Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.69 KB, 11 trang )

Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
LỜI MỞ ĐẦU
Hãy nhìn lại thế giới của chúng ta hiện nay, một thế giới đang ngày càng phát triển
bởi sự đi lên vượt bậc của nền kinh tế. Mác đã từng nói rằng kinh tế là cơ sở, là nền móng
cho mọi sự phát triển của xã hội loài người. Đi theo con đường mà Mác đã định hướng, con
người chúng ta đang ra sức xây dựng một mô hình kinh tế hiện đại, nhằm đạt được mục đích
đề ra. Song điều đó không phải là đơn giản, tùy vào tình hình thực tế và điều kiện của mỗi
nước mà áp dụng mô hình kinh tế cho phù hợp.
Trên lý thuyết là như vậy nhưng thực tế thì có một số nước đã đi đúng hướng nhưng
có một số nước lại đi chệch hướng do nhiều yếu tố trong đó có khách quan lẫn chủ quan.
Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á năm 1997 - cuộc khủng hoảng lớn
nhất trong khu vực kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II – đã gây ra những hậu quả nghiêm
trọng đối với các nước trong khu vực và sự tăng trưởng của thế giới. Tuy cuộc khủng hoảng
đã qua đi một thời gian nhưng dư âm của nó vẫn còn tồn tại như một bài học đắt giá cho cả
thế giới.
Chính vì vậy nên đã có rất nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc khủng hoảng này
trên nhiều phương diện, lĩnh vực. Song thật khó để có cái nhìn bao quát, cụ thể về vấn đề này.
Nhóm chúng tôi cũng muốn tìm hiểu để góp phần phác thảo nên bức tranh toàn cảnh về cuộc
khủng hoảng và nêu ra một đánh giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sơ những
nghiên cứu được tiến hành trong đề tài và để mở rộng thêm kiến thức về nền kinh tế vĩ mô
của các nước qua từng giai đoạn phát triển.
Bài nghiên cứu của chúng tôi được xây dựng dựa trên phương pháp nghiên cứu khoa
học thực chứng, chuẩn tắc và có sự phân tích về mặt định tính, định lượng dựa trên những số
liệu cụ thể để rút ra nhận xét, kết luận. Vì thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ tập trung phân
tích trong phạm vi nhỏ hẹp đó là nghiên cứu cuộc khủng hoảng diễn ra ở Thái Lan và một số
nước trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á. Qua đó thấy được nguyên nhân, diễn biến và hậu
quả của cuộc khủng hoảng.
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành, nhóm chúng tôi đã cố gắng trình
bày những hiểu biết của mình về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á ở mức độ hiểu
là chính. Chính vì vậy nên với lượng kiến thức nhỏ bé của mình và thời gian có hạn nên trong
quá trình thực hiện đề tài có nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của thầy giáo và các


