Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

tiểu luận hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.87 KB, 29 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

Người chấm
(Ký ghi rõ họ tên)

Số phách
(Do Ban Khảo thí ghi)

Điểm
Bằng số

Bằng chữ

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Họ và tên: NGUYỄN QUỐC DOANH
Ngày sinh:
Lớp, trường………………….Khóa……………………..
Ngày nộp:

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU
KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM. NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Khoa:
Lớp, trường………………….Khóa……………………..
Ngày nộp:

Số phách
(Do Ban Khảo thí ghi)



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠCH
I.
1.1.
1.2.
II.

2.1.
2.2.

1

ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ
MÔ Ở VIỆT NAM
Hoạch định và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước
Các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
THỰC TIỄN HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN CÁC

1
1
4

MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Thực tiễn hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô ở việt nam hiện nay

Định hướng giải pháp khắc phục các khó khăn, trở ngại chủ

15
15

yếu trong hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ

mô thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

20
25
26


MỞ ĐẦU
Trong một vài thập kỷ trở lại đây, đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong tư
duy, quan niệm và cách tiếp cận về hoạch định trong lãnh đạo một tổ chức,
một cơ quan, đơn vị, một ngành, một quốc gia. Xu hướng sử dụng cách tiếp
cận tổng thể và sử dụng một khn khổ chiến lược, chính sách rộng lớn hơn
thay cho các cách tiếp cận bộ phận với từng chính sách riêng rẽ cho từng lĩnh
vực trong hoạch định chính sách và chiến lược phát triển ngày càng trở nên
phổ biến. Sự chuyển đổi này được xem là một xu thế tất yếu xuất phát từ sự
chật hẹp của các khuôn mẫu tư duy và cách tiếp cận bộ phận khi hoạch định
các chiến lược và chính sách phát triển đã khơng cịn phù hợp cho sự phát
triển trong giai đoạn mới - được dự báo là ngày càng phức tạp, liên ngành và
đan xen nhiều biến dị bất quy tắc.
Đối với nước ta, trong suốt hơn 3 thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới
và hội nhập của Đảng, ổn định kinh tế vĩ mô luôn là mục tiêu xuyên suốt,

được ưu tiên hàng đầu và là một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc
đối với Nhà nước trong quản lý, điều hành nền kinh tế. Để ổn định nền kinh tế
vĩ mơ thì nhà nước phải thực hiện tốt chức năng hoạch định. Thực hiện tốt
chức năng hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, do vậy mặc dù
nền kinh tế có những thời điểm xảy ra lạm phát cao, đe dọa ổn định kinh tế vĩ
mô do trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, tiềm lực kinh tế còn
yếu, khả năng chống chịu trước những biến động kinh tế thế giới và trong
nước còn hạn chế; nhưng nhìn tổng thể, chúng ta đã nỗ lực khơng ngừng để
bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế. Do đó, nghiên
cứu vấn đề “Hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt
Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm tiểu luận tốt nghiệp có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.


1
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠCH ĐỊNH VÀ
THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
1.1. Hoạch định và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước
Hoạch định là chức năng quản lý cơ bản, bao gồm việc quyết định trước,
việc gì phải làm, khi nào hồn thành, làm như thế nào và ai sẽ thực hiện. Đây là
một quá trình trí tuệ xác định các mục tiêu của tổ chức và phát triển các quy
trình hành động khác nhau, nhờ đó tổ chức có thể đạt được các mục tiêu đó. Nó
phấn đấu chính xác, làm thế nào để đạt được một mục tiêu cụ thể.
Hoạch định khơng gì khác ngoài suy nghĩ trước khi hành động diễn ra. Nó
giúp chúng ta nhìn trước tương lai và quyết định trước cách đối phó với các tình
huống mà chúng ta sẽ gặp phải trong tương lai. Nó liên quan đến tư duy logic và
ra quyết định hợp lý. Hoạch định là quá trình phát triển các chiến lược nhằm tạo
ra lợi thế cạnh tranh , được hỗ trợ bởi các mục tiêu, nhiệm vụ và thời hạn.
Hoạch định được xây dựng dựa trên tầm nhìn xa, năng lực cơ bản để du

hành thời gian của trí óc. Sự tiến hóa của tính trước, khả năng suy nghĩ trước,
được coi là động lực chính trong q trình tiến hóa của lồi người. Hoạch
định là đặc tính cơ bản của hành vi thơng minh. Nó liên quan đến việc sử
dụng logic và trí tưởng tượng để hình dung khơng chỉ một kết quả cuối cùng
mong muốn mà còn các bước cần thiết để đạt được kết quả đó. Một khía cạnh
quan trọng của hoạch định là mối quan hệ của nó với dự báo. Dự báo nhằm
mục đích dự đốn tương lai sẽ như thế nào, trong khi lập kế hoạch hình dung
tương lai sẽ như thế nào.
Hoạch định là điều kiện tiên quyết của mọi chức năng quản lý, cho dù đó
là tổ chức, biên chế, chỉ đạo hay kiểm sốt. Tất cả các chức năng này phải được
đặt trước bởi một hệ thống lập kế hoạch hiệu quả, nếu không những người liên
quan đến việc thực hiện chúng sẽ khó thực hiện chúng một cách có hệ thống và
hiệu quả, Lập kế hoạch cho phép cung cấp cho tương lai không chắc chắn. Lập
kế hoạch là chức năng cơ bản nhất của quản lý.


2
Kinh tế vĩ mô. Kinh tế vĩ mô là ngành của kinh tế học nghiên cứu hoạt
động của nền kinh tế với tư cách một tổng thể. Các phân tích kinh tế vĩ mô
thường tập trung nghiên cứu vào cơ chế hoạt động của nền kinh tế và xác định
các yếu tố chiến lược quy định thu nhập và sản lượng quốc dân, mức sử dụng
lao động, giá cả và sự biến động của chúng.
Với tư cách là chủ thể thực hiện quyền lực công, bất kỳ Nhà nước nào
cũng có các chức năng: chính trị, xã hội, kinh tế. Nhà nước quản lý mọi hoạt
động, lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Chức năng
quản lý kinh tế nằm trong chức năng kinh tế của Nhà nước. Chức năng quản lý
kinh tế gắn chặt với Nhà nước, làm cho Nhà nước khác với các chủ thể khác.
Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, Nhà nước có phương thức tổ chức thực
hiện quyền lực khác nhau, với chức năng quản lý kinh tế khác nhau. Mặt khác,
trong từng giai đoạn phát triển khác nhau, Nhà nước có thể điều chỉnh phương

thức thực hiện chức năng quản lý kinh tế phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Chẳng hạn, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý kinh tế theo cách tập trung. Theo đó, Nhà nước vừa là chủ thể quản
lý nhà nước về kinh tế (chủ thể kinh tế đặc biệt), vừa là chủ thể kinh tế trực tiếp tổ
chức, thực hiện các hoạt động kinh tế (đầu tư, sản xuất, kinh doanh như các chủ
thể kinh tế khác). Sự tham gia của Nhà nước vào đời sống kinh tế - xã hội và sự
quản lý bằng can thiệp, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế ở mức độ rất
lớn. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
kinh tế phù hợp với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Nhà nước vẫn
tham gia vào các mối quan hệ kinh tế, nhưng với phương thức khác và mức độ
can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế - xã hội cũng khác [3, tr.120].
Về công cụ quản lý vĩ mô. Các phương tiện kinh tế, hành chính, pháp lý
được Nhà nước sử dụng để quản lí, điều tiết hoạt động kinh tế, xã hội ở tầm vĩ
mô. Trong lịch sử phát triển xã hội lồi người, các cơng cụ quản lý vĩ mơ (cũng
có thể gọi là cơng cụ điều tiết vĩ mô) đã từng được Nhà nước sử dụng bao gồm:


3
1) Các chính sách kinh tế - xã hội quan trọng như chính sách tài khố;
chính sách tiền tệ; chính sách đầu tư; chính sách lao động; chính sách điều tiết
thu nhập; chính sách ngoại hối; chính sách xuất, nhập khẩu; chính sách trợ giá
và trợ cấp của Chính phủ...
2) Các chương trình, kế hoạch mang tính định hướng về phát triển kinh tế
- xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
3) Hệ thống pháp luật [2, tr.45].
Trong số các cơng cụ kể trên thì các chính sách kinh tế - xã hội có vai trị
trọng tâm. Các chính sách này có đặc trưng cơ bản là chúng được xây dựng và
vận hành trên nguyên tắc tôn trọng các quy luật kinh tế, xã hội khách quan, nhất
là các quy luật thị trường. Trong quá trình điều tiết nền kinh tế, mỗi công cụ
quản lý vĩ mô như trên đây được Nhà nước sử dụng linh hoạt, ở những mức độ

khác nhau trong từng thời kì nhằm đem lại hiệu quả điều chỉnh cao nhất của mỗi
công cụ. Mặt khác, giữa các cơng cụ này cũng có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó điển hình nhất là mối quan
hệ giữa cơng cụ chính sách kinh tế vĩ mơ và cơng cụ pháp luật. Thơng qua việc
thể chế hố bằng pháp luật, các chính sách kinh tế vĩ mơ sẽ có khả năng thực thi
tốt hơn nhờ ở tính bắt buộc thi hành của pháp luật. Tuỳ thuộc vào bản chất kinh
tế của từng loại chính sách vĩ mơ mà chúng được quy định trong những văn bản
pháp luật của từng lĩnh vực pháp luật khác nhau.
Trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây ở Việt Nam
và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, các cơng cụ quản lí vĩ mơ như hệ thống
chính sách kinh tế trên đây rất ít được áp dụng, thay vào đó là việc Nhà nước sử
dụng triệt để các cơng cụ quản lí mang tính chất hành chính ở tầm vi mơ như
việc chỉ định kế hoạch hoạt động cho các doanh nghiệp, việc phân phối, sắp đặt
thị trường theo một kế hoạch tổng thể của nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các cơng cụ quản lí vĩ mơ được Nhà
nước sử dụng rộng rãi, phổ biến và triệt để nhằm tạo điều kiện cho hoạt động
kinh tế diễn ra theo đúng quy luật tự nhiên vốn có của thị trường. Việc sử dụng
triệt để các công cụ quản lí vĩ mơ trong điều kiện nền kinh tế thị trường từng


4
được xem là sự lựa chọn hoàn hảo nhất cho các quốc gia chấp nhận phát triển
nền kinh tế theo hướng thị trường có sự kiểm sốt của Nhà nước.
Hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô vừa là thước đo phản ánh lợi ích
chung của quốc gia, vừa là thước đo phản ánh trạng thái của nền kinh tế quốc
gia mà chủ thể quản lý kinh tế vĩ mô (nhà nước) mong muốn đạt tới trên cơ sở
đánh giá, phân tích các yếu tơ nội sinh và ngoại sinh ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Một cách khách quan, ngày nay bất kỳ một quốc gia nào cũng mong
muốn đạt được các mục tiêu chung của xã hội là phát triền bền vững, môi
trường kinh doanh ổn định, phân phối của cải cơng bằng. Để lượng hóa các

mục tiêu khái quát nêu trên, các nhà khoa học và quản lý kinh tế đã cụ thể hóa
chúng bằng một số chi tiêu có thể tính tốn được. Hệ thống các chi tiêu đó được
gọi là mục tiêu kinh tế vĩ mơ.
Thơng thường người ta sử đụng các nhóm chi tiêu cơ bản sau: nhóm chi
tiêu phản ánh mức độ tăng trưởng, phát triển bền vững; nhóm chi tiêu sử dụng
hiệu quả nguồn lực; nhóm chi tiêu phản ánh mức độ ổn định của thị trường
trong nước và quan hệ với thị trường thế giới.
Mỗi một mục tiêu kinh tế vĩ mơ lại có một loạt các mục tiêu cụ thể (các
chỉ tiêu) kèm theo, các chi tiêu này mang tính định luợng rõ rệt và nhiều khi
một chi tiêu có quan hệ đến nhiều mục tiêu vĩ mô.
Về mặt quản lý, các chi tiêu đo lường mục tiêu kinh tế vĩ mơ được Nhà
nước lựa chọn làm cái đích để nỗ lực phấn đấu thực hiện ở cấp quốc gia, thể
hiện trong các chi tiêu kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Ở các cấp địa
phương, những chi tiêu này cũng được lựa chọn làm mục tiêu theo đuổi trong
các kế hoạch phát triển địa phương và được cụ thể hóa hơn nữa tùy theo yêu
cầu cùa cấp quàn lý [1, tr.56].
1.2. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu giải quyết việc làm cho lực lượng lao động
Tên gọi cho mục tiêu này có thể khác nhau trong các văn bản kinh tế như
“toàn đụng nhân lực’ hoặc ‘hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ... Tuy cách gọi có khác
nhau, nhưng nội hàm của mục tiêu này là giống nhau ở mọi cách gọi, đó là nỗ


5
lực tạo ra nhiều việc làm hơn nữa để giảm đến mức thấp nhất số người thất
nghiệp, hay nói cách khác là nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế bằng
cách sử dụng với hiệu quả cao nhất nguồn lực lao động của quốc gia.
Lực lượng lao động của quốc gia là nguồn lực quan trọng đóng góp phần
lớn vào tăng trường kinh tế và phát triển kinh tế quốc gia. Tạo việc làm cho lực
lượng lao động vừa có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện

công bằng trong tiếp cận nguồn lực của mọi người dân có khả năng và nhu cầu
lao động, vừa góp phần ổn định xã hội. Ngược lại, nếu vì điều kiện nào đó, một
bộ phận đơng đảo người lao động khơng có việc làm thì chẳng những nguồn
lực của xã hội bị lãng phí, mà cịn gây ra tình trạng nghèo khó cho người thất
nghiệp, chi phí xã hội cho trợ cấp thất nghiệp tăng cao, bất ổn xã hội gia tăng...
Ý nghĩa quan trọng của mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động
chính là cho phép một quốc gia có khả năng tiến tới mức sản lượng lớn nhất có
thể có (sản lượng tiềm năng) của nền kinh tế. Tất nhiên, gắn với sản lượng
mong muốn ấy là mục tiêu ổn định, tức không gây ra tình trạng gia tăng lạm
phát quá mức.
Đề đo lường mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao độn, các nhà
kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần tram
giữa số người thất nghiệp và lực lượng lao động xã hội ở thời điểm tính tốn
Số người thất nghiệp
x 100
Lực lượng lao động xã hội
Tỷ lệ thất nghiệp trong điều kiện thị trường lao động cân bằng được gọi
Tỷ lệ thất nghiệp

