong ngành may mặc của Việt Nam thường là trình độ không cao, không ổn

định có lúc dư thừa, có lúc lại khan hiếm nên bài toán về nhân công đối với nhiều Doanh
nghiệp là một bài toán khó.
- Trước kia quan điểm của người Việt ta là “ăn chắc mặc bền”, tiến tới là “ăn no mặc
ấm” sản phẩm làm ra chỉ cần đáp ứng tốt nhu cầu về chất lượng, còn về mẫu mã kiểu dáng
không được người tiêu dùng xem trọng. Nhưng ngày nay, khi chuyển đổi cơ cấu sang nền
kinh tế thị trường, kinh tế phát triển đời sống của người dân được cải thiện, thu nhập được
nâng cao thì nhu cầu ăn mặc cũng thay đổi chuyển sang xu hướng “ăn ngon mặc đẹp”. Sản
phẩm không chỉ đáp ứng yêu cầu về chất lượng mà về mẫu mã kiểu dáng cũng phải đáp
ứng được thì sản phẩm làm ra mới tiêu thụ được.
- Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nên nguồn nguyên liệu cho công nghiệp may mặc
cũng trở lên dồi dào, phần lớn các Doanh nghiệp Việt Nam có đầu vào là ở trong nước,
cộng với giá nhân công thấp hơn các quốc gia khác nên các sản phẩm may mặc ở ta có giá
bình quân là thấp.
16

- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự phân hoá giai cấp của người tiêu dùng cũng
khá rõ nét. Điều này làm cho nhu cầu về may mặc cũng có nhiều phân khúc thị trường để
phục vụ người tiêu dùng từ cấp thấp đến cấp cao. Đây cũng là một đặc trưng của ngành
công nghiệp may mặc.
* Những thuận lợi khi ra nhập WTO đối với ngành may mặc Việt Nam.
Vào ngày 17/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương
mại thế giới WTO. Là thành viên chính thức Việt Nam sẽ được hưởng những lợi ích từ
môi trường đầu tư. Đó là sự đầu tư về tài chính, công nghệ từ các Doanh nghiệp Nước
ngoài. Qua đó các Doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ học hỏi được kinh nghiệm quản lý,
điều hành từ các Doanh nghiệp đó.
Không còn bị hạn chế bởi Quota các Doanh nghiệp xuất khẩu Dệt may nói chung và sản
phẩm may mặc nói riêng sẽ có cơ hội xuất hàng ra tất cả các nước trên thế giới. Và các
Doanh nghiệp sẽ được hưởng môi trường thương mại tự do theo đúng nghĩa của nó về
giá cả, chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng…
Tại một số thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam thuế nhập khẩu sẽ đưa xuống mức

bình thường các Doanh nghiệp sẽ có cơ hội tăng thị phần của mình. Cùng với đó là sẽ có
nhiều Doanh nghiệp biết tới Việt Nam, việc tìm kiếm bạn hàng mở rộng đầu ra cũng trở
lên dễ dàng hơn.
* Khó khăn hậu ra nhập WTO.
Hiện nay các Doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cạnh tranh cao ở thị
trường trong nước. Do việc giảm thuế nhập khẩu hàng Dệt may theo đúng cam kết ra
nhập WTO. Điều này làm cho hàng rào bảo hộ ở thị trường trong nước của Doanh
nghiệp bị mất dần, thị trường nội địa bị chia sẻ cho các Doanh nghiệp nước ngoài. Nhất
là ở mảng phân phối , hiện nay ở Việt Nam các cửa hàng nhỏ lẻ chiếm tới 70%, làm ăn
lại riêng lẻ. Việc phân phối sản phẩm trong nước tới tay người tiêu dùng có nguy cơ gặp
nhiều thách thức.
Hơn nữa các Doanh nghiệp còn gặp phải một đối thủ đáng gờm là Trung Quốc, cả về
thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước sản phẩm may mặc của Việt Nam luôn
gặp phải sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt từ các sản phẩm của Trung Quốc. Với lợi thế
giá rẻ, phong phú đa dạng về kiểu dáng và màu sắc các sản phẩm may mặc xuất xứ từ
Trung Quốc đang được lòng người tiêu dùng.
Mất đi sự hỗ trợ của Nhà nước các Doanh nghiệp đang phải đi trên đôi chân của chính
mình. Để đứng vững được trên thị trường đòi hỏi các Doanh nghiệp phải luôn nhạy bén
với thời cuộc, có chiến lược phát triển một cách hợp lý , phải biết liên kết để tạo ra được
sức mạnh tập thể trước các Doanh nghiệp nước ngoài.
17

