Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Phân tích những thách thức và cơ hội – tìm ra những bước đi thích hợp.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.84 KB, 69 trang )

1
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………………………………………………… 01
CHƯƠNG1
CƠ SỞ LÝ LUẬN………………………………………………………………………………………………………………… 04
1.1- KHÁI NIỆM VỀ TOÀN CẦU HOÁ………………………………………………………………..… 04
1.2- SƠ LƯC SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HỌC THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ ……………………………………………………………………………….……………………………………………… 05
1.2.1- Lý thuyết của phái Trọng Thương
1.2.2. Lý thuyết Lợi Thế Tuyệt Đối của Adam Smith
1.2.3- Lý thuyết Lợi Thế So Sánh của David Ricardo
1.2.4- Lý thuyết Heckesher – Ohlin ( H-O)
1.2.5- Lý thuyết Cân Bằng Giá Cả Yếu Tố (H - O - S)
1.2.6- Nhận xét chung
1.3- CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ ……………………………… 11
1.4- KINH NGHIỆP ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA CÁC NƯỚC ĐI
TRƯỚC - ĐẶC TRƯNG LÀ TRUNG QUỐC MỘT NƯỚC CÓ NHIỀU HOÀN
CẢNH TƯƠNG ĐỒNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM ………………………………………………..…….. 13

CHƯƠNG2: TỔNG QUAN VỀ WTO VÀ TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO
CỦA VIỆT NAM ……………………………………………………………………………………………………………… 19
2.1- TỔNG QUAN VỀ WTO…………………………………………………-……………………………………… 19
2.1.1- Lòch sử hình thành WTO
2.1.2- Điều kiện và thủ tục gia nhập WTO
2.1.3- Cơ cấu tổ chức của WTO
2.1.4- Các hiệp đònh cơ bản trong khuôn khổ WTO
2.1.5- Các nguyên tắc cơ bản của WTO
2.1.6- Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
2.2- TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM…………………………………………28


CHƯƠNG 3
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA
WTO……………………………………………………..…………………………………………………………………………………… 32
3.1- NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO…………………. 32
3.2- NHỮNG THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA WTO-----37
2
3.3- LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THAM GIA WTO…… 41
3.3.1- Các nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến lao động khi tham gia vào
WTO nói riêng và quá trình tòan cầu hóa nói chung.
3.3.2- Tác động đối với việc làm

CHƯƠNG 4
KIẾN NGHỊ CÁC VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT VÀ CÁC BƯỚC ĐI THÍCH
HP TẠO TIỀN ĐỀ CHO VIỆT NAM GIA NHẬP WTO……………………………… 48
4.1- MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO TIỀN ĐỀ CHO TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO
CỦA VIỆT NAM……………………………………………………………………………………………………… 48
4.2- MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM…57


















3
LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, nhất là trong lónh vực kinh tế. Bên cạnh đó,
xu thế khu vực hóa ngày càng phát triển như sự bổ sung, đồng thời ứng phó với
xu thế toàn cầu hóa. Hai xu thế này bắt nguồn từ sự phân công lao động quốc tế
ngày càng trở nên sâu sắc hơn, theo đó mỗi sản phẩm có thể được sản xuất ở
nhiều nước. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi mở rộng thò trường. Cách mạng
khoa học công nghệ bùng nổ, nhất là về thông tin, tạo ra mạng lưới lan tỏa trên
toàn thế giới.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức có vai trò vô cùng quan
trọng trong thương mại thế giới, đây là tổ chức kế thừa và dựa trên nền tảng của
GATT. Việc tham gia vào WTO sẽ mở ra cho các quốc gia trên thế giới nhiều
cơ hội để phát triển nhưng đồng thời khi tham gia vào thì phải ứng phó với những
thách thức và những sự cạnh tranh rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, một điều tất yếu là
nếu đứng ngoài xu thế đó thì sẽ bò cô lập và tụt hậu. Việt Nam cũng không nằm
ngoài sự tất yếu đó, việc tham gia vào WTO sẽ mang lại cho đất nước ta những
thuận lợi và cơ hội để phát triển, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn và thách
thức không nhỏ. Qua hội nhập, chúng ta có thể mở rộng thò trường tiêu thụ hàng
hóa, dòch vụ, thu hút vốn đầu tư, công nghệ hiện đại và kỹ năng đẩy mạnh sản
xuất tạo thêm công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội và phát
triển kinh tế đất nước nói chung. Để đứng vững trong sự cạnh tranh gay gắt khi
tham gia hội nhập, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đổi mới công nghệ,
phương pháp quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm và dòch vụ, hạ giá thành,
nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Qua đó, cơ cấu kinh tế trong nước sẽ

chuyển dòch linh hoạt hơn theo hướng hiện đại hóa và hướng về xuất khẩu. Bên
cạnh đó, tham gia hội nhập, chúng ta có thể gia tăng đáng kể sức hấp dẫn của thò
trường Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhìn một cách tổng thể
4
tham gia WTO sẽ thúc đẩy sự phát triển cả về lượng và chất của nền kinh tế
nước ta. Tuy nhiên, có biến được các cơ hội và thuận lợi đó thành những lợi ích
thiết thực hay không tùy thuộc rất nhiều ở nội lực và khả năng của chúng ta kòp
thời chuyển hóa và nắm bắt chúng.
Xuất phát từ những nhận đònh trên với đề tài “PHÂN TÍCH NHỮNG THÁCH
THỨC VÀ CƠ HỘI – TÌM RA NHỮNG BƯỚC ĐI THÍCH HP TRONG TIẾN
TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM” tôi mong muốn được vận dụng
những kiến thức đã được học của mình để làm rõ những thách thức cùng những
cơ hội của Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế thế giới nhất là vào thời
điểm hiện nay, khi mà trong thời gian tới chúng ta sẽ gia nhập Tổ Chức Thương
Mại Thế Giới (WTO). Từ đó, kiến nghò những giải pháp và những bước đi thích
hợp cho việc xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và những hành
động cho việc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO).
Mục tiêu của đề tài: Phân tích sự tác động của việc gia nhập WTO đối với
nền kinh tế và nguồn nhân lực của Việt Nam (Nguồn nhân lực là một yếu tố vô
cùng quan trọng, nhất là đối với nền kinh tế tri thức) nhằm mục đích nắm bắt các
cơ hội và đối phó các thách thức, từ đó giành được sự thuận lợi khi gia nhập
WTO.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tập trung vào sự tác động của WTO đối với
Việt Nam. Những vấn đề khác được đề cập tới trong đề tài cũng chỉ nhằm mục
đích làm rõ hơn mối quan hệ giữa WTO đối với Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu một
cách có hệ thống. Quan sát thực tế, xem xét và tổng kết kinh nghiệm hội nhập
của Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có
các hòan cảnh tương đồng với Việt Nam.
5

Ngòai ra, trong đề tài còn sử dụng các lý thuyết của kinh tế học quốc tế và
các phương pháp đặc thù như tổng hợp, phân tích thống kê, suy diễn thực
nghiệm.
Điểm mới của đề tài: Từ trước đến nay đã có khá nhiều các nghiên cứu và
các tài liệu viết về WTO. Riêng trong luận văn này tập trung nghiên cứu một
cách có hệ thống và khá đầy đủ các tác động của việc gia nhập WTO đối với
Việt Nam trong lónh vực kinh tế và lónh vực nguồn nhân lực. Đồng thời, trong
luận văn đề cập đến những sự kiện mới nhất của quá trình đàm phán gia nhập
WTO của Việt Nam.


