=

là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp đo lường tại một thời điểm cụ thể
gọi là tỷ lệ thất nghiệp thực tế. Các nhà kinh tế tin tưởng rằng không thể giảm
tỷ lệ thất nghiệp thực tế đến không. Tỷ lệ thất nghiệp thực tế sẽ dao động xung
quanh tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Sử dụng chi tiêu tỷ lệ thất nghiệp để đo lường mức độ sử dụng nguồn lực
hiệu quả chỉ có giá trị đo lường tương đối vì khó tính tốn mức độ thất nghiệp ở
những địa phương chưa tổ chức được các văn phòng đăng ký thất nghiệp dễ
dàng tiếp cận với người dân. Hơn nữa, người lao động nông thôn có thể khơng



6
thất nghiệp tồn phần, nhưng khơng sử dụng hết thời gian lao động theo quy
định. Vì thế, người ta thường sử dụng đồng thời hai chi tiêu đo lường là tỷ lệ
thất nghiệp thực tế ở thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn.
Số LĐONT x thời gian
Tỷ lệ sử dụng
TGLĐONT

=

LĐ thực tế của LĐONT
x 100
Số LĐONT x thời gian
LĐ theo luật

Ghi chú:
LĐ: lao động
LĐONT: lao động ở nông thôn
TGLĐONT: Thời gian lao động ở nơng thơn
Ngồi hai chỉ tiêu có tính tổng qt nêu trên, để đo lường mục tiêu giải
quyết việc làm người ta còn sử dụng một số chi tiêu đo lường một số khía cạnh
như: số luợng việc làm mới mà nền kinh tể đã tạo ra trong một thời kỳ kế hoạch
(một năm, năm năm) phân bổ theo khu vực kinh tế và các nhóm ngành; tỷ lệ
thất nghiệp theo lứa tuổi, nhất là thanh niên, tỷ lệ thất nghiệp theo giới, theo
ngành nghề, số người làm việc không theo đúng chuyên môn đào tạo, tỷ lệ thất
nghiệp do cơ cấu lại nền kinh tế...
Mục tiêu giải quyết việc làm được xác định căn cứ vào nhu cầu việc làm
tăng thêm cùa lực lượng lao động và nhu cầu sử dụng lao động của các khu vực
kinh tế do đầu tư và sản xuất gia tăng. Đối với các nước phát triển có tháp dân

số trẻ như Việt Nam, tạo them nhiều việc làm mới là mục tiêu có tình cấp thiết.
Ở các nước đang phát triển có tỷ trọng lao động trong khu vực nông
nghiệp cao như ở nước ta, ngoài việc ưu tiên giảm tỷ lệ thất nghiệp, cần đặc biệt
chú ý đến tạo việc làm them cho người lao động chưa sử dụng hết thời gian lao
động trong nông nghiệp cũng như chuyển số lao động dôi dư trong nông nghiệp
sang các ngành nghề khác. Muốn vậy, phải đào tạo lại những lao động dôi dư
này đẻ họ có thể chuyển sang làm nghề khác thích hợp .
Để tạo việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng như tăng lượng thời gian
sử dụng lao động ở nông thôn, cần một hệ thống các giải pháp toàn diện từ đào


7
tạo nghề hợp lý đến chính sách khuyến khích đầu tư hiệu quả và tổ chức tốt các
dịch vụ trên thị trường lao động. Ngồi nỗ lực nâng cao trình độ, kỹ năng lao
động cho người dân, Nhà nước cần cung cấp các cơ hội đào tạo nghề, cơ hội
tìm được việc làm phù hợp cho những người có khả năng, có nhu cầu làm việc
thơng qua các cơng cụ, chính sách quản lý kinh tế vĩ mơ.
Mục tiêu giải quyết việc làm phản ánh qua các chỉ tiêu định lượng nêu
trên ngày nay đã trở thành cái đích theo đuổi của mọi nhà nước ở mọi quốc gia.
2.2.2. Mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải
Lạm phát là thuật ngữ kinh tế chỉ trạng thái mức giá chung của nền
kinh tế tang lên trong thời kỳ xem xét. Nếu mức gia chung giảm đi trong
thời kỳ xem xét thì gọi là thiểu phát.
Mức giá chung thường được tính theo chỉ số giá tiêu dung CPI của
dân cư hoặc chỉ số giá bán buôn mua vào cầu doanh nghiệp.
Chi tiêu chủ yếu để đánh giá lạm phát là mức tăng mức giá chung
trong nền kinh tế tính theo chỉ số giá tiêu dùng theo công thức sau:
Chỉ số lạm phát

=


Chỉ số giá năm t – Chỉ số giá năm t - 1
Chỉ số giá năm t - 1

x 100
năm t
Chỉ số lạm phát là thước đo tỷ lệ giảm sức mua của đồng tiền, là một
biến số được sử dụng để tính tốn lãi suất thực cũng như để điều chỉnh
mức lương.
Kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải là nội dung quan trọng của mục
tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm môi trường kinh tế khơng bị xáo trộn
do các cú sốc giá, qua đó khuyến khích mở rộng đầu tư và ổn định đời sống
dân cư.
Điều đáng lưu ý trong mục tiêu này là Nhà nước chỉ có thể cam kết
duy trì lạm phát ở mức dự kiến chứ khơng thể triệt tiêu hồn tồn lạm
phát. Bởi vì, lạm phát được coi là căn bệnh kinh niên mà mọi quốc gia phải
đối đầu. Lạm phát duy trì ở mức cao và khơng được kiểm sốt có tác hại
trên nhiều mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tâm lý đối với các chủ thề kinh tế
trong nước và nước ngồi có liên quan. Mức độ lạm phát quá cao hay thiểu


8
phát đều tác động tiêu cực tới sản xuất, tiêu dùng, tới sự tăng trưởng kinh
tế và sự ổn định xã hội. Thậm chí lạm phát q cao có thể dẫn đến hỗn
loạn và khủng hoảng, giảm niềm tin vào đồng nội tệ, cản trở giao dịch hàng
hóa bình thường. Do vậy, kiểm soát và ổn định lạm phát ở mức vừa phải
được coi là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu mà các ngân
hàng trung ương của các nước thường nỗ lực theo đuổi. Mức lạm phát vừa
phải ở các quốc gia đang phát triển có thể dưới 10%/ năm. Ở các nước
phát triển có nền kinh tế phát triền ổn định hơn thì mức dưới 5% được coi

là vừa phải.
Phương thức can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm duy trì mức
lạm phát vừa phải là thực thi chính sách tiền tệ, trong đó kiểm soát mức
cung tiền cho phù hợp với mức cầu tiền trên thị trường là giải pháp trọng
tâm đi đôi với chính sách tài khóa hợp lý.
2.2.3. Mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giá trị khi chuyển đổi đồng nội tệ sang đồng ngoại
tệ. Có hai cách tính tỷ giá:
Một là, tính theo giá trị 1 đơn vị đồng nội tệ trong so sánh với giá trị
ngoại tệ theo công thức:
E