Ra nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam hoà mình vào dòng chảy của nền kinh tế thế
giới. Mỗi một biến động đều ảnh hưởng, tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh
của các Doanh nghiệp. Đồng thời các Doanh nghiệp còn phải tìm hiểu về các chính
sách, thông lệ, giao ước quốc tế,… để tránh gặp phải những tranh chấp thương mại xảy
ra giữa các bên khi hợp tác làm ăn.
Chương 2. Thực Trạng Tiêu Thụ Sản Phẩm May Mặc Của
Hanosimex Trên Thị Trường Nội Địa.
I. Khái Quát Chung Về Hanosimex.

1. Quá trình hình thành và phát triển.
1.1 Giới thiệu chung về Hanosimex.
 Tên tiếng Việt : Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội.
 Tên giao dịch quốc tế : HANOI TEXTILE AND GARMENT JOINT
STOCK CORPORATION
Viết tắt là : HANOSIMEX
 Trụ sở chính : Số 1 Mai Động Quận Hoàng Mai Hà Nội
 Điện thoại : 043.8621023
 Fax : (84-4)3862334
 Cơ quan quản lý cấp trên : Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam
 Tổng giám đốc : Nguyễn Khánh Sơn
 Địa chỉ Website : http:www.hanosimex.com.vn
 Địa chỉ email :
 Mã số thuế : 0100100826
 Vốn điều lệ : Tính đến cuối năm 2008 là 205 tỷ vn đồng.
 Số lượng phát hành : 20.500.000 cổ phần.
 Giấy đăng ký kinh doanh số : 0103022023 do Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội cấp
ngày 22/01/2008.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển.
Hiện nay Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội, hoạt động dưới hình thức công ty
mẹ_công ty con. Là thành viên trực thuộc của Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam
( VINATEX ) nhưng hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng , có vốn và
tài sản riêng, được mở tài khoản tại các Ngân hàng hay Kho Nhà nước, chịu trách nhiệm
đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác bằng toàn bộ tài sản của công ty mẹ. Được
18

thành lập từ những ngày đầu đất nước được giải phóng, Công ty đã có một bề dày lịch sử
cùng những điểm mốc đáng nhớ.
* 7/4/1978 : Ký kết hợp đồng giữa TECHNO_IMPORT Việt Nam và Hãng
UNIONMATEX ( CHLB Đức )

* 16/9/1978 : Theo quyết định số 457/TTg do Thủ Tướng Lê Thanh Nghị ký thì
tiền thân của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội là Nhà Máy Sợi Hà Nội được thành
lập trên giấy tờ.
* 2/1979 : Công trình được khởi công xây dựng
* 21/11/1984 : Nhà máy sợi Hà Nội chính thức đi vào hoạt động.
* 12/1989 : Thực hiện mở rộng quy mô và phát triển, tổng số vốn đầu tư của công ty
lên tới 8tr USD và dây chuyền sản xuất được hoàn chỉnh.
* 30/4/1991 : Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định đổi tên nhà máy sợi Hà Nội thành Xí
Nghiệp Liên Hiệp Sợi _ Dệt Kim Hà Nội. Ở giai đoạn này công ty đã mở rộng thị trường
xuất khẩu sang Đức và Nhật Bản, đổi mới trang thiết bị công nghệ.
* 19/5/1994 : Bộ Công Nghiệp nhẹ quyết định sát nhập nhà máy Vinh ( Nghệ An )
vào Công ty Dệt Kim Hà Nội.
* 1/1995 : Khởi công xây dựng Nhà Máy thêu Đông Mỹ, đến 2/9/1995 thì khánh
thành và trở thành nhà máy thành viên.
* 19/6/1995 : Bộ Công Nghiệp quyết định đổi tên Xí Nghiệp Sợi_Dệt Kim Hà Nội
thành Công Ty Dệt Hà Nội.
* 28/2/2000 : Bộ quyết định đổi tên thành Công Ty Dệt May Hà Nội.
* Giai đoạn 2000_2005 là giai đoạn phát triển không ngừng trong xu thế hội nhập
của Tổng Công Ty ( TCT ) . Trong giai đoạn này theo yêu cầu của TCT Dệt May Việt
Nam, HANOSIMEX đã nhận nhiệm vụ giúp đỡ và quản lý toàn diện Công Ty Hoàng Thị
Loan, đang trong tình trạng làm ăn xuống dốc. Với sự giúp đỡ này Công Ty Hoàng Thị
Loan đã thoát khỏi nguy cơ phá sản, năng lực sản xuất được khôi phục, đi vào ổn định và
phát triển.
* Năm 2004 được phép của Chính phủ, Bộ Công nghiệp đã ra quyết định (số 177
ngày 30/12/2004) chuyển Công ty Dệt May Hà Nội sang thí điểm tổ chức hoạt động theo
mô hình Công ty mẹ - Công ty con.
* 2005_2007 : TCT triển khai thực hiện mô hình công ty mẹ _ công ty con, và bước
đầu thực hiện cổ phần hoá các công ty thành viên.
* 6/2/2007Bộ Công Nghiệp quyết định thành lập Tổng Công Ty Dệt _ May Hà Nội
trực thuộc Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam theo quyết định số 04/2007/QD_BCN ngày