6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1- KHÁI NIỆM VỀ TOÀN CẦU HOÁ
Để có cách tiếp cận gần nhất đến bản chất, nội dung và phạm vi của toàn cầu
hóa kinh tế cần quan tâm đến những khái niệm liên quan trực tiếp: khu vực hóa
kinh tế và hội nhập kinh tế.
Khu vực hóa kinh tế được hiểu như một quá trình làm sâu sắc hơn nữa các cơ
cấu kinh tế phụ thuộc lẫn nhau trong nội bộ khu vực dưới bất kỳ hình thức nào,
thông qua trao đổi thương mại, đầu tư trực tiếp hoặc qua những dòng người di cư
và di chuyển lao động. Các yếu tố của khu vực hóa kinh tế là tự do mậu dòch, di
chuyển dòng vốn, mở rộng phân công và hợp tác lao động qua biên giới, phát
triển cơ sở hạ tầng chung (vận tải, thông tin liên lạc,…) thiết lập cơ chế kinh tế
mang tính đồng nhất nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh các yếu tố sản xuất
của nền kinh tế khu vực và của mỗi nước. Các hiệp đònh hợp nhất khu vực ngày
càng nhiều là biểu hiện của xu thế khu vực hóa kinh tế không ngừng gia tăng.
Liên minh Châu u (EU), khu vực mậu dòch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hiệp Hội Các Nước Đông
Nam Á (ASEAN), thò trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR)… là những tổ chức
và đònh chế kinh tế khu vực bổ sung lẫn nhau và cùng tham gia hội nhập vào thò
trường thế giới, kích thích tính năng động của sự phát triển. Có thể xem khu vực
hóa là bộ phận của quá trình toàn cầu hóa, là những bước đi để tiến tới toàn cầu
hóa.
Hội nhập kinh tế chỉ sự chủ động tham gia tích cực của một quốc gia vào quá
trình toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở
cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
Vậy, toàn cầu hóa kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và
nhiều hơn hàng hóa, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia.
7
Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẩn nảy sinh trong quá trình phát
triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung – cầu đối với những yếu
tố đầu vào và đầu ra sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và
hàng hóa nhằm tối ưu hóa việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm

vi toàn cầu.
Toàn cầu hóa là một quá trình khách quan của xã hội loài người. Mỗi nước –
đặc biệt là các nước đang phát triển không thể có sự lựa chọn tẩy chay toàn cầu
hóa này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hóa kia, hoặc chờ đợi làn sóng toàn cầu
hóa mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Tổng thư ký liên hiệp quốc Koji Anan đã nói: “Những người thua cuộc thật sự
trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẵng ngày nay không phải là những
người đối mặt quá nhiều với toàn cầu hóa mà là những người bò gạt ra lề của quá
trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau
tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hóa các mặt tích cực và tối thiểu hóa các mặt
tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói
nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn
cầu hóa là nhằm đạt được sự phát triển ổn đònh và bền vững”,
1.2- SƠ LƯC SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HỌC THUYẾT VỀ THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ
1.2.1- LÝ THUYẾT CỦA PHÁI TRỌNG THƯƠNG
Thuyết trọng thương ra đời ở Châu u vào khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ
XVI và kéo dài ảnh hưởng cho đến giữa thế kỷ XVIII. Phái trọng thương cho
rằng sự giàu có của một quốc gia được phản ánh qua lượng vàng, bạc mà quốc
gia đó nắm giữ. Coi trọng xuất nhập khẩu và cho rằng đó là con đường mang lại
sự phồn thònh cho đất nước. Tuy nhiên phương châm ở đây là xuất siêu, một quốc
gia thu được lợi ích trên cơ sở lợi ích của quốc gia khác bò thiệt hại. Do vậy duy
trì xuất siêu là biện pháp quan trọng nhất để thu được nhiều lợi ích từ thương mại
8
quốc tế (mang về q kim cho đất nước). Từ đó, phái trọng thương chủ trương
chính phủ có thể can thiệp sâu vào ngoại thương, tiến hành bảo hộ mậu dòch,
khuyến khích xuất khẩu cả về số lượng lẫn chất lượng.
Lý thuyết trọng thương về thương mại quốc tế tuy còn mang đậm yếu tố chủ
quan, chưa có căn cứ khoa học cho việc phát triển thương mại quốc tế. Nhưng
xét theo khía cạnh tiên phong, mở đường cho sự phát triển một lónh vực mới thì