Giá trị đồng ngoại tệ
1 đơn vị đồng nội tệ
Hai là, tính giá trị 1 đơn vị đồng ngoại tệ trong so sánh với giá trị đồng
=

nội tệ theo công thức:
D

Giá trị đồng nội tệ
1 đơn vị đồng ngoại tệ
Đảm bảo tỷ giá hối đoái tương đối ổn định là điều kiện kinh tế vĩ mơ
=

quan trọng nhằm khuyến khích trao đồi tài chính, thương mại với nước ngồi.
Tỷ giá hối đối quá cao hoặc quá thấp đều có tác động mạnh mẽ tới luồng ngoại
tệ chảy vào hoặc chảy ra đối với một quốc gia. Tỷ lệ hối đoái định giá đồng nội
tệ quá cao sẽ kìm hãm hoạt động xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu hàng hóa
cạnh tranh với hàng ảàn xuất trong nước, giảm mức sống của dân cư. Ngược lại

định giá nội tệ quá thấp sẽ khuyến khích rút ngoại tệ ra khỏi quốc gia, có thể


9
gây nên các cú sốc lớn cho nền kinh tế.
Do tỷ giá hối đoái tác động rất mạnh tới xuất, nhập khẩu của một quốc
gia, nhất là một nước đang cần tăng cường xuất khẩu đề tăng thu ngoại tệ đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, công nghệ mới cho phát triển kinh tế - xã hội
đất nước, nên Nhà nước phải can thiệp ở mức độ nhất định thông qua các công
cụ đặc trưng như: dự trữ ngoại tệ, chính sách chuyển đổi đồng nội tệ, chính
sách lãi suất nhằm duy trì tỷ giá có lợi cho hoạt động chung của nền kinh tế.
Cùng với mục tiêu khống chế, kiểm sốt lạm phát việc duy trì và ổn định tỷ giá
hối đối thực tế trên thị trường cịn là yếu tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế quốc gia.
2.2.4. Mục tiêu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế được hiểu một cách khái quát là cân
bằng tích cực giữa thu và chi ngoại tệ của cả nền kinh tế phù hợp với xu hướng
phát triển tích cực của nền kinh tế quốc gia
Cán cân thanh tốn quốc tế phản ánh tồn bộ giao dịch kinh tế của một
nền kinh tế quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định
về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập, chuyển nhượng và các giao dịch về tìa sản có
và tìa sản nợ tài chính nước ngồi.
Cán cân thanh tốn quốc tế bao gồm hai bộ phận lớn là cán cân vãng lai;
cán cân vốn và tài chính.
+ Cán cân vãng lãi bao gồm các khoản mục phải cân đối như:
i.

cán cân thương mại (cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu hang hóa);

ii. cán cân dịch vụ (xuất và nhập khẩu dịch vụ);

iii. thu nhập đầu tư ròng (hiệu số giữa thu và chi ngoại tệ từ lãi tiền gửi,
từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp và lãi đầu tư vào giấy tờ có giá);
iv. chuyển nhượng hiện hành (cân đối giữ thu và chi ngoại tệ của nhà
nước và tư nhân).
+ Cân đối vốn tài chính bao gồm các bộ phận:
i. Chuyển nhượng vốn (ròng)


10
ii. Đầu tư trực tiếp (hiệu số giữa đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt
Nam và đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài)
iii. Đầu tư vào giấy tờ có giá (hiệu số giữa đầu tư trực tiếp của nước
ngoài vào Việt Nam và đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài)
iv. Đầu tư khác (tín dụng trung và dài hạn (rịng); tín dụng ngắn hạn
(rịng)
v. Thay đổi tài sản có nước ngồi rịng của hệ thống ngân hàng.
Trong điều kiện kinh tế mở, mục tiêu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
rất quan trọng, phản ảnh năng lực cạnh tranh, tình trạng lành mạnh của nền kinh
tế, quy mô và mức độ mở cửa, hội nhập và khả năng hấp thụ, tiếp nhận các hoạt
động trao đổi hang háo và đầu tư với nước ngoài của nền kinh tế.
Trong quản lý kinh tế vĩ mơ, cân bằng cán cân thanh tốn quốc tế có tác
động tích cực tới các hoạt động kinh tế trong nước, tránh cho nền kinh té quốc
dân lâm vào tình trạng bất lợi như phụ thuộc quá lớn vào nước ngồi, vỡ nợ,
khủng hoảng tài chính, tiên tệ.
Để duy trì tình trạng cân bằng cán cân thanh tốn quốc tê, Nhà nước
thường thi hành các chính sách khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư
nước ngồi, kiểm sốt nhập khấu, kiềm soát các luồng ngoại tệ ra và vào nền
kinh tế, khuyến khích chuyển tài sản từ nước ngoài về nước...
Đối với các mrớc đang phát triển, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế là
một thách thức rất lớn do nền kinh tế về cơ bản kém sức cạnh tranh. Trên thực

tế, ở nhiều nước, thâm hụt cán cân thanh tốn quốc tế trong giai đoạn cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều khó tránh khỏi, song vấn đề đặt ra là Nhà nước
phải kiểm soát quá trình thâm hụt trong phạm vi an tồn và ổn định ở một tỷ lệ
thâm hụt chấp nhận được nhằm duy trì mơi trường kinh tế đối ngoại ổn định cho
các hoạt động kinh tế trong nước.
Kinh nghiệm của nhiều nước đi trước đã cho thấy, hồn tồn có thề làm
được điều này nếu Nhà nước có các chính sách kinh tế phù hợp như chính sách
tỷ giá chính sách xuất, nhập khẩu, chính sách khuyến khích đầu tư.


11
2.2.5. Mục liêu bảo đảm công bằng, tiến hộ xã hội
Luận chứng cho việc bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội là một mục tiêu
của quản lý kinh tế vĩ mô được thể hiện trên hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, công bằng và tiến bộ xã hội là một trong những điều kiện phát
triển toàn diện con người, thơng qua đó phát huy ngày càng nhiều những năng
lực tiềm ẩn trong con người, nhất là năng ỉực sáng tạo công nghệ, kỹ thuật cho
phép nâng cao không chỉ năng suất lao động, mà còn nâng cao hiệu suất sử dụng
các yếu tố đầu vào khác, nhất là nguồn tài nguyên khan hiểm. Xét ở phương
diện như thế, cơng bằng và tiến bộ xã hội góp phần nâng cao hiệu quả của nền
kinh tể quốc dân
Thứ hai, một nền kinh tế đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng các cơ hội lao
động, việc làm, phát triển cá nhân chính là mục tiêu của phát triển kinh tế. Bởi
vì, xét cho cùng, sản xuất, trao đổi, lao động đều vì mục đích phục vụ con
người. Tuy nhiên, tính chất của việc phục vụ con người ấy phải đảm bảo các
nguyên tắc nhân đạo. bình đẳng, bác ái, chia xẻ lẫn nhau trách nhiệm xã hội. Đó
chính là nội hàm củaa cơng bằng và tiến bộ xã hội. Nói cách khác, đảm bảo
công bằng, tiến bộ xã hội là mục tiêu mà quá trình phát triển kinh tế phải đạt tới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xâ hội chủ nghĩa, bảo đảm công
bằng và tiến bộ xã hội càng được coi là một mục tiêu quan trọng, đồng thời cũng

là một lĩnh vực thu hút sự đồng thuận của xã hội. Cụ thể là, ở nước ta hiện nay,
thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, vừa thể hiện bản chất, tính ưu việt của chế độ xã hội, đồng thời còn thể hiện
truyền thống “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa’’ quý báu của dân tộc.
Tiêu chí đo lường mức độ cơng bằng và tiến bộ xã hội là hệ số GINI, chỉ
số phát triển con nguời HDI, chỉ số phát triển giới GDI,...
Hệ số GINI do bằng cơng thức sau:
Trong đó:
y1, y2, yn: Thu nhập của từng nhóm hộ theo thử tự giảm dần.
ybq: Thu nhập bình qn cùa hộ.
n: Tổng số nhóm hộ.