11/01/2007 của Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp.
19

* 10/2007 : TCT tiến hành cổ phần , đến 1/2008 đổi tên thành Tổng Công Ty Cổ
Phần Dệt May Hà Nội. Trong đó vốn nhà nước chiếm 57.74% vốn điều lệ, còn lại là vốn
cổ đông.
1.3. Các công ty thành viên của Tổng Công Ty và năng lực sản xuất.
1.3.1 Nhà Máy Sợi.
Diện tích nhà xưởng : 54860 m2.
Năng lực sản xuất : Sợi đơn là 12000MT/năm, sợi xe là 1500MT/năm
Máy móc thiết bị : nhập từ các hãng nổi tiếng như : Rieter, Toyoda, Vouk,
Marzoli…
Nguyền nguyên liệu : Bông Việt Nam và Bông nhập từ Mỹ, Tây Phi,…
Xơ PSF nhập từ Đài Loan, Hàn Quốc.
Mặt hàng chính : Sợi đơn, Sợi xe các loại, Sợi Slub, Sợi Texture.
1.3.2 Công Ty Cổ Phần May Đông Mỹ .
Diện tích nhà xưởng : 2500m2.
Năng lực sản xuất : 1.500.000 sản phẩm/năm.
Máy móc thiết bị : 10 chuyền may, 300máy may Juki, Yamato, Brother, Kansai;
1máy thêu Tajima và 40 máy thiết bị phụ trợ khác.
Nguồn nguyên liệu : do công ty tự sản xuất và nhập khẩu.\
Mặt hàng chính : Áo Poloshirt, Tshirt, Hineck, quần áo thể thao, quần áo ngủ …cho
người lớn và trẻ em.
1.3.3 Công Ty Cổ Phần Dệt Hà Đông.
Diện tích nhà xưởng : 5800m2
Năng lực sản xuất : 1500MT/năm.
Máy móc thiết bị : 24máy dệt kiếm Vamatex, 32máy dệt ATM, 16đầu Jacquard,
12máy nhuộm, 4đầu Jacquard Staubli.
Nguồn nguyên liệu : Do công ty tự sản xuất , hoá chất thuốc nhuộm nhập từ Đức,
Nhật

Mặt hàng chính : Các loại khăn.
1.3.4 Nhà Máy Dệt Vải Denim
Diện tích nhà xưởng : 14880m2
Năng lực sản xuất : 9000000 m/năm
Máy móc thiết bị : 81máy dệt kiếm Picanol, 1máy mắc Sucker Muller, 2máy nối
Knotex
Nguồn nguyên liệu ; Sợi do công ty tự sản xuất và nhập khẩu , hoá chất thuốc
nhuộm nhập khẩu từ châu Âu.
20