đóng góp của nó là không nhỏ.
Như vậy lý thuyết trọng thương về thương mại quốc tế có thể tóm tắt trong
mấy điểm sau:
- Biết đánh giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan
trọng mang về quý kim cho đất nước.
- Có sự can thiệp sâu của Chính phủ vào các hoạt động kinh tế, đặc biệt là
trong lónh vực ngoại thương. Lập ra hàng rào thuế quan, khuếch trương xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu là những chính sách bảo hộ sản xuất trong nước.
- Coi việc buôn bán với nước ngoài không phải xuất phát từ lợi ích chung của
cả hai phía mà chỉ có thu vén cho lợi ích quốc gia của mình.
1.2.2. LÝ THUYẾT LI THẾ TUYỆT ĐỐI CỦA ADAM SMITH
Đến giữa thế kỷ XVIII, Adam Smith đã đưa ra quan điểm mới về thương mại
quốc tế tích cực hơn so với phái Trọng Thương trước đó.
Khẳng đònh vai trò của cá nhân và hệ thống kinh tế tư doanh, ông cho rằng
chỉ có cá nhân mới thẩm đònh những hành vi của mình và tư lợi không tương
tranh nhau mà hoà nhập vào nhau theo một trật tự tự nhiên. Hệ quả của tư tưởng
này là chính quyền mỗi quốc gia không cần can thiệp vào cá nhân và các doanh
nghiệp, cứ để họ tự do hoạt động.
Dựa vào một số giả đònh, A.Smith cho rằng hoạt động ngoại thương sẽ mang
lại lợi ích cho quốc gia xuất khẩu sản phẩm có lợi thế tuyệt đối. A.Smith cho
rằng khi sử dụng cùng một nguồn lực vật chất, nước nào sản xuất được nhiều hơn
9
thì nước đó có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hóa đó. Và các quốc gia
nên chuyên môn hóa vào sản xuất các sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối rồi
đem trao đổi với các nước khác (là các quốc gia không có lợi thế tuyệt đối trong
việc sản xuất sản phẩm đó). Trong trường hợp lợi thế tuyệt đối đổi chiều, cả hai
quốc gia tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế đều thu được lợi ích lớn hơn
là khi họ tự sản xuất – cung ứng cho quốc gia mình tất cả các loại hàng hóa.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith được xem như là lý thuyết có cơ
sở khoa học đầu tiên về thương mại quốc tế, giải thích vì sao các nước lại quan

hệ thương mại với nhau, dựa trên cơ sở nào. Tuy nhiên, lý thuyết này lại không
trả lời được câu hỏi là nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối ở hầu hết các sản
phẩm, và quốc gia khác (hay phần còn lại của thế giới) thì lại không có lợi thế
tuyệt đối ở bất kỳ sản phẩm nào thì mậu dòch quốc tế có xảy ra không và dựa
trên cơ sở nào?
1.2.3- LÝ THUYẾT LI THẾ SO SÁNH CỦA DAVID RICARDO
Năm 1817, Ricardo xuất bản cuốn “Những nguyên lý kinh tế chính trò và
thuế” (Principles of Political Economy and taxation) trong đó ông có nói về lợi
thế so sánh coi đó là cơ sở để các quốc gia giao thương với nhau.
D.Ricardo cho rằng bất kỳ một nước nào tham gia hoạt động thương mại quốc
tế đều thu được lợi ích nhất đònh do họ có lợi thế tương đối chứ không phải nhất
thiết phải có lợi thế tuyệt đối. Như vậy, một quốc gia không có bất cứ lợi thế
tuyệt đối nào cũng có thể tham gia trao đổi hàng hóa với các nước có lợi thế
tuyệt đối ở việc sản xuất hầu hết các sản phẩm mà cả hai quốc gia đều thu được
lợi ích lớn hơn là đóng cửa tự cung, tự cấp.
Thuyết lợi thế so sánh xác đònh các nước nên chuyên môn hóa vào sản xuất
các sản phẩm hàng hóa mà nước đó có lợi thế so sánh rồi đem ra trao đổi với các
nước khác (những nước kém lợi thế so sánh trong việc sản xuất hàng hóa đó),
10
như vậy các nước tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế đều thu được lợi
ích cao hơn.
Lợi thế so sánh về một sản phẩm thể hiện khả năng cạnh tranh của một quốc
gia trên thò trường thế giới đối với sản phẩm đó.
Tóm lại, quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo là một trong những quy
luật quan trọng nhất của kinh tế quốc tế, đặt cơ sở và nền móng cho mậu dòch
quốc tế. Cho đến nay, bản chất của quy luật lợi thế so sánh của Ricardo vẫn
không thay đổi, nó đúng với bất kỳ một quốc gia nào. Ông đã đi xa hơn Adam
Smith ở chỗ chứng minh rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi giao thương với
nhau bất kể là quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. Tuy nhiên, vào thời kỳ
đó, Ricardo đã chưa đưa ra được những bằng chứng xác đáng để biện minh cho

lý thuyết của mình, cụ thể là:
- Trong chi phí sản xuất mới chỉ tính đến có một yếu tố duy nhất, đó là lao
động. Còn các yếu tố khác như vốn kỹ thuật, đất đai và cả trình độ của người lao
động thì không được đề cập đến.
- Mặc dù học thuyết này có chứng minh được lợi ích của thương mại quốc tế,
nhưng vẫn không xác đònh được tỉ lệ giao hoán quốc tế, tức là giá cả quốc tế -
Căn bản vẫn là hàng đổi hàng.
- Một sản phẩm đem trao đổi không chỉ phụ thuộc vào chi phí sản xuất ra nó
mà còn phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng sản phẩm đó ở trong nước. Ricardo chỉ
chú ý đến cung mà không chú ý đến cầu, đặc biệt là cầu trong nước. Do đó,
không xác đònh được giá cả tương đối của sản phẩm dùng để trao đổi giữa các
nước với nhau.
1.2.4- LÝ THUYẾT HECKESHER – OHLIN ( H-O)
Trong thế kỷ XX, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển, Eli Heckesher và
Bertil Ohlin, với tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế” xuất bản năm
1933, đã giải quyết được vấn đề rất cơ bản mà cả Adam Smith và cả David
11
Ricardo giải quyết chưa trọn vẹn – đó là dựa vào quy luật tỷ lệ cân đối các yếu
tố sản xuất để giải thích nguồn gốc phát sinh lợi thế so sánh.
Heckesher và Ohlin giải thích nguồn gốc lợi thế so sánh (chi phí cơ hội thấp
– Haberler) trên cơ sở nhận đònh rằng: để làm ra sản phẩm, người ta phải sử
dụng kết hợp các yếu tố sản xuất của từng sản phẩm trong từng quốc gia cũng
như giữa các quốc gia là khác nhau. Do đó quốc gia sẽ có lợi thế so sánh đối với
sản phẩm thâm dụng yếu tố sản xuất mà quốc gia có dồi dào (dư thừa). Từ nhận
đònh đó, Heckesher – Ohlin đưa ra học thuyết của mình với nội dung: Một quốc
gia sẽ xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố sản xuất quốc gia dư thừa và nhập
khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố sản xuất mà quốc gia khan hiếm.
Lý thuyết này có giá trò cao trong việc vận dụng vào thực tế phát triển ngoại
thương của các quốc gia, thể hiện như sau:
Đối với các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa sẽ tập