bạn để bài nghiên cứu của chúng tôi được hoàn thiện hơn.
Nhóm 15 – N06 1
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
NỘI DUNG
I. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chinh tiền tệ 1997
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á năm 1997 có thể được xem là một cú sốc
lớn không chỉ đối với các nước trong khu vực mà còn là nỗi lo sợ kinh hoàng đối với các
nước khác trên thế giới. Chính vì hậu quả của nó đáng sợ đến như vậy nên câu hỏi đặt ra làm
băn khoăn cả một thế kỷ là vì sao cuộc khủng hoảng lại xảy ra trong khi một thời gian châu Á
được xem là mảnh đất của sự phồn vinh? Thế nên nhóm chúng tôi đã nổ lực trong việc tìm
hiểu nguyên nhân mong tìm ra đáp án trọn vẹn cho câu hỏi trên.
1. Sự yếu kém của nền tảng kinh tế vĩ mô.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn tới sự mất cân đối bên trong là sự mâu thuẫn giữa tốc độ
tăng trưởng quá nhanh tạo nên sức ép với giá cả do chi phí sản xuất kinh doanh ngày một
tăng cao. Bên cạnh đó để hạn chế và bù đắp sự thiếu hụt trong nước, một số quốc gia phải
thúc đẩy và thu hút vốn vay nước ngoài để đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa sản xuất và tăng
cường đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện tình hình trước mắt. Hay về phía chính phủ đã sử
dụng mọi giải pháp có thể để hạn chế mức rủi ro trước tình hình khó khăn của mỗi quốc gia
như kích cầu để tăng ngân sách hay nhờ sự hỗ trợ của quốc tế. Trong bối cảnh này, chính phủ
các nước Đông - Đông Nam Á vừa cố định đồng tiền của mình vào USD vừa cho phép tự do
lưu chuyển vốn. Và hậu quả là đã vô tình tạo ra sức ép tăng giá đồng nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá
cố định các nước Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng đã đẩy nguy cơ lạm
phát tăng cao.
2. Hệ thống tài chính và sự quản lý yếu kém của chính phủ dẫn đến sự đỗ vỡ về
niềm tin.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trượt dốc nghiêm trọng, các chủ thể quản lý chỉ tìm
cách đẩy nền kinh tế tăng trưởng một cách không tương xứng với thực trạng của nền kinh tế
mà không chú ý đến việc cải tổ lại hệ thống tài chính dẫn đến việc ngân sách nhà nước bị
thâm hụt nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát tăng nhanh dẫn đến nguy cơ khủng hoảng ngày càng
đến gần hơn nữa. Hệ thống ngân hàng tài chính là một hệ thống được ví như một con dao

lưỡi, một quốc gia có thể dễ dàng đẩy nhanh ngân sách nhà nước từ nó nhưng bên cạnh đó nó
cũng có thể khiến mỗi quốc gia có thể lâm vào tình trạng khủng hoảng. Có thể nói rằng đây là
một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, chỉ cần một sự cố nhỏ cũng sẽ làm cho nền kinh tế trở nên
hao hụt trầm trọng.
Nhóm 15 – N06 2
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
Xét trong khu vực, trong những năm gần đó thì ta cũng có thể thấy rằng việc xảy ra
khủng hoảng là một điều tất yếu, sự yếu kém trong việc quản lý hoạt động của hệ thống ngân
hàng. Điều này đã tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ vay vốn ngân hàng với mục đích kiếm lời
từ việc mua ngoại tệ. Hậu quả là đã gây mất cân bằng và thất thoát vốn một cách nghiêm
trọng. Để giải quyết trong thời gian sớm đòi hỏi các ngân hàng trong khu vực phải vay nóng
các ngân hàng thế giới để bù vào số vốn đã bị thâm hụt. Về phía chính phủ với tư cách là các
nhà quản lý kinh tế, họ không kiểm soát được số nợ của các ngân hàng mà lại tạo điều kiện
cho ngân hàng đầu tư vào các dự án với mục đích tăng lợi nhuận ngân sách quốc gia.
Nhưng những giải pháp này hoàn toàn không nhũng không thu về lợi nhuận mà còn
làm thâm hụt ngân sách. Những bất lợi và nhiều khó khăn liên tiếp xảy ra làm cho hệ thống
tài chính sụp đỗ hoàn toàn do tác động của sự thất thoát về vốn đã làm cho các nhà đầu tư
khẩn trương rút vốn khi thấy không ổn, những cú sốc về kinh tế liên tiếp xảy ra làm các ngân
hàng liên tiếp tuyên bố phá sản. Hệ thống niềm tin đỗ vỡ hoàn toàn làm người dân ngày càng
bị lung lay, họ quyết định đồng loạt rút vốn làm cho hệ thống tín dụng mất giá liên tục.
3. Các khoảng nợ ngắn hạn nước ngoài khổng lồ.
Vào những năm 90 nhằm giữ vững tốc độ tăng trưởng thần kì của mình chính phủ các
nước Đông Nam á đã có nhiều nỗ lực để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Có thể
kể đến như là: các thị trường tài chính trong nước được hình thành và thu hút ngày càng
nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài nhờ tỉ lệ lãi suất cao trong nước; hai là chính sách tự do hóa
thị trường tài chính bằng cách: tự do hóa tỉ lệ lãi suất, nới lỏng các quy định về số lượng các
giao dịch tài chính, tự do hóa các hạng mục kinh doanh tài chính. Thời kì này thị trường
Đông - Đông Nam Á nổi lên là những thị trường hấp dẫn bậc nhất thế giới, khi mà các nhà
đầu tư châu Âu, châu Mỹ nơi mà thị trường đã bão hòa và đầy bất ổn, ở Nhật Bản thì sự biến
động mất kiểm soát của đồng Yên, cộng với việc lãi suất ở Đông Nam Á lại cao hơn, rủi ro