12
Hệ số GINI có giá trị từ 0 đến 1, trong dó 1 là bất cơng bằng tuyệt đối, 0
là công bằng tuyệt đối. Hệ số GINI lớn thể hiện mức độ bất công bằng cao.
Chỉ số phát triển con người HDI là thước đo tổng hợp phán ánh sự phát
triển cùa con người trên các phương diện thu nhập (thể hiện qua tổng sản phẩm
trong nước bình quân đầu người), tri thức (thể hiện qua chỉ số học vấn) và sức
khỏe (thể hiện qua tuổi thọ bình qn tính từ lúc sinh). Chi số phát triển con
người được tính theo cơng thức:
HDI =

1
3

HDI1

+ HDI2 + HDI3


Trong đó:
HDI1: Chỉ số tổng sản phẩm trong nước bình qn đều người tính theo
sức mua tương đương "PPP".
HDI2: Chỉ số học vấn được tính bằng cách bình qn hóa giữa chỉ số tỷ lệ
người lớn biết chữ (dân cư từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết) với quyền số là
2/3 và tỷ lệ đi học các cấp giáo dục (phổ thông, trung học, cao đẳng, đại học)
với quyền số là 1/3.
HDI3: Chi số tuổi thọ bình qn tính từ lúc sinh (kỳ vọng sống tính từ lúc
sinh).
HDI nhận giá trị từ 0 đến 1. HDI càng gần 1 có nghĩa là trình độ phát
triển con người càng cao, trái lại càng gần 0 nghĩa là trình độ phát triển con
người càng thấp.
Chỉ số phát triển giới GDI là thước đo phản ánh sự bất bình đẳng giữa
nam và nữ trên cơ sở đánh giá sự phát triển chung của con người theo các yếu
tố thu nhập, tri thức và tuổi thọ. Chỉ số phái triển giới được tính theo cơng thức:
HDI =

1
3

HDI1

+ HDI2 + HDI3

Trong đó:
GDI1: Chỉ số phân bổ cơng bằng thành phần theo yếu tố thu nhập.
GDI2: Chỉ số phân bổ công bằng thành phần theo yếu tố tri thức.
GDI3: Chỉ số phân bổ công bằng thành phần theo yểu tố tuồi thọ.
Quan điểm thực hiện mục tiêu công bằng khơng có nghĩa là bình qn,



13
cào bằng làm mất động lực kinh tế trong phát triển sản xuất kinh doanh, mà
phải vừa phát huy dộng lực kinh tế của từng cá nhân, từng tổ chức, khuyến
khích mọi người làm giàu chính đáng, đồng thời vừa quan tâm tạo điều kiện để
những người có cơng với nước, các đối tượng đặc biệt khó khăn, những người
dân ở các vùng căn cứ kháng chiến, vùng sâu, vùng xa, hộ gia đình nghèo có
thể phát huy năng lực của mình đi đơi với hỗ trợ của xã hội nhằm đạt được mức
thu nhập trung bình của xã hội.
Nhà nước thường thực hiện mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội thơng
qua hệ thống các chính sách xã hội vì con người như chính sách người có cơng,
chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách giáo dục, y tế có sự hỗ trợ của Nhà
nước, chính sách an sinh xã hội, chính sách bình đẳng giữa các dân tộc, chính
sách bình đẳng giới...
Tuy nhiên, nhu cầu tài chính để thực hiện các chính sách xã hội vì con
người là khá lớn, trong khi ngân sách nhà nước ở các quốc gia, nhất là ở các
nước đang phát triển thường hạn hẹp, nên các nhà nước thành công thường là
những nhà nước biết cách sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các chính sách xã hội
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và ngân sách cùa Nhà nước.
2.2.6. Mục tiêu tăng trường kinh tế nhanh và bền vững
Tăng trưởng nhanh và bền vững vừa là kết quả của thực hiện các mục tiêu
nêu trên, vừa là tiền đề để có thể tiếp tục thực hiện các mục tiêu đó trong giai
đoạn tiếp theo. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển, tăng trưởng nhanh là
mục tiêu tối quan trọng để các quốc gia đang phát triển có thể thu hẹp khoảng
cách lạc hậu với các nước phát triền, cải thiện mức sống của dân cư trong nước
và tăng tiềm lực kinh tế của đất nước.
Tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi tốc dộ tăng trưởng của nền kinh tế
không những phải ở mức cao nhất có thể đạt được mà cịn phải bảo đảm sự ổn
định của quá trình tăng trưởng, tức là tốc độ tăng trưởng phải ổn định liên tục
trong một thời kỳ dài, đồng thời bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

sản xuất, bảo vệ môi trường, tái tạo được các nguồn lực tự nhiên đi đôi với chi
phí thỏa đáng cho thực hiện cơng bằng và tiến bộ xã hội.


14
Các chi tiêu đo lường mục tiêu tăng trường kinh tê bao gồm: tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc quốc nội (GDP); mức GDP tính trên đầu người; tốc
độ tăng trường của các ngành sản xuât chính.
Các chi tiêu đo lường mức độ phát triển bền vững cũng chính là các chỉ
tiêu đo lường mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia nhưng được đặt
trong mối quan hệ với các chi tiêu đo lường mức độ công bằng, tiến bộ xã hội
và mức độ bảo vệ môi trường (thường đo bằng chi tiêu đối nghịch là mức độ ô
nhiễm môi trường và nguy cơ diệt chủng của các lồi động, thực vật).
Vì tăng trưởng kinh tế được thực hiện thông qua việc mở rộng quy mô và
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế nên khi đánh giá mức
độ tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế, người ta thường tính đến
các chỉ tiêu bổ sung như tổng đầu tư của toàn bộ nền kinh tế; tổng chi đầu tư từ
qũy tài chính tập trung của nhà nước (ngân sách nhà nước), năng suất tổng hợp
của các yếu tố đầu vào, tốc độ đổi mới cơng nghệ, trình độ cơng nghệ, mức độ ơ
nhiễm mơi trường... trong đó hai chi tiêu hiệu quả sử dụng vốn là năng suất
tổng hợp các yếu tố đầu vào (TFP) và hệ số gia tăng tư bản - đầu tư (ICOR) có
vai trị quan trọng.
Trong điều kiện các nước đã phát triển cao (có hệ số ICOR cao, mức tiêu
dùng cao, mức tổng cung cao, cơ hội đầu tư mới thấp), tốc độ tăng trưởng kinh
tế thường đạt ở mức khá thấp (dưới 5%). Ở các nước đang phát triển, nhất là các
nước mới ở giai đoạn đầu cơng nghiệp hóa (có hệ số ICOR thấp, nhiều cơ hội
đầu tư mới), có cơ hội đạt được tốc độ tăng trưởng cao (trên 5%). Nhiều quốc
gia trong giai đoạn đầu cơng nghiệp hóa đã rất thành công trong phát triển và đã
đạt tốc độ tăng trưởng cao, từ 8-10% liên tục vài chục năm.
Về tổng thề, các mục tiêu kinh tế vĩ mô phản ánh mong muốn mà Nhà

nước muốn nền kinh tế quốc gia đạt được trong một thời kỳ nhất định. Các mục
tiêu này và các chỉ số đo lường chúng hợp thành một hệ thống thống nhất có
quan hệ chặt chẽ với nhau.