trung xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều (thâm dụng) lao động và những
sản phẩm có nguồn gốc từ tài nguyên thiên nhiên: nông – lâm – thủy sản,
khoáng sản … và nhập khẩu những sản phẩm công nghiệp kỹ thuật cao như: máy
móc thiết bò, vật tư, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp …
Lợi thế so sánh về một số loại sản phẩm sẽ dần bò mất đi, đồng thời xuất hiện
những sản phẩm có lợi thế so sánh mới. Vì vậy, cơ cấu xuất khẩu không cố đònh
mà phải chuyển đổi theo mức độ thay đổi tương quan các yếu tố sản xuất trong
nền kinh tế. Các nước đang phát triển sẽ cố giảm xuất khẩu nhiều hàng sử dụng
nhiều lao động, sản phẩm thô hoặc ít qua chế biến, nâng dần tỷ trọng xuất khẩu
hàng thâm dụng vốn và kỹ thuật công nghệ.
1.2.5- LÝ THUYẾT CÂN BẰNG GIÁ CẢ YẾU TỐ (H - O - S)
Trong thuyết H – O của Heckesher – Ohlin đã không tính đến ảnh hưởng của
thương mại quốc tế đối với sự thay đổi giá cả các yếu tố sản xuất. Sau này, Paul
A. Samuelson, nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ đã góp phần hoàn thiện lý
12
thuyết Heckesher – Ohlin trên căn bản xem xét tác động của thương mại quốc tế
lên giá cả các yếu tố sản xuất. Bản chất của lý thuyết này là mậu dòch quốc gia
sẽ làm cho tiền lương của các lao động đồng nhất và lợi suất của tư bản đồng
nhất giữa các quốc gia tham gia mậu dòch là như nhau. Lao động đồng nhất ở đây
được hiểu là lao động có cùng một trình độ kỹ thuật, tay nghề và năng suất như
nhau. Tư bản đồng nhất là tư bản có cùng một năng suất và một sự rủi ro như
nhau. Theo Samuelson, tự do hóa mậu dòch sẽ làm bình quân giá cả các yếu tố
giữa các quốc gia. Chính sự khác biệt giá cả yếu tố sản xuất giữa các quốc gia
làm phát sinh thương mại quốc tế, đến lượt nó thương mại quốc tế làm cho những
khác biệt này giảm dần. Cụ thể, sự chuyển dòch yếu tố sản xuất giữa các quốc
gia theo chiều hướng vốn tư bản đi từ nước có lãi suất thấp đến nước có lãi suất
cao, lao động di chuyển từ nước có giá nhân công thấp đến nước có giá nhân
công cao sẽ làm giảm sự cách biệt giá yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Cuối
cùng dẫn tới sự cân bằng tương đối và cân bằng tuyệt đối (đồng nhất) giá cả các
yếu tố sản xuất giữa các quốc gia.

Tuy nhiên, trên thực tế, trong ngắn hạn, lý thuyết cân bằng giá cả yếu tố,
mặc dù là lý thuyết căn bản nhất giải thích thương mại quốc tế đôi khi cũng gặp
khó khăn trước một thế giới đầy biến động và có sự khác nhau rất nhiều giữa các
quốc gia. Nguyên nhân ở đây là nhiều giả thiết mà lý thuyết H-O-S sử dụng để
đơn giản hoá vấn đề thì một thế giới thực lại không có điều đó. Tuy nhiên,
không vì thế mà bác bỏ lý thuyết cân bằng giá cả yếu tố vì rõ ràng với mậu dòch
mở ra, sự khác biệt trong tiền lương và lãi suất giữa các quốc gia chẳng hạn là
giảm đi so với khi chưa có mậu dòch vì chính mậu dòch quốc tế là những lực chủ
yếu tác động lên giá cả yếu tố sản xuất trong mỗi quốc gia. Lý thuyết cân bằng
giá cả yếu tố luôn có ích vì nó cung cấp một sự hiểu biết sâu sắc và cơ bản về
trạng thái cân bằng tổng quát mô hình mậu dòch của chúng ta nói riêng và của
kinh tế học nói chung.
13
1.2.6- NHẬN XÉT CHUNG
Qua nghiên cứu các học thuyết căn bản về thương mại quốc tế nêu trên, ta
thấy là một quốc gia hoàn toàn có thể dựa vào các lợi thế so sánh của mình để
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế cho phù hợp. Nhưng cũng phải thấy rằng
lợi thế so sánh nào, của bất kỳ quốc gia nào, rồi cũng giảm dần, thay đổi theo
thời gian (do tính chất chi phí cơ hội gia tăng và sự giảm dần cách biệt về giá cả
các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia quy đònh) cho nên, trong thực tế phải biết
khai thác và sử dụng lợi thế so sánh của đất nước thông qua con đường thương
mại quốc tế sao cho hợp lý và hiệu quả nhất. Đồng thời cũng phải tính toán, dự
liệu những vấn đề nằm ngoài lónh vực quan hệ thương mại quốc tế mà các quốc
gia đang và có thể sẽ áp dụng để duy trì lợi thế so sánh của mình, nhất là đối với
những nước có quy mô nhỏ.
Các nhà kinh tế học tân cổ điển và hiện đại còn đưa ra giả đònh về sự học tập
ứng dụng công nghệ mới. Các nước đang phát triển (kể cả các nước phát triển)
ứng dụng những thành tựu công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển sẽ tốt hơn
cho vò trí thương mại của các nước thông qua khuyến khích thương mại tự do, thu
hút vốn đầu tư (đặc biệt hình thức đầu tư trực tiếp) để tiếp nhận công nghệ hiện

đại nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và rút ngắn quá trình phát triển.
Bên cạnh đó, sự tác động của chính phủ vào nền giáo dục để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cũng sẽ góp phần rất quan trọng thúc đẩy tiến trình phát
triển toàn diện của quốc gia. Ngoài ra do những thất bại của thò trường, chính
phủ phải có những can thiệp mang tính chiến lược để điều tiết sự phát triển của
nền kinh tế nhưng nền tảng vẫn dựa trên kinh tế thò trường.
1.3- CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ
Từ thấp đến cao nhất thế giới có các hình thức liên kết kinh tế quốc tế sau:
- Thoả thuận mậu dòch ưu đãi: Đây là hình thức lỏng lẻo nhất, thấp nhất trong
các hình thức liên kết, phổ biến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai. Hình thức
14
này qui đònh các hàng rào mậu dòch đối với các nước thành viên là thấp hơn so
với các nước không tham gia.
Một thí dụ minh hoạ cho hình thức này là kế hoạch ưu đãi của khối cộng đồng
Anh thành lập năm 1932, bao gồm Anh quốc và các thành viên thuộc Đế quốc
Anh trước đây.
- Khu vực mậu dòch tự do: Là giai đoạn thấp nhất của tiến trình hội nhập kinh
tế. Ở giai đoạn này, các nền kinh tế thành viên tiến hành giảm và loại bỏ dần
các hàng rào thế quan, các hạn chế đònh lượng và các biện pháp phi thuế quan
trong thương mại nội khối. Tuy nhiên, họ vẫn độc lập thực hiện chính sách thuế
quan đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: khu vực mậu dòch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), khu vực mậu dòch tự do Asean.
- Liên hiệp thuế quan: Là giai đoạn tiếp theo trong quá trình hội nhập. Tham
gia vào liên minh thuế quan, các thành viên ngoài việc loại bỏ thuế quan và các
hạn chế về thương mại nội khối, phải cùng nhau thực hiện một chính sách thuế
quan chung đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: nước ANDEAN (Hiệp ước về
mậu dòch tự do giữa các nước Bôlivia, Côlômbia, cuado, Peru và Vênêxuêla)
và liên minh thuế quan giữa công đồng kinh tế Châu u, Phần Lan, o, Thụy
Điển.
- Thò trường chung: Là mô hình liên minh thuế quan cộng thêm với việc bãi