hầu như không có vì chinh phủ đã cố định tỷ giá hối đoái với USD, đồng thời thị trường tài
chính thông thoáng. Và hệ quả là các nhà đầu tư nước ngoài đã mạnh tay đổ các khoảng tín
dụng ngắn hạn khổng lồ vào châu Á.
Theo số liệu của IMF cuối năm 1996 các ngân hàng châu Âu đã cho vay tổng cộng là
318 tỉ USD, các ngân hàng Nhật và Mỹ cho vay lên đến 260 và 46 tỉ USD phần lớn là vay
ngắn hạn. Hàn Quốc là nước vay nhiều nhất với 100 tỉ USD, tiếp đến là Thái Lan với hơn 70
tỉ USD. Cuối năm 96 các nước này đã trở thành các con nợ của các ngân hàng nước ngoài.
Với tâm lý ỷ lại sự bảo trợ của chính phủ, các ngân hàng nội địa đã cho vay một cách vô tội
vạ, mù quáng phần lớn đầu tư vào các dự án bất động sản, địa ốc và các dự án khó có khả
Nhóm 15 – N06 3
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
năng sinh lời. Đầu tư quá nhiều nên thị trường bất động sản cung vượt cầu, giá giảm, thị
trường chứng khoán sụp đổ, lợi nhuận không đủ trả lãi ngắn hạn cho ngân hàng nước ngoài.
Giờ đây bong bóng kinh tế đã vỡ. Khi lãi suất ở Mỹ tăng lên cao hơn thị trường sở tại,
cộng với các hoạt động đầu cơ của các tổ chức tài chính lớn đã làm cho các nhà đầu tư nước
ngoài rút vốn đồng loạt, các ngân hàng nội địa mất tính thanh khoản, phần lớn các ngân hàng
và các công ty tài chính phá sản, ví dụ ở Thái Lan có hơn 18 công ty tài chính phá sản. Từ
đây nền kinh tế Đông - Đông Nam Á rơi vào khủng hoảng.
4. Những diễn biến bất lợi của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế quá lệ thuộc vào
xuất khẩu.
Sau một thời gian suy thoái nền kinh tế Mỹ đã dần ổn định và khôi phục trở lại, đến
năm 1996 cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) bắt đầu tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát, điều
này khiến Hoa Kì trở thành một thị trường đầu tư hấp dẫn hơn các nước Đông - Đông Nam Á
và do đó hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư trở lại. Kết quả giá USD
tăng cao, tuy nhiên các nước Đông Nam Á lại neo đồng bản tệ vào USD điều này đã làm cho
hàng hóa xuất khẩu của họ trên thị trường đắt tương đối so với đối thủ cạnh tranh. Cộng với
việc thi trường Nhật Bản, thị trường xuất khẩu lớn của các nước châu Á lại bị trì trệ từ những
năm 90. Đồng nhân dân tệ (Trung Quốc) được định giá thấp so với Dolla Mỹ nên hàng hóa
xuất khẩu của Trung Quốc chiếm ưu thế lớn trên thị trường thế giới. Cộng với những yếu tố
bất lợi khác khiến tốc độ tăng xuất khẩu của các nước ASEAN chửng lại và giảm mạnh.