15
II. THỰC TIỄN HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU
KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI
PHÁP KHẮC PHỤC
2.1. Thực tiễn hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở
việt nam hiện nay
* Những kết quả đạt được
Để nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô, Nhà nước ta đã chủ động xây
dựng, hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Nhờ thực hiện tốt
khâu hoạch định mà kinh tế tăng trưởng từng bước vững chắc và ngày càng
được cải thiện, quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, các cân đối lớn của nền kinh
tế được bảo đảm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) giai đoạn 2016 2019 đạt khá cao, ở mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân 5
năm 2016 - 2020 ước đạt khoảng 5,9% và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
nhất khu vực, thế giới.
Trong đó, khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục giữ vai trị
dẫn dắt, đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng chung. Tốc độ tăng bình quân
giai đoạn 2016 - 2020 của khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt khoảng
7,3% và của khu vực dịch vụ đạt khoảng 6,0%; tỉ trọng khu vực công nghiệp và
dịch vụ (bao gồm xây dựng) theo giá cơ bản trong GDP tăng từ mức 73% năm
2015 lên khoảng 75,4% năm 2020. Quy mô GDP tiếp tục được mở rộng, đến
năm 2020 ước đạt 268,4 tỉ USD, tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015; GDP
bình quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD/người, gấp khoảng
1,3 lần so với năm 2015. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng,
tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm,… tiếp tục được

bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mơ. Tỉ lệ tích luỹ tài
sản so với GDP theo giá hiện hành ước đến năm 2020 khoảng 26,7% [5, tr.87].
Giá cả hàng hoá tương đối ổn định, lạm phát hằng năm được kiểm soát
thấp hơn mục tiêu đề ra. Giá cả các mặt hàng diễn biến tương đối ổn định. Chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt khoảng 4%,


16
giảm mạnh so với giai đoạn 2011 - 2015 (7,65%), trong phạm vi mục tiêu đề ra
(dưới 4%). Lạm phát cơ bản bình qn được kiểm sốt tốt qua các năm, giữ mức
tương đối ổn định, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 dự báo đạt 1,81%, giảm
mạnh so với giai đoạn 2011 - 2015 là 5,15% [4, tr.97].
Chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thị trường ngoại hối và tỉ giá đi
vào ổn định, lãi suất giảm dần. Thực hiện tốt hơn công tác phối hợp, điều hành
các chính sách vĩ mơ theo hướng điều hành đồng bộ, chủ động, linh hoạt các
cơng cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khố và chính
sách kinh tế vĩ mơ khác. Cán cân thanh tốn thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng
lên nhưng vẫn kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán phù hợp. Tăng
trưởng tín dụng giảm dần, trong khi tốc độ GDP tăng dần và cao hơn giai đoạn
2011 - 2015 cho thấy nguồn vốn tín dụng ngày càng được sử dụng hiệu quả và
phân bổ phù hợp hơn. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch tích cực, tập trung vốn vào
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương
của Chính phủ 6. Thị trường ngoại hối và tỉ giá dần đi vào ổn định; thanh khoản
hệ thống được bảo đảm, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của
doanh nghiệp và người dân; lãi suất có xu hướng giảm dần và ổn định trong bối
cảnh kinh tế thế giới biến chuyển nhanh chóng.
Cơ cấu thu chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỉ trọng thu nội địa, các
nhiệm vụ chi cơ bản được thực hiện theo đúng dự toán, tăng dần tỉ lệ chi đầu tư
phát triển, giảm dần chi thường xuyên, bảo đảm các mục tiêu về bội chi và nợ
cơng. Kỷ cương, kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Công

tác quản lý thu, khai thác nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế tiếp tục được chú trọng
gắn với đẩy mạnh chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại; quyết liệt xử lý
nợ thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế... góp phần bảo đảm tỉ lệ
huy động vào ngân sách nhà nước cơ bản đạt được mục tiêu đề ra. Tỉ trọng thu
nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 chiếm khoảng
81,6%, cao hơn so với giai đoạn 2011 - 2015 (68%). Các nhiệm vụ chi cơ bản
được thực hiện theo đúng dự toán, bảo đảm chặt chẽ, tiết kiệm. Trong đó, tỉ
trọng chi đầu tư phát triển tăng lên mức 27 - 28%; giảm tỉ trọng chi thường


17
xuyên từ mức 63 - 65% giai đoạn 2011 - 2015 xuống khoảng 62 - 63%; trong
khi vẫn thực hiện tăng lương, lương hưu, trợ cấp người có cơng và các chính
sách xã hội khác, ưu tiên các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, quốc phòng, an
ninh. Thực hiện lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp cơng, từng bước tính chi phí
tiền lương, chi phí trực tiếp trong giá dịch vụ theo khả năng của ngân sách nhà
nước và thu nhập của người dân. Bội chi và nợ cơng được kiểm sốt, giảm so
với giai đoạn trước. Đã thực hiện cơ cấu lại nợ theo hướng tăng kỳ hạn vay, tăng
tỉ trọng các khoản vay trong nước, giảm vay nước ngồi.
Nhìn lại tổng thể nền kinh tế vĩ mơ, chúng ta rất vui mừng trước tình hình
kinh tế-xã hội đất nước chuyển biến tích cực, tồn diện trên các lĩnh vực; đặc
biệt kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định là một thành cơng lớn, góp phần quan trọng
thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện
chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ với chính sách
tài khóa, thương mại, đầu tư, giá cả, thị trường đã góp phần quan trọng kiểm
sốt lạm phát theo mục tiêu đề ra. Cân đối ngân sách Nhà nước được cải thiện,
tổng thu ngân sách Nhà nước vượt dự tốn 5,9%, góp phần làm giảm bội chi
ngân sách Nhà nước xuống cịn 3,48% GDP, nợ cơng cịn 61,2% GDP. Thị
trường chứng khoán - “phong vũ biểu” của nền kinh tế tăng mạnh, hiện đang
trong khoảng 1.050-1.100 điểm. Tăng trưởng kinh tế đã thoát khỏi sự phụ thuộc

vào các giải pháp kích cầu ngắn hạn và ngành khai khống, đạt mức cao nhất kể
từ năm 2007, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và toàn cầu;
trong đó các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu đều tăng trưởng khá, tạo việc làm,
thu nhập và ổn định đời sống người dân.
Cùng với ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư kinh doanh được cải
thiện với kết quả xếp hạng môi trường kinh doanh tăng 14 bậc, từ thứ 82 lên thứ
68/190; năng lực cạnh tranh tăng 5 bậc, từ thứ 60 lên thứ 55/137 quốc gia, vùng
lãnh thổ; đánh giá triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam được nâng lên,
từ “ổn định” lên “tích cực”. Quyết tâm đổi mới của Việt Nam và những kết quả
quan trọng đạt được đã tạo không khí phấn khởi trong đầu tư kinh doanh và tồn
xã hội, củng cố niềm tin nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp [5, tr.99].