bỏ hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác. Như vậy, trong
một thò trường chung, không những hàng hóa, dòch vụ mà hầu hết các nguồn lực
khác (vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân công…) đều được tự do lưu chuyển giữa các
thành viên. Ví dụ: cộng đồng kinh tế Châu u (EC) trước đây.
- Liên hiệp kinh tế: Là mô hình hội nhập ở giai đoạn cao dựa trên cơ sở mô
hình thò trường chung cộng thêm với việc phối hợp các chính sách kinh tế giữa
các thành viên. Ví dụ:liên minh Châu u (EU).
15
- Liên hiệp toàn diện: Là giai đoạn cuối cùng của quá trình hội nhập. Các
thành viên thống nhất về chính trò và các lónh vực kinh tế, bao gồm cả lónh vực
tài chính tiền tệ, thuế và các chính sách xã hội. Như vậy, ở giai đoạn này quyền
lực quốc gia ở các lónh vực trên được chuyển giao cho một cơ cấu cộng đồng.
Đây thực chất là một giai đoạn xây dựng một kiểu nhà nước liên bang hoặc các
“Cộng đồng an ninh đa nguyên”. Ví dụ: quá trình thành lập Hoa Kỳ từ các thuộc
đòa cũ của Anh; và thống nhất nước Đức từ các tiểu vương quốc trong liên minh
thuế quan Đức – Phổ trước đây.
1.4- KINH NGHIỆP ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA CÁC NƯỚC ĐI
TRƯỚC - ĐẶC TRƯNG LÀ TRUNG QUỐC MỘT NƯỚC CÓ NHIỀU HOÀN
CẢNH TƯƠNG ĐỒNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trên cơ sở xem xét kinh nghiệm đàm phán gia nhập WTO của các nước đi
trước mà tập trung chủ yếu là nước láng giềng Trung Quốc, một nước có nhiều
tương đồng đối với Việt Nam về văn hoá, lòch sử, hoàn cảnh xã hội. Đặc biệt,
trong thời hiện đại Việt Nam cũng đi theo con đường xã hội chủ nghóa mà Trung
Quốc đã và đang đi theo. Vì vậy, có thể rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu mà
Việt Nam phải áp dụng trong quá trình đàm phán chuẩn bò trở thành một thành
viên chính thức của WTO.
KINH NGHIỆM 1 - Phải có chiến lược hội nhập rõ ràng đối với nền kinh
tế chuyển đổi:
Việc gia nhập WTO rõ ràng đem lại cho nền kinh tế những lợi ích hết sức to
lớn từ những thò trường mở rộng cửa đến những ưu đãi thương mại, song điều đó

cũng có nghóa phải mở rộng cửa cho doanh nghiệp, công ty các nước trên thế giới
đến làm ăn. Các công ty nước ngoài có ưu thế rõ rệt về vốn, công nghệ và trình
độ quản lý - sắp tới sẽ cạnh tranh ngay cả trong những khu vực mà trước kia do
nhà nước độc quyền (như ngân hàng, điện lực, hàng không, bưu chính viễn thông
v.v...). Vì thế, những ưu đãi về pháp luật đối với các DNNN sẽ bò gỡ bỏ. Trong
16
hoàn cảnh chưa chuẩn bò đủ lực và chưa thích nghi được với môi trường kinh
doanh quốc tế, những DNNN trước kia quen được "ưu ái" nay sẽ gặp phải rất
nhiều khó khăn, lúng túng.
Do đó phải có chiến lược hội nhập rõ ràng đối với nền kinh tế chuyển đổi.
Cần có kế hoạch phát triển khu vực ngoài quốc doanh phù hợp với qui đònh của
WTO, tuy nhiên vẫn phải duy trì khu vực quốc doanh đối với những ngành then
chốt có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế đất nước, đến an ninh và quốc phòng đất
nước. Để duy trì được điều đó thì phải tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với
doanh nghiệp nhà nước, tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng
xoá bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng trên thò trường, tự
chòu trách nhiệm về sản xuất và kinh doanh.
Có thể xem xét kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.
Từ năm 1993 Trung Quốc chuyển dần trọng tâm cải cách theo hướng gắn doanh
nghiệp với thò trường, Nhà nước dần rút lui ảnh hưởng ra khỏi các quyết sách của
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự đưa ra các biện pháp cải cách
thích hợp. Nhà nước giờ đây chỉ thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vó mô,
tạo ra một môi trường pháp lý và một thể chế hỗ trợ thò trường hoàn thiện cho
doanh nghiệp hoạt động. Điều này đã tạo nên một chuyển biến quan trọng trong
công tác cải cách DNNN, đó là Nhà nước không tập trung vào cải cách ở từng
doanh nghiệp như trước mà chú trọng đến việc cải cách trên diện rộng với mục
tiêu cuối cùng là làm sống động toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước, tăng cường
sức mạnh tổng hợp cho kinh tế công hữu. Nhìn chung, cải cách DNNN từ năm
1993 đến nay tập trung giải quyết ba vấn đề lớn: Một là, xây dựng chế độ doanh
nghiệp hiện đại. Theo đó, chế độ doanh nghiệp hiện đại mang các đặc điểm:

quyền tài sản rõ ràng, quyền lợi và trách nhiệm phân minh, chính phủ tách rời
doanh nghiệp, quản lý khoa học. Hai là, thực hiện những biện pháp cải tổ mang
17
tính chiến lược đối với các doanh nghiệp và khu vực kinh tế Nhà nước. Ba là,
tăng cường công tác xây dựng các tập đoàn doanh nghiệp .
KINH NGHIỆM 2 - Chủ động trong cải cách nhằm tăng khả năng thích
ứng cho nền kinh tế:
Vấn đề cải cách trong nước và gia nhập WTO có quan hệ chặt chẽ với nhau,
theo kinh nghiệm của Nga, cần chủ động điều chỉnh trong nước theo các quy
đònh của WTO chứ không nên vào rồi mới điều chỉnh. Nhằm tăng khả năng thích
ứng tránh những sốc lớn cho nền kinh tế.
KINH NGHIỆM 3 - Các biện pháp về thuế quan và phi thuế quan:
Cam kết cắt giảm thuế cho những lónh vực Việt Nam có lợi thế cao và những
lónh vực không quan trọng đối với quốc gia. Còn những lónh vực nhạy cảm, cần
thiết phải bảo hộ để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước và thu hút đầu tư
nước ngoài thì đưa vào lòch trình cắt giảm thuế một cách từ từ trong từng giai
đoạn để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Một yếu tố cần đặc biệt chú ý là nên công bố mức thuế trần cao hơn mức áp
dụng nếu có thể. Nhằm mục đích khi cần bảo hộ thì có thể nâng thuế lên, như
vậy có thể chủ động trong đàm phán.
Ngoài việc giảm thuế, trong quá trình đàm phán còn phải cắt giảm hoặc bác
bỏ các biện pháp phi quan thuế. Do đó, đối với những biện pháp ít gây tác động
đến sự phát triển kinh tế thì có thể bỏ ngay hoặc chuyển sang thuế quan hoá, còn
những biện pháp khác còn cần thiết thì đưa vào lòch trình cắt giảm để có thời
gian điều chỉnh.
Ví dụ như Trung Quốc trước đây liên tục thực hiện việc cắt giảm các biện
pháp phi quan thuế, đến năm 1997 thì đưa ra đề nghò giai đoạn chuyển tiếp 8
năm kể từ ngày gia nhập WTO để hủy bỏ các biện pháp quản lý phi quan thuế,
đồng thời chuyển sang áp dụng hạn ngạch thuế suất.
18

Đối với vấn đề kiểm soát giá cả và trợ cấp xuất khẩu, thì trong đàm phán
các nước xin gia nhập được yêu cầu phải bãi bỏ các biện pháp quản lý và kiểm
soát giá cả để cho thò trường quyết đònh, nhằm tránh sự bóp méo về giá hàng tại
thò trường nội đòa. Nước xin gia nhập phải đưa ra được lộ trình giảm dần trong
từng giai đoạn cho phù hợp với qui đònh của WTO. Tuy nhiên, trong quá trình
thương lượng gia nhập WTO, các nước vẫn có thể duy trì một số biện pháp để hỗ
trợ cho sản xuất và xuất khẩu của đất nước và phải có lộ trình được các thành
viên chấp thuận để gắn vào phần phụ lục của Nghò đònh thư gia nhập.
KINH NGHIỆM 4 - Thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những yêu cầu của WTO mà các
thành viên phải thực hiện. Trong quá trình chuẩn bò gia nhập WTO, nước xin gia
nhập phải ban hành và tăng cường hệ thống luật pháp trong nước cho phù hợp
tiêu chuẩn của Hiệp đònh về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại
(TRIPs). Đây không chỉ là nghóa vụ bắt buộc mà còn mang lại lợi ích cho các
nước xin gia nhập. Một nước có chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mạnh sẽ góp
phần không nhỏ vào việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Để phù hợp qui đònh WTO, Trung Quốc tập trung các việc sau:Ban hành luật
liên quan quyền sở hữu trí tuệ phù hợp tinh thần WTO. Gia nhập các tổ chức
quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ mà trước đó chưa tham gia.
KINH NGHIỆM 5 - Về mở cửa cho đầu tư nước ngoài:
Các nước xin gia nhập thường được yêu cầu phải đưa ra các cam kết về mở
cửa thò trường cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc bãi bỏ một số hạn
chế. Nhìn chung, do cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nước xin gia nhập thường
thực hiện giảm dần các trở ngại. Tuy nhiên, Hiệp đònh về các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại (TRIMs) chỉ cấm một số biện pháp về tỷ lệ nội đòa, tỷ
lệ xuất khẩu và cân bằng thương mại, nên trong quá trình đàm phán, nước xin
gia nhập thường tìm kiếm những ưu đãi để kéo dài việc thực hiện các biện pháp
19
trên trong giai đoạn chuyển tiếp và vẫn áp dụng một số biện pháp không trái với
qui đònh của WTO như qui đònh về chuyển lợi nhuận về nước và chuyển giao

công nghệ.
Trung Quốc trong quá trình đàm phán đã sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước
ngoài cho phù hợp qui đònh WTO, theo đó áp dụng đãi ngộ quốc gia từng bước
cho các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên Trung Quốc vẫn áp dụng yêu cầu về
chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, Trung Quốc đàm phán cố gắng giành thời
gian chuyển tiếp để duy trì tỷ lệ nội đòa hoá và tỷ lệ xuất khẩu.
KINH NGHIỆM 6 - Những kinh nghiệm về đàm phán:
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong nước và thống nhất lập trường
trước đàm phán. Nên có nhiều phương án, kể cả phương án lùi tối thiểu. Thường
thì các quốc gia đưa ra những lộ trình cắt giảm thuế, phi thuế rất dài sau đó chấp
nhận rút ngắn lại.
- Trong các vòng đàm phán và tại bộ máy liên bộ, những vấn đề quan trọng
phải có bộ chủ quản đảm nhiệm để nắm sâu và có thẩm quyền xử lý, thông
thường trong cơ cấu của Nga, Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ... thì đoàn đàm
phán có các chuyên gia của các bộ ngành có liên quan, có kiến thức chuyên sâu
cũng như thẩm quyền quyết đònh vấn đề đang đàm phán để tiết kiệm thời gian,
cũng như tránh những nhượng bộ bất lợi cho các quốc gia đàm phán gia nhập.
- Người đàm phán phải liên tục bám quá trình và có đủ thẩm quyền thương
lượng, vì vừa phải dàn xếp giữa các cơ quan trong nước vừa phải đấu tranh với
bên ngoài.
- Các nước nhỏ nên tranh thủ các tổ chức khu vực mà mình tham gia để gia
tăng vò thế đàm phán, trong điều kiện Việt Nam thì điều này chúng ta có thể học
hỏi bằng cách dựa vào các tổ chức liên kết khu vực mà Việt Nam tham gia:
AFTA, APEC... và các tổ chức quốc tế khác.
20
- Cần tranh thủ tối đa sự hỗ trợ kỹ thuật cũng như sự ủng hộ của các nước, các
tổ chức, đònh chế quốc tế trong quá trình gia nhập.
- Tăng cường cán bộ đào tạo có chuyên môn sâu về WTO.
Ví dụ như Trung Quốc đã gửi hàng trăm chuyên gia giỏi trong nước ra nước
ngoài tìm hiểu về WTO, kinh nghiệm đàm phán gia nhập WTO, cũng như đào