Trong khi đó cánh cửa nhập khẩu vẫn được mở rộng, tâm lý tiêu dùng hàng ngoại đã
trở thành thói quen, khiến cán cân thanh toán vãng lai thiếu hụt, nợ nước ngoài tăng và liên
tục đến hạn. Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, dần dần lọt vào vòng xoáy của cuộc
khủng hoảng trong tương lai. Những năm 70 xuất khẩu đã giúp các nước Đông-Đông Nam Á
trở thành những “con Rồng” của châu Á, giờ đây lại là điểm yếu khiến các nước này dần lâm
vào tình trạng khủng hoảng.
II. Diễn biến
1. Thái Lan – Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng.
Trước cuộc khủng hoảng, Thái Lan có một nền kinh tế dường như rất mạnh, với tốc
độ tăng trưởng ổn định và được coi là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được
xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của Châu Á, lạm phát thấp ngân sách chính
phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình trạng thất
nghiệp hầu như không có.
Nhóm 15 – N06 4
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
Thế nhưng chỉ sau mấy ngày, từ ngày 14/5 - 15/5 năm 1997, khi đồng Bath bị mất giá,
các nhà đầu tư có xu hướng đầu cơ, đổi lấy đồng USD. Cuối cùng chính phủ Thái Lan buộc
phải thả nổi baht vào ngày 2/7. Ngay lập tức đồng Bath sụt giá 18% so với đồng USD từ 26
Bath/USD xuống 30,36 Bath/USD. Biến động này dẫn đến hàng loạt các ngân hàng và công
ty tài chính ở Thái Lan phải đóng cửa không những thế các nhà đầu tư và nhân dân rút tiền
hàng loạt. Ngân hàng trung ương Thái Lan cạn kiệt nguồn ngoại tệ nên đã phải yêu cầu IMF
giúp đỡ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan giảm 75% tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995
xuống còn 372 cuối năm 1997. Ngày 11/8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá
16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20/8, IMF tiếp tục thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá
3,9 tỷ dollar.
2. Indonesia – hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng.
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã
nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%, tức
là vẫn trong vòng kiểm soát. Tuy nhiên, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công vào 8/1997 và
đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi

hoàn toàn làm cho đồng Rupiah liên tục mất giá. Điều đó làm cho đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt
và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt cho dù IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài
chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái
giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã
giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo
Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
3. Malaysia.
Năm 1997, quốc gia này có một lượng lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP.
Cũng sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, do lo ngại đồng Ringgit sẽ giảm giá nên đồng tiền
này ở trạng thái bán nhiều hơn là mua nên gây ra sức ép giảm giá đồng tiền này. Kết quả là
lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài.
Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
4. Philippines.
Ngày 3/7 một ngày sau khi cuộc khủng hoảng bắt đầu diễn ra tại Thái Lan ngân hàng
trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso
bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24% nhưng đồng
Nhóm 15 – N06 5
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
peso vẫn mất giá nghiêm trọng. Ngày 11/7 Philippin thả nổi đồng Peso, giá đồng Peso sụt
11,5% từ 26,41 Peso xuống còn 29,45 Peso/USD.
5. Hàn Quốc.
Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 do tâm lí lo ngại các nhà đầu tư bắt
đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28/11/1997, tổ chức đánh giá tín
dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11/12 lại hạ
tiếp xuống B2. Sự kiện này góp phần làm thị thị trường chứng khoán Hàn Quốc sụt giảm
mạnh hơn, giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11 và 7.2% vào ngày
24/11/1997 khi có tin IMF yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính. Đồng Won
giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. Dù có nhiều nỗ lực
trong việc cải thiện GDP trên đầu người, sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng

gấp ba lần so với trước đó.
6. Nhật Bản - Sự sụt giá của đồng yên.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng Yên từ
tháng 5/1998 có lúc lên cao 146,5 yên/ USD vào cuối tháng 8/1998 ở mức 145,5 yên/1USD.
Tốc độ tăng trưởng chậm một cách đáng nhớ trong năm 1997, từ năm 5% xuống còn 1,6% và
chìm đắm trong suy thoái 1998.
Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất
của cuộc khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó biến
thành cuộc khủng hoảng kép ( khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn diện.
Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão tiền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức mạnh tàn
phá của mình. Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái lên xuỗng thất
thường của đồng Yên. Số phận của đồng USD và thị trường chứng khoán Hồng Kông đang
đứng trước một thử thách mới gay gắt. Thực tế là tháng10/1997 thị trường chứng khoán
Hồng Kông sụp đổ. 27/10/1997 chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm mạnh 554 điểm, thị
trường chứng khoán New York tạm thời đóng băng.
III. Tác động đến các nước Đông Nam Á
Ở phần trên ta đã phân tích để thấy được nguyên nhân và diễn biến của cuộc khủng
hoảng thế kỷ này, nó đã làm cho lịch sử thế giới chuyển sang một trang mới. Có thể nói rằng
đã một thời gian dài thế giới không phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
nặng nề đến như vậy. Sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng không chỉ tác động vào các nước
trong khu vực mà còn lan tỏa đến từng khu vực kinh tế trên thế giới. Tuỳ theo tình hình thực
Nhóm 15 – N06 6
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
tế ở mỗi nước, mỗi khu vực khác nhau mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung,
cuộc khủng hoảng đã tác động đến các nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo hai
hướng khác nhau: cả tác động tích cực lẫn tác động tiêu cực.
1. Tác động tiêu cực.
Chúng ta đều biết rằng châu Á chính là nơi khởi nguồn của cuộc khủng hoảng, Vì vậy
đây cũng là nơi chịu nhiều hậu quả nặng nề nhất. Sự phá giá của đồng Baht và các đồng tiền

khác của các nước Đông Nam Á đã tác động xấu đến mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã
hội của đất nước.
Trước hết ta phải kể đến Thái Lan, một nền kinh tế từng có thời kì phát triển nhanh
nhất Châu Á nay đã trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng tài chính do đồng tiền bị mất
giá mạnh, thị trường chứng khoán giảm sút, các vụ phá sản ngày càng lan nhanh đặc biệt là
phá sản của các ngân hàng. Hầu như tất cả các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan đều
bị tổn thương. Những khoản tiền cho vay khó đòi lên đến 12,5% tổng số tiền cho vay năm
ngoái và sẽ còn tiếp tục tăng lên đến 25% ,những vụ phá sản kinh doanh bất động sản rồi sự
sụt giảm trên thị trường chứng khoán đã kéo 56 trên tổng số 58 ngân hàng và công ty tài
chính phải đóng cửa. Những ngân hàng sống sót thì phải đương đầu với một tương lai cực kỳ
không sáng sủa.
Trong thời gian trước và trong khủng hoảng, các nước đều phải tiêu tốn một số lượng
ngoại tệ lớn để chống đỡ giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá mức. Thái Lan sử dụng 15
tỷ USD trong tổng số 33 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Nhà nước để cứu nguy cho đồng Baht,
Philippines cũng sử dụng 20% tổng số dự trữ để hỗ trợ cho đồng peso. Các nước khác như
Malaysia, Indonesia cũng sử dụng nhiều tỷ đô la vào mục đích nói trên.
Chính sự mất ổn định và cung ứng tiền ồ ạt mà đã gây nên hàng loạt những hiệu ứng
không mấy tốt đẹp của các thị trường tiền tệ ở mỗi nước, cụ thể:
Đó là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực, là sự
giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Luồng vốn giảm
sút đáng kể như vậy làm cho các nhà đầu tư cũng không muốn kinh doanh nữa, dẫn đến một
loạt các ngân hàng và công ty tài chính luân phiên nhau đóng cửa.
Tất cả những điều đó đã làm giảm sút tốc độ tăng trưởng của các nước, giảm sức cạnh
tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng lai. Như vậy kinh tế ngày càng
trì trệ, hàng hóa không sản xuất được sẽ ứ đọng vốn và không có khả năng thanh toán nợ. Nợ
nước ngoài tại thời điểm này tính bằng ngoại tệ đã tăng lên khoảng 25-40% tùy theo mức độ
phá giá của đồng tiền. Ước tính, Thái Lan nợ từ 85 tỷ USD lên 11 tỷ USD, Malaysia từ 29 tỷ
Nhóm 15 – N06 7
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
lên 36,5 tỷUSD, Philippines từ 43,5 tỷ lên 54,4 tỷ USD, Indonesia từ 109,3 tỷ lên 150,5 tỷ