Mặt hàng chính : Vải Denim các loại từ 4.5 OZ đến 14.5 OZ bao gồm vải Denim
thường, Slub Denim, Fanci Denim co giãn và không co giãn.
1.3.5 Trung Tâm Dệt Kim Phố Nối.
Diện tích nhà xưởng : 13500m2
Năng lực sản xuất : 3300tấn/năm.
Máy móc thiết bị : 52 máy dệt kim tròn hiệu Mayer& Cie, Pailung…, 6máy nhuộm
sợi Bobin, 27 máy dệt phẳng…
Nguồn nguyên liệu : Sợi do công ty tự sản xuất và nhập khẩu, hóa chất thuốc
nhuộm nhập từ Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Đức.
Mặt hàng chính : Vải dệt kim các loại, vải dệt kim cào bông
1.3.6 Các Nhà Máy May.
 Nhà Máy May Dệt Kim.
Diện tích nhà xưởng : 14254m2
Năng lực sản xuất : 8000000 sản phẩm/năm
Máy móc thiết bị : 43 chuyền may, 2000máy may, 10 máy thêu, 142 máy thiết bị
phụ trợ, hệ thống thiết kế mẫu, giác sơ đồ Accumark- Gerber.
Nguồn nguyên liệu : Do công ty tự sản xuẩt và nhập khẩu .
Mặt hàng chính : Áo Poloshirt, Tshirt, Hineck, quần áo thể thao, quần áo ngủ …cho
người lớn và trẻ em.
 Nhà Máy May Dệt Thoi.

Diện tích nhà xưởng : 2448m2.
Năng lực sản xuất : 1500000 sản phẩm/năm.
Máy móc thiết bị : 13 chuyền may, 400máy may, 33máy thiết bị phụ trợ, hệ thống
thiết kế mẫu, giác sơ đồ Accumar
Nguồn nguyên liệu : Do công ty tự sản xuất và nhập khẩu.
Mặt hàng chính : Quần Jean, áo Denim, quần Khali, Váy cho người lớn và trẻ em.
1.3.7 Trung Tâm Cơ Khí - Tự Động Hoá.
Sản xuất , chế tạo phụ tùng thiết bị dệt may; Lắp đặt sửa chữa thiết bị Điện-Cơ-Nhiệt.
Sản xuất – kinh doanh ống giấy.
Sửa chữa, lắp ráp thiết bị điện từ - tự động hoá.
Ngoài ra còn các công ty mà Hanosimex chiếm phần lớn số vốn là :
 Công Ty Cổ Phần Dệt May Hoàng Thị Loan
 Công Ty Cổ Phần Thương Mại Hải Phòng _ Hanosimex
 Siêu Thị VINATEX Hà Đông.
Có thể nói Tổng Công Ty Cổ Phần Dệt May Hà Nội là một công ty đầu ngành của miền
Bắc cũng như của toàn quốc. Sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển quy mô của
21

Hanosimex ngày càng được mở rộng, năng lực sản xuất ngày càng tăng. Ngoài nhiệm vụ
chủ yếu là cung cấp hàng tiêu dùng, may mặc trong nước, giải quyết việc làm cho hàng
nghìn lao động, công ty còn xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, giúp tăng kim ngạch xuất
khẩu, góp phần phát triển nền Kinh Tế đất nước.
2. Chức năng nhiệm vụ của Hanosimex.
2.1. Chức năng của Hanosimex
- Sản xuất , kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại sản phẩm dệt may, nguyên phụ liệu,
thiết bị ,phụ tùng thuộc ngành dệt may.
- Kinh doanh, xuất nhập khẩu nguyên liệu bông, xơ, phụ liệu , hoá chất, thuốc nhuộm,
thiết bị máy móc ngành dệt may, vật liệu điện, điện tử, nhựa, cao su, các mặt hàng tiêu
dùng.
- Kinh doanh kho vận, cho thuê văn phòng, nhà xưởng, đầu tư và kinh doanh cơ sở hạ