18
* Những khó khăn, trở ngại
Trong quản lý kinh tế vĩ mô, các nhà nước, quốc gia thường pải đối đầu
với khơng ít khó khăn khách quan khi hoạch định và thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mơ. Có thể nêu các khó khăn, trờ ngại chù yếu sau:
Có quá nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô cần phải đạt được trong khi nguồn
lực thường không đủ sức đáp ứng. Đặc biệt, để lôi cuốn sự chú ý của cử tri, các
nhà cầm quyền thường xác định các mục tiêu kinh tế vĩ mô ở mức độ cao trong
khi cơng cụ quản lý và nguồn lực họ có thể huy động khơng lương thích. Ví dụ,
ở hầu hết các nước đang phát triền, ngân sách nhà nước triền miên thâm hụt,
trong khi nhà nước phải tài trợ để vừa thực hiện mục tiêu tích lũy cho đầu lư
nhằm tăng trưởng nhanh, vừa phải giải quyết các vấn dề xã hội gay gắt như cải
thiện mức sổng cùa hộ nghèo, tài trợ cho sản xuất hàng hóa cơng cộng đang rất
khan hiếm... Hoặc để khuyến khích phát triển bền vững, cần du nhập công nghệ
mới nhằm tăng nâng suất tổng hợp các yêu tố đầu vào, trong khi đó cần giải
quyết việc làm cho đa số người lao động phổ thơng chưa được đào tạo ở trình
độ thích ứng với công nghệ cao... Ở các lĩnh vực phát triển kinh tế ngành,

thương mại quốc tế hoặc lĩnh vực tài chính cùng cỏ tình trạng tương tự. Do có
q nhiều mục tiêu cần thực hiện nên cơ quan nhà nước có xu hướng đầu tư
nguồn lực theo cách rải mành mành dẫn đến hệ lụy là hiệu quả thấp, mức độ
tăng trưởng thấp so với tiềm năng, gánh nặng nợ nần gia tăng...
Thị trường các loại kém phát triển, vận hành chưa chuẩn tắc ảnh hưởng
tới việc sử dụng một cách hữu hiệu các đòn bẩy thị trường để đạt các mục tiêu
kinh tế vĩ mơ. Ví dụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản
kém phát triển đã cản trở việc thị trường phân bổ nguồn lực cho các tồ chức,
ngành nghề hoạt động có hiệu quả, đặt gánh nặng điều tiết lên vai nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, việc sử dụng các
cơng cụ của chính sách tiền tệ, tài chính, thu nhập nhằm điều tiết vĩ mơ cũng
hạn chế.
Sự phụ thuộc vào bên ngồi. Sự chi phối của các tổ chức kinh tế và nước
ngoài nhằm hướng các nền kinh tế quốc gia, nhất là các nước chậm và đang


19
phát triền theo đường lối của họ cũng là một trong số nhân tố cản trở hoặc gây
khó khăn cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, các nước
kém và đang phát triển chịu sự chi phối không nhỏ của Ngân hàng Thế giới
(WB) hoặc Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF) khi nhận sự tài trợ vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế quốc gia. Quá trình thực hiện các quy định của WTO đặt lên vai
các nước đang phát triển gánh nặng không vừa sức với họ dẫn đến thua thiệt
trong trao đổi ngoại thương...
Tình trạng khơng xử lý hiệu quả sự đánh đổi giữa các mục tiêu kinh tế vĩ
mơ. VÍ dụ như khơng giải quyết hài hịa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã
hội. Bởi vì, muốn tang trưởng cao phải tích lũy nhiều cho phát triển sản xuất, hệ
lụy của nó lag giảm tài trợ cho tiêu dùng gia đình của tồn xã hội, khiến đời
sống khơng được cải thiện như mức độ dân cư mong muốn dân đến bất bình,
mất ổn định xã hội, phá hoại mơi trường cần thiết cho tăng trường nhanh. Hoặc

muốn có vốn tài trợ cho phát triền kinh tế phải chấp nhận đi vay lãi suất cao,
điều kiện cho vay ngặt nghèo dẫn đên hiệu quả tăng trưởng thấp. Cũng tương
tự, khó xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng với tình trạng mất cân bằng, thâm
hụt về cán cân thương mại quốc tế. Tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập của dân
cư tăng nhanh, khi đó nhu cầu tiêu dùng của xã hội tăng mạnh, làm cho tình
trạng nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng tăng cao cả vê quy mô và tốc độ. Trong khi
đó năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước chưa tăng tương ứng dẫn đến
tình trạng nhập siêu...
Tình trạng khó xử lý hài hịa các mục tiêu kinh tế vĩ mô xảy ra không
phải chỉ ở các nước kém và đang phát triển mà ngay cả ở một số nước có nền
kinh tế phát triển cao. Hơn nữa, các quyết định quản lý kinh tế vĩ mô của nhà
nước cịn chịu áp lực của các nhóm lợi ích khác nhau dẫn đến cách xác định các
mục tiêu ưu tiên của các đẳng cầm quyền khác nhau cũng khác nhau...
Kinh nghiệm, tập quán, đạo đức giao dịch trên thị trường của dân cư
chưa phát triền đầy đủ, mức độ tảc dộng thấp của hệ thống luật pháp,... cũng
cản trở việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mơ. Đặc biệt, với các nước cịn ở
trình độ thấp, khu vực phi chính thức rộng lớn hơn khu vực chính thức, khả


20
năng điều tiết của cơ quan nhà nước thông qua các địn bầy thị trường như chính
sách thuế, chính sách tiền tệ, chính sách kích cầu,.. vừa yếu về phạm vi tác
dộng, vừa thấp về kết quà tác động. Đó là chưa kể tình trạng kinh tế ngầm, kinh
tế phi pháp vẫn còn nhiều cơ hội phát triển. Mặt khác, tinh thần tuân thủ luật
pháp của dân chúng còn thấp, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý của cơ quan nhà
nước chưa cao cũng làm cho hiệu lực thực thi các mục tiêu kinh tế vĩ mơ cịn
nhiều yếu kém
Trình độ chủ thể quản lý còn hạn chế, xác định sai mục tiêu hoặc sai mức
độ và thời điểm tác động cùa công cụ quán lý kinh tế vĩ mô. Ví dụ, xuất, nhập
khẩu của mỗi nền kinh tế là hàm số của nhiều biến số như: thu nhập quốc

