Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Nguyên tắc suy đoán vô tội theo tinh thần hiến pháp 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.97 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Suy đốn vơ tội là một trong những ngun tắc cơ bản được ứng dụng
rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đốn vơ tội
được nhiều Nhà nước coi là ngun tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành
tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc
này đã được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, đó là: “Bất kỳ
người bị buộc tội nào đều có quyền suy đốn là khơng phạm tội cho đến khi lỗi của
người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tịa xét
xử cơng khai của Tịa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”.
Pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận nguyên tắc trên
và coi ngun tắc suy đốn vơ tội là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình
sự của quốc gia mình.
Nguyên tắc suy đốn vơ tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự
kiện Việt Nam ra nhập công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày
24/9/1982. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên trong những năm qua, ngun tắc
suy đốn vơ tội ln nhận được sự quan tâm, không chỉ được đề cập rất nhiều
trong các hội nghị, hội thảo khoa học mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong
hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn.
1. Nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội
Thứ nhất, khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án có
hiệu lực pháp luật
Ngun tắc suy đốn vơ tội địi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quy định.
Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội


phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt
động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến
hành xét xử, điều tra cơng khai tại phiên tịa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tịa án sẽ
ra bản án kết tội. Trong trường hợp, bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị


thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa
có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử tuyên án.
Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật. Cần lưu ý thuật ngữ “bị coi là có tội” khác với thuật ngữ “người
phạm tội”. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ người
đã thực hiện hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi của người đó
đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ “người phạm tội” chỉ một thực tế khách quan là
một người đã thực hiện tội phạm chứ không phải tùy thuộc vào nhận định chủ quan
của các cơ quan áp dụng pháp luật. Các cơ quan áp dụng pháp luật có thể nhận
định đúng thực tế khách quan, tức là nhận thức đúng người phạm tội, tiến hành
khởi tố, truy tố và kết án người phạm tội, nhưng cũng có thể nhận định khơng đúng
thực tế khách quan đó, dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội, tuyên bố một người phạm tội
là người vô tội…
Với cách hiểu thuật ngữ “người phạm tội” như vậy chúng ta mới có thể lý
giải tinh thần các quy phạm khác có liên quan. Ví dụ, việc miễn trách nhiệm hình
sự (Điều 25 BLHS) chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội khi có những điều
kiện nhất định. Khi quyết định miễn trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể,
các cơ quan có thẩm quyền đã phải chứng minh được người được miễn trách
nhiệm hình sự là người phạm tội. Người phạm tội có thể khơng bị kết án bằng bản
án kết tội của Tòa án nếu thời điểm phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu


trách nhiệm hình sự hoặc họ được miễn trách nhiệm hình sự. Trong những trường
hợp đó, người phạm tội khơng bị coi là có tội. Trong trường hợp, người phạm tội bị
Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật thì người phạm
tội là người “bị coi là có tội”. Thuật ngữ “người phạm tội” và “người bị coi là có
tội” là hai thuật ngữ khác nhau. Người phạm tội là người thực hiện một hành vi
được Luật hình sự quy định là tội phạm, cịn người bị coi là có tội là người bị Tòa

án kết tội bằng một bản án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, người
phạm tội có thể khơng phải chịu trách nhiệm hình sự, khơng bị coi là có tội, cịn
người bị coi là có tội tức là người phạm tội đã phải chịu một hậu quả pháp lý trước
Nhà nước về việc thực hiện hành vi phạm tội của mình chịu sự lên án của Nhà
nước mà Tòa án là người đại diện, thơng qua việc áp dụng Luật hình sự, kết tội
người phạm tội.
Thứ hai, người bị tình nghi, bị can, bị cáo khơng có nghĩa vụ chứng minh sự
vơ tội của mình, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan
tiến hành tố tụng.
Tại Điều 10 của Bộ luật TTHS quy định về nguyên tắc xác định sự thật của
vụ án như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ
tội”.
Theo chúng tơi, thực chất quy định trên không thuộc nội dung nguyên tắc
xác định sự thật của vụ án mà thuộc về nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội.
Bởi vì, cùng với việc khẳng định không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội
khơng có nghĩa vụ phải chứng minh sự vơ tội của mình. Để xác định một người là
người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được