tạo, tuyển dụng các chuyên gia hàng đầu để phục vụ cho công tác đàm phán gia
nhập này.
- Trong đàm phán song phương, cần đặc biệt cảnh giác với Mỹ, EU, Nhật và
Canada. Đa số những thành viên này chỉ đưa ra nhân nhượng vào phút chót,
đồng thời cả bốn thành viên này thường cũng tiến hành đàm phán song phương
với nước xin gia nhập cùng thời điểm nên họ có thể cùng lúc tăng sức ép mở cửa
trên hầu hết các lónh vực của nước xin gia nhập.














21
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ WTO VÀ TIẾN TRÌNH GIA NHẬP WTO CỦA
VIỆT NAM

2.1- TỔNG QUAN VỀ WTO
2.1.1- LỊCH SỬ HÌNH THÀNH WTO
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được hình thành và chính thức đi vào
hoạt động từ ngày 01/01/1995. Tuy nhiên, đó là sự kế tục và thay thế hiệp đònh

chung về thuế quan và thương mại GATT (General Agreement on Tariff and
Trade).
Tháng 07/1944 tại hội nghò thành lập hai tổ chức ngân hàng thế giới và quỹ
tiền tệ quốc tế diễn ra tại Bretton – Woods với sự tham dự của 50 quốc gia, ý
tưởng thành lập một cơ quan chuyên ngành của Liên Hiệp Quốc gọi là “Tổ chức
thương mại quốc tế” (International Trade Organization – ITO) được hình thành.
Trên cơ sở đó, từ năm 1946 – 1948 dưới sự bảo trợ của liên hợp quốc đã diễn ra
các cuộc đàm phán để soạn thảo văn kiện thành lập ITO có tên gọi là “Hiến
chương Lahavana”. Bên cạnh đó, với việc chiến tranh thế giới lần II vừa kết
thúc, 23 trong số 50 nước tham dự đàm phán thành lập ITO, do muốn nhanh
chóng thúc đẩy tự do hóa mậu dòch và sữa đổi các biện pháp bảo hộ thương mại
hàng hóa vốn duy trì từ đầu những năm 30, đã tiến hành đàm phán để cắt giảm
và ràng buộc thuế quan. Nghóa là trong cùng khoản thời gian đã diễn ra hai cuộc
đàm phán thương mại nhiều bên. Cuộc đàm phán thứ nhất nhằm đi đến thành lập
một “Tổ chức thương mại quốc tế” và cuộc đàm phán thứ hai chuyên về cắt
giảm thuế quan.
Kết quả cuộc đàm phán thứ hai là 45.000 nhượng bộ về thuế quan, ảnh hưởng
đến khối lượng thương mại trò giá 10 tỷ USD, gần 1/5 tổng thương mại thế giới
lúc đó. Kết hợp kết quả này với một số quy đònh về chính sách thương mại trong
dự thảo hiến chương Lahavana, ngày 30/10/1947, 23 nước đã ký nghò đònh thư áp
22
dụng tạm thời Hiệp đònh chung về thuế quan và thương mại (GATT), có hiệu lực
từ ngày 11/01/1948. Mặc dù chỉ có tính tạm thời nhưng GATT vẫn là công cụ
duy nhất mang tính đa biên điều tiết thương mại thế giới từ năm 1948 cho đến
khi WTO thành lập vào tháng 01/1995, bởi lẽ hiến chương Lahavana gặp khó
khăn trong công việc phê chuẩn của các nước.
Trong 47 năm tồn tại của GATT, có thêm một số hiệp đònh được đưa vào dưới
dạng Hiệp đònh “nhiều bên” và các nỗ lực cắt giảm thuế quan vẫn tiếp tục thông
qua các vòng đàm phán thương mại đa biên. Những bước tiến lớn trong tiến trình
tự do hóa thương mại đều được thực hiện qua các vòng đàm phán này, cụ thể là

8 vòng đàm phán thương mại lớn về mậu dòch và thuế quan. Các vòng đàm phán
càng về sau càng tăng cả về quy mô, thời gian, số nước tham gia và lónh vực đàm
phán (xem phụ lục 1 – tóm tắt các vòng đàm phán của GATT).
Sau gần nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, GATT đã làm tốt vai trò bảo vệ các
nguyên tắc thương mại tự do và thò trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của thương mại quốc tế. Song, với xu thế toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ,
việc đóng khung trong phạm vi thương mại hàng hóa trong khi những lónh vực
không được GATT điều chỉnh như đầu tư, buôn bán các sản phẩm trí tuệ, thương
mại dòch vụ đã trở thành lợi ích cơ bản của ngày càng nhiều các nước, đóng vai
trò quan trọng trong thương mại quốc tế khiến GATT ngày càng bộc lộ những
hạn chế và không đáp ứng được yêu cầu thực tế như trong thập niên 40 nữa. Đây
là nhân tố thúc đẩy nỗ lực mới nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa biên, đi
đến kết quả là có vòng đàm phán Uruguay, tuyên bố Marrakesh và việc thành
lập tổ chức WTO.
Vòng đàm phán Uruguay khai mạc ngày 20/09/1986 tại hội nghò cấp bộ
trưởng của các nước thành viên GATT họp tại Punta del Este (Uruguay), vòng
đàm phán Uruguay kéo dài gần 8 năm với sự tham gia của 125 quốc gia. Có tất
23
cả 15 chủ đề, bao gồm hầu hết các lónh vực thương mại quốc tế được đưa vào
chương trình nghò sự của vòng đàm phán này.
Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại sự cải tổ lớn nhất đối với hệ thống
thương mại thế giới trong hầu hết các lónh vực: công nghiệp, nông nghiệp, dòch
vụ dệt may, sở hữu trí tuệ chống bán phá giá, trợ giá, các rào cản kỹ thuật …
(Xem phụ lục 2 – tóm tắt những thành quả của vòng đàm phán Uruguay).
Cùng với những thành quả đạt được của vòng đàm phán Uruguay, trước yêu
cầu cần có sự cải tổ GATT, lập ra một tổ chức mới mang tính chất toàn diện hơn
với những quy chế tổ chức hợp lý và hữu hiệu hơn.Do đó, ngày 01/01/1995 tại
Geneva các nước tham gia đàm phán đã ký thỏa ước thành lập tổ chức thương
mại thế giới “WTO”. Như vậy, sau 47 năm tồn tại và phát triển, GATT với tư
cách là một cơ quan quốc tế tạm thời, không còn tồn tại nữa và được thay bằng