dân, tỷ giá và lãi suất. Sự hạn chế về trình độ quản lý dẫn tới xác định khơng
chính xác mức độ và thời điểm tác động, biến đổi cùa các biến số, sẽ gây ra hậu
quả tiêu cực cho nền kinh tế hoặc hậu quả xã hội. Trong lĩnh vực tiền tệ cũng có
tình trạng tương tự. Nếu xác định thiếu chính xác về quy mơ và thời điểm các
nhân tố tác động tới lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế sẽ dẫn tới trạng thái
hoặc quá thừa, hoặc quá thiếu tiền cho hoạt động của nền kinh tế, hậu quả để lại
rất tai hại trên nhiều mặt, cả kinh tế, xã hội, chính trị, tâm lý.
Mục tiêu mong muốn q cao nhung thiếu hiện thực. Khơng mộí quốc
gia nghèo nào lại không muốn tăng trưởng nhanh, bền vững đề giảm bớt
khoảng cách chênh lệch thu nhập với các nước phát triển. Nhưng để tăng
trưởng 1% GDP, nếu hệ số ICOR cịn ở mức thấp thì cũng cần khoảng 3,5%-4%
tích lũy từ GDP. Tích lũy nhiều nhằm tăng thu nhập trong tương lai nhưng trực
tiếp giảm mức sống dân cư ngay hiện tại. Hoặc tương tự, với nước kém và đang
phát triển, nhập khẩu ln có xu hướng gia tăng (cả sản phẩm hữu hình và vơ
hình), do đó làm cho tình trạng thâm hụt cán cân thanh tốn quốc tế với quy mô
không nhỏ là một tất yếu, trong khi đó giải pháp khắc phục khơng dễ tìm.
2.2. Định hướng giải pháp khắc phục các khó khăn, trở ngại chủ yếu
trong hoạch định và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô thời gian tới
Xác dịnh các mục tiêu kinh tế vĩ mơ có vai trị rất quan trọng ảnh hưởng
không chỉ tới hoạt động của các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước


21
mà còn tác động sâu rộng đến hoạt dộng sản xuất, kinh doanh và đời sống của
nhân dân. Chính vì thế, tìm cách khắc phục các khó khăn, trở ngại nêu trên để có
thể xác định và thực hiện tốt nhất các mục tiêu kinh tế vĩ mô là mong muốn của
tất cả các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước cũng như của đông đảo dân cư.
Một là, Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thơng tin kinh tế, xã hội,
mơi trường để có cơ sở hoạch định các mục tiêu kinh tế vĩ mô mộí cách khoa
học, khả thi, phù hợp với xu hướng vận động thực tiễn. Bản thân việc xác định

các mục tiêu kinh tế vĩ mơ địi hỏi nhiều loại thơng tin như thông tin quá khứ,
hiện tại, dự báo, thông tin trong nước, ngồi nước, thơng tin kinh tế, chính trị,
quân sự, khoa học, công nghệ... Việc thu thập và xử lý, bảo mật thông tin phục
vụ hoạt động hoạch định mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mơ địi hỏi chi phí
nhiều nguồn lực và tổ chức một cách khoa học, đảm bảo độ trung thực và chính
xác, cập nhật. Ngày nay, các nhà nước đều rất quan tâm đến hoại động thu thập
và cung cấp thông tin cần thiết cho các cơ quan quán lý, kể cả tăng cường khả
năng bào mật thơng tin để tăng tính cạnh tranh cùa nền kinh tế quốc gia.
Hai là, Tăng cường đào tạo công chức thực hiện nhiệm vụ hoạch định và
thực thi các mục tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là nâng cao chất lượng cán bộ hoạch
định các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế cán bộ phân tích, đánh giá
chính sách kinh tế của các cơ quan nhà nước. Đồng thời nâng cao tinh minh
bạch, trách nhiệm giải trình của cơng chức quản lý vĩ mơ nền kinh tế, đẩy mạnh
chống tham nhũng, phòng chống ảnh hưởng vụ lợi của các nhóm lợi ích đến
các chính sách và mục tiêu kinh tế quốc gia. Phát triển các loại thị trường, tạo
dựng thể chế thị trường lành mạnh để thông qua cơ chế thị trường thực hiện
phân bổ nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Giải pháp này đã
được thực hiện ở nhiêu nước thông qua các đợt cải tổ theo hướng giải quy chế,
mở rộng không gian tự chủ cho các chủ thể kinh tế hoạch định kế hoạch hành
động của họ đi đơi với nâng cao trình độ tn thủ pháp luật của dân cư. Tăng
cường hiệu lực của các cơng cụ pháp luật, giảm trừ tình trạng gian dối, lừa đảo,
tạo đựng môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Cải cách thủ tục hành chính kinh tế theo hướng giảm chi phí đầu tư, phát


22
huy vai trò giám sát và tham gia quản lý các vấn đề kinh tế vĩ mô của các tổ
chức nghề nghiệp, đoàn thể xã hội như hiệp hội ngành nghề, hội nơng dân,
cơng đồn, tổ chức bảo vệ mơi trường, hội phụ nữ... nhằm tăng cường các kênh
thông tin trao dồi giữa cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể kinh tế. Dân

chủ hóa q trình hoạch định các chính sách, mục tiêu kinh tế vĩ mơ thơng qua
q trình lấy ý kiến, nguyện vọng của dân chúng trước khi ban hành.
Áp dụng các mơ hình tốn, công nghệ thông tin, công nghệ hiện đại trong
xây dựng các chiến lược, kể hoạch, chương trình phát triển kinh tể vĩ mơ... của
Nhà nước nhằm đảm bảo tính đúng đắn, hợp lý, khả thi của các chính sách,
mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Ba là, Việc điều hành kinh tế vĩ mơ địi hỏi sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả,
linh hoạt giữa các cơng cụ chính sách, cả về mức độ, liều lượng, thời gian thực
hiện. Hoạch định và điều hành kinh tế vĩ mô cần “kiến trúc sư trưởng” hay
“nhạc trưởng”, trong đó cần xác định rõ từng loại chính sách, sự phối hợp và
mức độ ưu tiên hợp lý giữa các chính sách trong từng thời kỳ, từng điều kiện,
hồn cảnh cụ thể. Chính sách tiền tệ cần phối hợp chặt chẽ với chính sách tài
khóa, đặc biệt là trong việc điều hành cung tiền, tín dụng, lãi suất, bội chi ngân
sách nhà nước và nợ công một cách hài hòa, hợp lý. Bài học lạm phát gắn với
khủng hoảng nợ công ở nhiều nước là những kinh nghiệm sâu sắc trong điều
hành kinh tế vĩ mô. Việc tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngồi
cũng địi hỏi điều hành chính sách tiền tệ phải hết sức linh hoạt, đặc biệt là trung
hòa ngoại tệ, tránh gây sức ép lạm phát mà chúng ta đã gặp phải khi một lượng
lớn ngoại tệ đổ vào nước ta trong khi tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng cao, tích
lũy trong một thời gian dài. Gần đây, mục tiêu kế hoạch tăng trưởng tín dụng
năm 2021ban đầu được đề ra linh hoạt, có thể ở mức cao để thúc đẩy tăng
trưởng; tuy nhiên trong quá trình điều hành, nhờ sự tác động, ảnh hưởng tích cực
của nhiều cơ chế, chính sách, yếu tố khác, trong đó có sự phục hồi mạnh mẽ của
các ngành chế biến, chế tạo, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ mà các giải pháp về
phía cầu đã được điều chỉnh phù hợp, trong đó tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức
18% mà vẫn đạt vượt mức chỉ tiêu tăng trưởng GDP đề ra.


×