người đó là người thực hiện hành vi bị Luật hình sự coi là tội phạm. Nếu khơng
chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì khơng thể kết tội người đó.
Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người
phạm tội, nhưng nếu khơng chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được
Luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng khơng thể truy
cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm là một
quá trình. Qúa trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quyền và
trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát mà còn thuộc về cả Tòa án.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuôc về
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, còn Tòa án với chức năng xét xử thì khơng có
trách nhiệm chứng minh. Chúng tơi cho rằng quan điểm này khơng phù hợp. Đúng
là Tịa án có chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo mơ hình tố tụng
tranh tụng, trong đó bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những vấn đề liên quan để
chứng minh hay bác bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó, Tịa án khơng tham
gia vào bên buộc tội hay bên gỡ tội mà đứng giữa những người trọng tài phân xử.
Ở Việt Nam, mơ hình tố tụng là mơ hình thẩm vấn. Tại phiên tịa, Tòa án tham gia
vào việc thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng những biện
pháp do pháp luật quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm
tội; nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Trên cơ
sở đó, Tịa án mới ra phán quyết, kết tội, quyết định hình phạt đối với họ. Như vậy,
theo pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Tịa án cũng có trách nhiệm chứng minh tội
phạm.
Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có
quyền nhưng khơng có nghĩa vụ chứng minh sự vơ tội của mình. Điều này có
nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng minh


mình khơng phạm tội. Ví dụ, chứng minh mình vơ tội bằng việc đưa ra chứng cứ
về thời gian xảy ra vụ việc mình khơng có ở đó và khơng thể thực hiện hành vi
phạm tội hoặc đưa ra chứng cứ, chứng minh có người khác,chứ khơng phải mình
đã thực hiện tội phạm…
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã
mặc nhiên thừa nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng khơng phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308 của BLHS
và cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại

Điều 48 của BLHS. Trong trường hợp bị can, bị cáo thành khẩn khai báo thì lại bị
coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong giai đoạn điều tra họ
khơng khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn khai báo
thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai
báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp bị cáo khai
báo gian dối thì họ cũng khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian
dối theo quy định tại tại Điều 307 của BLHS.
Thứ ba, mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo nếu khơng được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố
tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can,
bị cáo.
Ngun tắc suy đốn vơ tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng
cứ xác thực khơng cịn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can,
bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu khơng chứng minh làm rõ
được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được
giải thích theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là phạm tội nhưng


khơng chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một
người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có
cơ sở xác định hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn
thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…
Mục đích của Luật tố tụng hình sự là tội phạm là tội phạm phải được phát
hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế có thể xảy ra tình huống
các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc
dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp
luật quy định. Trong trường hợp này, ngun tắc suy đốn vơ tội phải thực hiện
theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đốn vơ tội.

Thứ nhất, ngun tắc suy đốn vơ tội đáp ứng yêu cầu chứng minh
Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, khơng chỉ
là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm
lý của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá
bằng sinh mệnh của con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đốn
có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và
ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình
nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều
trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hồn tồn vơ tội. Lúc đó, có bồi
thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ khơng thể nói là đã bù đắp
được tồn bộ.


Thứ hai, ngun tắc suy đốn vơ tội cịn bảo vệ được quyền của người bị
tình nghi, bị can, bị cáo.
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã hội chống lại
hành vi xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự
xâm hại quyền con người từ phía cơng quyền. Suy đốn vơ tội cịn đem đến sự cân
bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều
tra, truy tố, xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực Nhà nước với một
bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền
của người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh
nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đốn vơ tội cịn phù hợp với quy
luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: Một người ln vơ tội khi Nhà nước
không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ
có tội.
Có thể nhận định rằng, suy đốn vơ tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên
tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh

được hành vi phạm tội thì phải suy đốn theo hướng ngược lại. Ngồi ra, ngun
tắc suy đốn vơ tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng
trong việc chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ
quan để kết tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ
luật TTHS, là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình sự.
3. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong Hiến pháp năm 2013
Như đã nói ở trên, nguyên tắc suy đốn vơ tội là ngun tắc bảo đảm quyền
con người, hiểu một cách đơn giản nhất, nội dung của nguyên tắc suy đốn vơ tội
là một người sẽ khơng bị coi là có tội nếu khơng bị kết án bởi quyết định của Tịa
án có hiệu lực pháp luật. Tại Điểu 11 của Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của


Liên hợp quốc và Điều 14 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm
1966 đều có quy định: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đốn là
khơng phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do
pháp luật quy định bằng phiên tịa xét xử cơng khai của Tịa án với sự bảo đảm đầy
đủ khả năng bào chữa của người đó”.
Ở nước ta. Ngun tắc suy đốn vơ tội mặc dù chưa được cơng nhận một
cách chính thức, nhưng tư tưởng của ngun tắc này đã được đề cập trong một số
văn bản quy phạm pháp luật như:
Thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 đã hướng dẫn: “Khơng nên có
định kiến rằng, hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như người có tội,
bị can, bị cáo trước khi tun án được coi nhu vơ tội để Tịa án có thái độ hồn
tồn khách quan”; Thơng tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối
cao đã đưa ra hướng dẫn có tính ngun tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án như
sau: “Việc xét hỏi tại phiên tịa nhằm trực tiếp và cơng khai thẩm tra lại các chứng
cứ của vụ án. Do đó, hội đồng xét xử phải xét hỏi một cách đầy đủ, khách quan,
cần tránh tư tưởng quá tin vào hồ sơ mà coi nhẹ tác dụng việc xét hỏi tại phiên tòa,
hoặc cho rằng xét hỏi chỉ nhằm buộc tội bị can phải nhận những lời mà họ đã khai
ở cơ quan điều tra”.

Trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), nội dung của
ngun tắc suy đốn vơ tội quy định tại Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên
gọi của chương là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân”: “Khơng ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được
bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật
trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý
nghiêm minh”. Điều này có nghĩa tại thời điểm đó chúng ta đã đồng nhất khái niệm


quyền con người nằm trong quyền công dân do Nhà nước quy định. Chúng ta chưa
thừa nhận quyền con người với những quyền cơ bản như quyền được sống, được
ăn, ở mặc, quyền được coi là khơng có tội khi chưa bị Tòa án xét xử tuyên bằng
một bản án kết tội…, là những quyền cơ bản của con người phải được tôn trọng,
bảo vệ mà không phụ thuộc vào bất cứ quy định của một thể chế chính trị hay một
nhà nước nào.
Quy định trên đã được thể chế hóa tại Điều 9, Điều 10 Bộ luật TTHS năm
2003. Điều 9 quy định: “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa
có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” và Điều 10: “Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ
xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng
buộc phải chứng minh là mình vơ tội”.
Có thể thấy, Điều 9, Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng khơng quy định
tên gọi “ngun tắc suy đốn vơ tội” và tách thành hai điều luật. Nếu như phân tích
kỹ và có sự so sánh chúng ta thấy dường như có một sự đối lập giữa quy định của
Điều 9 và Điều 10 của Bộ luật TTHS năm 2003. Trong khi Điều 9 thể hiện tương
đối gần với nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội, tức là nguyên tắc trọng chứng

cứ, thì Điều 10 lại thể hiện với tên gọi của nó là “xác định sự thật khách quan của
vụ án”, tức là có thể chứng cứ yếu nhưng nếu đúng là sự thật khách quan thì các cơ
quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bổ sung chứng cứ đến cùng để kết tội.
Có thể đây cũng là lý do mà các nội dung trên khơng được quy định trong cùng
một điều luật và nó cũng thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta có sự đặc thù
khác biệt so với “tố tụng tranh tụng” của các nước khác, chúng ta tôn trọng sự thật


khách quan hơn là cơng nhận những chứng cứ có thể làm cho sự thật khách quan
không thể chứng minh được.
Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ nguyên tắc suy đốn vơ tội: thời gian gần
đây, một điểm được dư luận xã hội rất quan tâm là việc liên quan đến một số vụ án
oan sai, như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Với việc ban hành các văn
bản luật tới đây, tình trạng trên sẽ được khắc phục như thế nào? Đây là một trong
những điểm rất quan trọng vừa được sửa đổi, bổ sung và quy định rất cụ thể trong
Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp lần này đã làm rõ hơn nguyên tắc suy đoán vơ tội.
Nghĩa là bây giờ có thêm một điều kiện rất quan trọng nghĩa là việc buộc tội phải
được chứng minh thì mới có bản án.
Hiến pháp năm 2013 đã công nhận quyền con người là một quyền độc lập
tách khỏi quyền công dân. Những quy định của Chương V Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và được quy
định tại Chương II Hiến pháp năm 2013 với tên gọi của Chương là: Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nội dung của nguyên tắc suy đốn
vơ tội được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như sau:
“1. Người bị buộc tội bị coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật
định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc
tun án phải được cơng khai.
3. Khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền
tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.


5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp
luật”.
So với quy định của Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) thì Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định các nội dung mới tại các khoản
2, 3, 4. Tại khoản 5 cũng bổ sung thêm việc người bị khởi tố, điều tra, thi hành án
trái pháp luật cũng có quyền được bồi thường; nội dung bồi thường được mở rộng
thêm yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trên cơ sở những quy định mới tại
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như trên, nội dung của ngun tắc suy đốn vơ tội đã
được thừa nhận rõ ràng và cụ thể hơn trong hiến pháp năm 1992.
Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản
án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật thì một người bị coi là có tội và chịu hình
phạt. Nhưng Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh và chỉ rõ, một người bị kết tội
phải có hai điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình tự luật định và hai là, có bản
án có hiệu lực pháp luật của Tịa án.
Quyền được đưa ra xét xử của một người bị nghi là thực hiện tội phạm cũng
đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh
điều tra hành vi phạm tội của người đó theo trình tự luật định và phải nhanh chóng
đưa ra Tịa án xét xử đúng thời hạn, việc tuyên án phải được công khai kể cả trong
những trường hợp xét xử kín. Việc ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ tội nhằm khắc
phục sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng



đối với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đồng thời còn tạo điều
kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì
một tội phạm. Đây khơng chỉ đơn thuần là việc đổi mới về kỹ thuật lập pháp đã
tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, thể hiện việc Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và
thực hiện Cơng ước quốc tế mà cịn thể hiện sự quan tâm, nỗ lực của Đảng và Nhà
nước ta trong việc đảm bảo quyền con người.
Ngun tắc suy đốn vơ tội có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc đảm bảo
quyền được bào chữa. Bởi vì, nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử thì
việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ cịn là hình thức. Người
bào chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các quyền và
lợi ích chính đáng của bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa nhằm đưa ra các luật
cứ chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận đồng ý hay không
đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh cũng như các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát buộc tội. Đảm bảo
quyền bào chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền con người. Vì vậy, Hiến pháp
năm 2013 cũng đã quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ Luật sư, người khác
bào chữa của những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử.
Ngoài ra, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung chính xác các giai đoạn
tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật TTHS về người bị bắt, người bị tạm
giữ, tạm giam về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị
điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật thì có quyền được bồi thường thiệt hại về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị
xử lý theo pháp luật.


3. Thể chế hóa những nội dung của nguyên tắc suy đốn vơ tội trong Bộ

luật Tố tụng hình sự cho phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Bộ luật TTHS năm 2003 đã có những quy định rất tiến bộ khi đảm bảo cho
quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ cũng như nghĩa vụ của
những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo các quyền lợi ấy. Thế nhưng, xét
về tổng thể, ngun tắc suy đốn vơ tội nhìn chung vẫn chưa được đảm bảo một
cách toàn diện trong những quy định pháp luật cũng như thực tiễn ứng dụng. Hiện
nay, chúng ta đang trong quá trình nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Bộ
luật TTHS năm 2003 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp với luật pháp
quốc tế. Việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 thì việc sửa đổi,
bổ sung Bộ luật TTHS là việc làm cần thiết. Tuy cịn có những quan điểm khác
nhau, nhưng chúng tơi đồng tình với đa số ý kiến cho rằng: Cần bổ sung ngun
tắc suy đốn vơ tội trong Bộ luật TTHS nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình
sự là xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền con người
trong các hoạt động tố tụng hình sự.
Vì vậy, chúng tơi cho rằng khơng nên quy định gộp Điều 9 và Điều 10 Bộ
luật TTHS năm 2003 vào một điều luật và lấy tên là “ngun tắc suy đốn vơ tội”
như một số đề xuất. Bởi vì pháp luật của Nhà nước ta là pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của số đơng người dân. Luật tố tụng hình sự của nước ta
thiên về tố tụng thẩm vấn và hướng đến tăng cường hoạt động tranh tụng, chứ
không nhằm chuyển hẳn sang tố tụng tranh tụng. Tố tụng tranh tụng là hình thức tố
tụng trọng chứng cứ hơn sự thật khách quan. Pháp luật của Nhà nước ta, bên cạnh
việc công nhận quyền được im lặng, quyền bào chữa, quyền được chối tội mà
khơng bị tăng nặng hình phạt, quyền được coi là khơng có tội khi các cơ quan tiến
hành tố tụng khơng tìm đủ chứng cứ kết tội, quyền được áp dụng ngun tắc có
lợi…, thì chúng ta cịn có quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố


tụng trong việc bằng mọi cách phải chứng minh được sự thật khách quan của vụ
án.
Vì vậy, chúng ta nên sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2003 theo hướng vẫn quy

định hai nội dung trên ở hai điều luật khác nhau sẽ đảm bảo ngun tắc suy đốn
vơ tội hướng đến chân lý và sự thật khách quan hơn là ngun tắc suy đốn vơ tội
đơn thuần trọng chứng cứ. Đồng thời, nên bổ sung một số quy đinh tại Điều 9 Bộ
luật TTHS năm 2003 cho phù hợp với quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013
theo hướng sau:
“Điều 9: Suy đốn vơ tội
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đốn vơ tội cho đến khi có bản án
kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điểu tra, Viện kiểm sát,
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người bị bắt,
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh sự vơ tội
của mình.
Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không
được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật nảy quy định thì phải được giải thích
theo hướng có lợi cho họ.
Bản án kết tội của Tòa án dựa trên những căn cứ giả định”.



×