tổ chức thương mại thế giới (WTO).
2.1.2- ĐIỀU KIỆN VÀ THỦ TỤC GIA NHẬP WTO
Bất kỳ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào có toàn bộ chủ quyền về quan hệ
ngoại thương và các vấn đề khác quy đònh trong các hiệp đònh của WTO đều có
thể xin gia nhập WTO trên cơ sở các điều kiện do quốc gia đó và WTO thỏa
thuận. Cụ thể các điều kiện chính như sau:
- Phải có nền kinh tế thò trường, cho dù phát triển theo mô hình nào.
- Phải có khả năng đáp ứng các nghóa vụ của thành viên, đó là: công khai rõ
ràng về chế độ và các quy đònh trong buôn bán quốc tế, công khai các số liệu
kinh tế cơ bản, xóa bỏ các phân biệt đối xử, các rào cảng phi thuế quan, từng
bước làm cho hệ thống luật lệ của mình phù hợp với những quy đònh của WTO.
- Phải được 2/3 số thành viên bỏ phiếu tán thành
Ngoài các thành viên của GATT sau khi ký vào hiệp đònh cuối cùng của vòng
đàm phám Uruguay năm 1994 trở thành thành viên ban đầu của WTO, các nước
24
muốn trở thành thành viên WTO đều phải qua một trình tự thủ tục nhất đònh.
Bao gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1 – nộp đơn xin gia nhập: Chính phủ nước xin gia nhập phải nộp
đơn xin gia nhập. Đại hội đồng sau khi xem xét đơn sẽ thành lập nhóm công tác
về việc gia nhập của nước xin gia nhập, với sự tham gia của nhiều đại diện của
các nước thành viên WTO quan tâm đến thò trường nước xin gia nhập.
- Giai đoạn 2 – gửi bò vong lục về chế độ ngoại thương: Tiếp theo đơn xin gia
nhập, chính phủ nước xin gia nhập phải gửi tới nhóm công tác một bản bò vong
lục (hay còn gọi là bản ghi nhớ) trình bày tất cả các khía cạnh về chế độ thương
mại và pháp luật của mình và cung cấp các thông tin theo biểu mẫu quy đònh của
WTO về nhiều vấn đề khác.
- Giai đoạn 3 – làm rõ chính sách: Trên cơ sở bò vong lục, các thành viên sẽ
có các câu hỏi yêu cầu các nước xin gia nhập trả lời nhằm hiểu rõ chính sách,
bộ máy quản lý và thực thi chính sách của nước đó. Nhóm công tác sẽ tiến hành
kiểm tra tính xác thực của bò vong lục và các câu trả lời, sau đó sẽ tổ chức các

phiên họp đa phương đánh giá tình hình chuẩn bò của nước xin gia nhập.
- Giai đoạn 4 – đàm phán song phương: Song song với sự kiểm tra của nhóm
công tác, chính phủ nước xin gia nhập phải tiến hành các cuộc đàm phán song
phương với các nước thành viên của WTO có quan tâm đến các nhân nhượng và
cam kết về hàng hóa và dòch vụ trong giao thương với mình.
- Giai đoạn 5 – giai đoạn hoàn tất: Kết thúc 4 giai đoạn trên, ba văn bản hoàn
tất tiến trình gia nhập thể hiện các cuộc đàm phán đa phương và song phương sẽ
được xác lập, bao gồm: báo cáo của nhóm công tác về tiến trình chuẩn bò và các
điều kiện gia nhập, nghò đònh thư gia nhập, lòch trình cam kết mở cửa thò trường
hàng hóa và dòch vụ của nước xin gia nhập.
25
- Giai đoạn 6 – chấp thuận: Các văn bản xác lập trong giai đoạn hoàn tất
được trình lên Đại hội đồng hoặc Hội nghò Bộ trưởng để chấp thuận, thể hiện
bằng hai văn bản: quyết đònh của Đại hội đồng và Nghò đònh thư gia nhập.
- Giai đoạn 7 – ký và phê chuẩn thư gia nhập: Sau khi được chấp thuận, nước
xin gia nhập sẽ ký Nghò đònh thư gia nhập và sau khi Nghò đònh thư gia nhập được
Quốc hội nước xin gia nhập phê chuẩn, nước này sẽ chính thức trở thành thành
viên của WTO.
2.1.3- CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA WTO
Bao gồm 3 cấp có các chức năng và nhiệm vụ sau:
(Xem phụ lục 3 – Sơ đồ cơ cấu tổ chức WTO)
• CÁC CƠ QUAN LÃNH ĐẠO VÀ RA QUYẾT ĐỊNH:
- Hội nghò bộ trưởng WTO: là cơ quan lãnh đạo cao nhất của WTO, họp ít
nhất hai năm một lần, gồm đại diện cấp bộ trưởng của các thành viên WTO. Hội
nghò bộ trưởng thực hiện tất cả các chức năng của WTO và có quyền quyết đònh
mọi vấn đề trong khuôn khổ bất kỳ một hiệp đònh đa phương nào của WTO.
- Đại hội đồng WTO: là cơ quan đảm nhiệm các chức năng của hội nghò bộ
trưởng WTO trong thời gian giữa các khóa họp của hội nghò bộ trưởng. Thành
viên của đại hội đồng là đại diện cấp đại sứ của chính phủ tất cả các thành viên.
Đại hội đồng có quyền thành lập các ủy ban giúp việc và báo cáo trực tiếp lên

đại hội đồng như: Ủy ban về thương mại và phát triển, y ban về các hạn chế
cán cân thanh toán, y ban về ngân sách, tài chính và quản trò …
- Cơ quan giải quyết tranh chấp và kiểm điểm chính sách thương mại: ngoài
việc thực hiện các chức năng của hội nghò bộ trưởng giữa hai khóa họp, các hiệp
đònh thương mại đa phương cũng trao trực tiếp cho đại hội đồng WTO chức năng
giải quyết tranh chấp và kiểm điểm chính sách thương mại. Vì vậy cơ quan giải
quyết tranh chấp và cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại của WTO chính
là đại hội đồng WTO.

×