USD. Những con số khá lớn cho thấy mức độ khủng hoảng vào giai đoạn trầm trọng.
Bên cạnh đó, hệ thống tài chính đỗ vỡ gây sức ép lớn tới lạm phát, giảm thu nhập
của người lao động. Tình trạng thất nghiệp ở các nước trong khu vực tăng gấp đôi so với năm
trước đó, ảnh hưởng xấu đến các mặt của đời sống chính trị, xã hội.
2. Tác động tích cực.
Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt
các tác động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó, nó cũng mang lại
những tác động tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu Á nói chung và Đông Nam Á
nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng “nóng” trước đó.
Chính việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu
được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc
gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ
đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Không chỉ thế, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục
vụ cho mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp
định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá hơn nền tài chính quốc gia.
Chúng ta cũng có thể thấy rằng khi các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ, bao gồm
tiền lương, đất đai, dịch vụ…giảm một cách tương đối cao so với các nước khác, nên khi
khủng hoảng kết thúc thì chính các nước này lại có lợi thế thu hút vốn đầu tư, cả đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp.
Mặt khác, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân dân
mỗi nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế bổ khuyết những
thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó tạo ra những
xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế.
3. Tác động đến Việt Nam.
Vừa rồi, chúng ta đã điểm qua những ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng đối với
các nước trong khu vực. Song điều đáng núi là trong cơn bão tiền tệ đó, Việt Nam gần như
đứng ngoài bán kính tâm bão, những ảnh hưởng trực tiếp là không xảy ra. Vậy phải chăng
nền kinh tế nước ta đó cực kỳ "vững chắc " đến mức có thể ngăn ngừa mọi sự ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng? Điều này là không thể bởi nước ta vẫn là một trong những nước đang

phát triển và không thể gọi là có được một nền kinh tế mạnh, hơn nữa lại là nước nằm trong
Nhóm 15 – N06 8
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
khu vực Đông Nam Á, để tìm ra câu trả lời nan giải này chúng ta hãy cùng tìm hiểu nguyên
nhân tại sao nước ta lại tránh được cuộc khủng hoảng trên.
4. Tại sao cuộc khủng hoảng lại ít ảnh hưởng đến Việt Nam?
Thứ nhất, thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa nhập
sâu vào thị trường tài chính khu vực, tại thời điểm khủng hoảng thị trường chứng khoán chưa
hình thành. Đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi tự do nên ít chịu tác động
trực tiếp của cuộc khủng hoảng. Luồng chảy ngoại tệ vào và ra vùng biên giới bị kiểm soát
rất chặt chẽ bởi các chứng từ nhập khẩu, xuất khẩu. Nhờ đó hạn chế đầu cơ tiền tệ được xem
là không thể xãy ra ở nước ta.
Thứ hai, chúng ta hoàn toàn chưa có hoạt động đầu tư gián tiếp. Đó là việc các nhà
đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư trong nước bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu của các
công ty trong nước. Việc chuyển vốn vào ra của công thức này đơn giản hơn rất nhiều so với
hoạt động đầu tư trực tiếp. Nếu như có một điều gì bất thường xãy ra trong nền kinh tế bất lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài thì họ bắt đầu bán các trái phiếu cổ phiếu đó trên thị trường
chứng khoán, việc bán đổ bán tháo đó lập tức tạo nên một dòng xoáy của việc chuyển vốn ồ
ạt ra nước ngoài. Trong thời điểm này chúng ta vẫn chưa có thị trường chứng khoán nên hình
thức đầu tư này cũng như việc tìm kiếm các cơ hội bán để đầu cơ là không thể xãy ra. Đầu tư
của chúng ta tại thời điểm đó mới chỉ là đầu tư trực tiếp (FDI) bằng việc lập ra các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ, việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bị
kiểm soát rất chặt chẽ bằng các hình thức đánh thuế cũng như việc kiểm soát bằng tài khoản
ngoại tệ.
Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ chính phủ từ nguồn ODA và chủ yếu là nợ trung, dài
hạn (chiếm 90%) nên sức ép đột biến của viêc thanh toán nợ không mạnh. Việc vay trả nợ
của các doanh nghiệp được quản lý chặt chẽ thông qua ngân hàng nhà nước.
Chính sách tỷ giá được điều chỉnh từng bước linh hoạt. Cụ thể từ năm 1986 đến 1990
tỷ giá đồng Việt Nam so với USD tăng từ 80 VND/USD lên 6.500 VND/USD. Năm 1991 lên
12.000 VND/USD.