tầng.
- Dịch vụ đào tạo, đào tạo công nhân ngành dệt may, dịch vụ khoa học, công nghệ, sửa
chữa bảo dưỡng thiết bị.
- Lắp đặt thiết bị công nghiệp, hệ thống điện lạnh, thiết bị phụ trợ ngành dệt may.
- Đầu tư và kinh doanh tài chính.
- Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Nhiệm vụ của Hanosimex.
Trước kia, khi nền kinh tế nước ta còn là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì
Hanosimex có nhiệm vụ cung cấp các nguyên phụ liệu cho ngành Dệt kim của Công ty,
của khu vực Hà Nội và phần lớn các tỉnh miền Bắc theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đều do Nhà nước điều hành và quản lý, việc
sản xuất cái gì? số lượng bao nhiêu? sản xuất cho ai? đều theo kế hoạch của Nhà Nước.
Khi chuyển đối cơ cấu sang nền kinh tế thị trường, ngoài việc sản xuất sợi, Công ty còn
mở rộng lĩnh vực sang sản xuất các sản phẩm may mặc, kinh doanh kho vận,…Năm 2007
Hanosimex đã cổ phần hoá, nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ phần lớn cổ phần. Hàng năm,
Công ty đã đóng góp một phần thuế và thu nhập không nhỏ vào ngân sách Nhà nước, giải
quyết một số lượng lớn lao động cho nền kinh tế. Sự phát triển của Hanosimex cũng góp
phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Ngoài việc cung cấp các nguyên phụ liệu cho
ngành Dệt may trong nước, và cung cấp các sản phẩm may mặc cho thị trường nội địa đáp
ứng nhu cầu sản xuất của các Doanh nghiệp cũng như nhu cầu tiêu dùng của khách hàng
trong nước, Công ty còn xuất khẩu các mặt hàng này sang thị trường quốc tế. Nằm trong
top những Doanh nghiệp xuất khẩu lớn trong ngành, Hanosimex đã góp phần trong việc
khẳng định vị thế của Việt Nam trong ngành Dệt may.
22

Có quan hệ với nhiều Doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, quy mô không ngừng được
mở rộng, ngoài việc sản xuất kinh doanh, Hanosimex còn tổ chức mở lớp đào tạo về nghề
may cũng như sử dụng thiết bị trong sản xuất sợi, may mặc cho người lao động. Sau khi
học xong, còn giải quyết việc làm nếu người lao động có nhu cầu. Đây là một hoạt động
tích cực trong việc giải quyết vấn đề nguồn nhân lực cho ngành Dệt may hiện nay.

3. Kết cấu bộ máy của Hanosimex
3.1 Hệ Thống Tổ Chức Của Tổng Công Ty.
Tiền thân của Hanosimex là một công ty nhà nước, nên hệ thống tổ chức được tổ chức
theo mô hình tập trung thống nhất. Sau khi cổ phần hoá, bộ máy tổ chức của Hanosimex
cũng không có nhiều thay đổi. Là một Doanh Nghiệp trực tiếp sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường, Hanosimex luôn phải đối mặt với những biến đổi hàng ngày trên thị
trường. Chính vì vậy bộ máy quản lý của Công Ty được tổ chức theo hình thức trực tuyến
chức năng. Theo cơ cấu này, các bộ phận chức năng không ra mệnh lệnh trực tiếp cho các
đơn vị sản xuất mà chỉ chuẩn bị các quyết định , định hướng, kiến nghị hoặc giải pháp để
tham mưu cho Cơ quan Tổng giám đốc.
Đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng quản trị, tiếp theo là Cơ quan Tổng giám đốc và Trưởng
ban kiểm soát.
- Ở Hanosimex thì ông: Nguyễn Khánh Sơn là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng
giám đốc. Là người đại diện cho Hanosimex, thay mặt cho TCT giải quyết tất cả các vấn
đề liên quan đến quyền lợi của Hanosimex, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm đối
với tất cả các hoạt động của Hanosimex. Tổng giám đốc không trực tiếp ra các quyết định
mà thông qua các phó Tổng giám đốc và các phòng ban chức năng.
- Dưới Tổng giám đốc là 6 phó Tổng giám đốc, được phân chia theo từng lĩnh vực cụ thể.
Các Phó Tổng giám đốc là người trực tiếp có trách nhiệm kiểm tra, xem xét , ký kết các
hợp đồng thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Đồng thời họ cũng có trách nhiệm giúp Tổng
giám đốc điều hành Tổng Công Ty, là người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về
những việc mình thực hiện.
- Trưởng ban kiểm soát: Ban kiểm soát là cơ quan ngang hàng với Cơ quan Tổng giám
đốc. Được Hội đồng quản trị bầu ra để kiểm tra, theo dõi giám sát các hoạt động của
Hanosimex
Bộ máy giúp việc cho Ban lãnh đạo của Hanosimex bao gồm các phòng ban chức năng,
đây là các cơ quan trực tiếp triển khai các quyết định của TGĐ xuống cơ sở. Có trách
nhiệm trực tiếp tham mưu tư vấn cho TGĐ về mọi mặt trong hoạt động điều hành sản xuất
kinh doanh của TCT, giúp chp TGĐ ra quyết định một cách chính xác và kịp thời. Đồng
thời trong TCT, các phòng ban này cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trao đổi để

23

×