Việc giảm đáng kể cán cân thâm hụt thương mại (nhập siêu năm 97 giảm 37,5% so
với năm 96, 8 tháng đầu năm 98 giảm 9,2% so với cùng kì năm 97). Tiến bộ trong giải ngân
ODA và FDI so với các năm trước đã góp phần làm giảm sức ép về cán cân thanh toán của
Việt Nam.
Nhóm 15 – N06 9
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, thời đại phát triển kinh tế vượt bậc không thể vắng mặt của
đồng tiền, nhưng việc sử dụng đồng tiền tối ưu lại là vấn đề hết sức khó khăn và bức thiết.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua là một ví dụ điển hình. Không một nhà khoa học
hay nhà lý luận tài giỏi nào có thể đưa ra các hướng đi đúng đắn mà không sai phạm bất cứ
thứ gì, có thể rút ra giải pháp mà chưa có thực tế xảy ra, Nếu có có đi chăng nữa thì cũng chỉ
đúng một phần. Vì muốn điều hành một nền kinh tế hiện đại thì phải gắn lý luận với thực tiễn
mới có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nên con người chúng ta cần có cái nhìn bao quát
từ thực tế để đúc rút những kinh nghiệm và bài học cho từng sự việc.
Trong bài tiểu luận này, với những tìm hiểu của mình thì chúng tôi đã hiểu được
nhiều vấn đề bên trong cũng như bên ngoài cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng nổ ra với
nhiều lý do song lý do chủ yếu nhất lại thuộc về chính sách kinh tế vĩ mô yếu kém do bộ máy
chính phủ chưa quản lý có hệ thống và thiếu đồng bộ, chặt chẽ kèm theo đó là một số lý do
khách quan. Thông qua diễn biến của cuộc khủng hoảng ta lại thấy được mối liên hệ giữa các
nước thông qua các hoạt động tài chính và sự đánh giá đồng tiền của mỗi nước có phụ thuộc
vào nhau hay không. Tuy cuộc khủng hoảng nổ ra ở một số nước chấu Á nhưng nó lại có sức
tác động cực kỳ mạnh mẽ không chỉ ở các nước trong khu vực mà còn tác động đến châu Mỹ,
châu Phi,…thế nhưng chúng ta lại hiểu được nguyên nhân tại vì sao Việt Nam lại nằm ngoài
sự ảnh hưởng đó.
Thế là đã mười mấy năm trôi qua kể từ ngày cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
châu Á năm 1997 nổ ra, nhưng có lẽ những ngày tháng đó quá hãi hùng nên trôi qua một thời
gian dài như vậy mà thế giới vẫn không quên được. Nó như vết thương tuy đã khá lành
nhưng vẫn rất có thể tái phát lại nếu không có sự điều trị đúng hướng và lâu dài. Chính vì rất
dễ tái phát lại nên các quốc gia trong khu vực đã và đang cố gắng không ngừng nghỉ để khắc

phục và phát triển nền kinh tế cũng như cải tổ hệ thống tài chính của mỗi nước.
Qua cuộc khủng hoảng này, không chỉ các nước bị chịu ảnh hưởng trực tiếp mà hầu
hết các nước trên thế giới đều lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho nước mình. Việt Nam
cũng vậy, tuy là nước liền kề nhưng lại ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, nhưng vẫn
không thể chủ quan trong việc đánh giá lại thực trạng kinh tế nước mình.
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi xin tạm dừng ở đây, dù vẫn còn nhiều mặt hạn chế
nhưng chúng tôi cũng rất vui vì đã được tự do phát biểu những ý kiến và sự hiểu biết của
mình về cuộc khủng hoảng thông qua kiến thức và năng lực hiện có của mình.
Nhóm 15 – N06 10
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
MỤC LỤC

Nhóm 15 – N06 11

×