Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Đời sống văn hóa của người khmer ở tỉnh sóc trăng dưới góc nhìn của mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐỖ LÝ TẤN PHÚC

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI KHMER
Ở TỈNH SÓC TRĂNG DƯỚI GĨC NHÌN CỦA MỐI QUAN HỆ
GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

ĐỖ LÝ TẤN PHÚC

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI KHMER
Ở TỈNH SÓC TRĂNG DƯỚI GĨC NHÌN CỦA MỐI QUAN HỆ
GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH

: TRIẾT HỌC

CHUYÊN NGÀNH

: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS Nguyễn Thị Như Huế

HÀ NỘI, 2020


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn cô giáo TS.Nguyễn Thị Như
Huế - người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tác giả hồn thành khóa luận tốt
nghiệp đúng thời gian quy định.
Khóa luận tốt nghiệp không chỉ là kết quả của riêng 2 tháng nghiên cứu
mà được đúc rút từ những kiến thức mang tính nền tảng trong suốt 4 năm
dưới mái trường Học viện Báo chí – Tuyên truyền. Do vậy, tác giả xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô khoa Triết học trong suốt 4 năm qua đã luôn
động viên, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp đỡ để tác giả có hướng phấn
đấu nhằm mang lại kết quả tốt nhất trong học tập.
Bên cạnh đó, tác giả cũng xin cảm ơn các cơ quan ban nghành của địa
phương, đặc biệt là Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Ban tuyên giáo tỉnh Sóc
Trăng, Ban dân tộc tỉnh Sóc Trăng, Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Sóc

Trăng, Thư viện tỉnh đã cung cấp tài liệu liên quan và tạo mọi điều kiện để tác
giả hoàn thành khóa luận này.
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như những kinh nghiệm hạn chế
của một sinh viên nên khóa luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cơ hội đồng
cùng tồn thể độc giả quan tâm để tác giả có điều kiện bổ sung, học hỏi kinh
nghiệm nhằm hoàn thiện kiến thức của mình trong q trình học tập, cơng tác
sau này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Đỗ Lý Tấn Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ................................. 9
1.1. Khái niệm, kết cấu của tồn tại xã hội và ý thức xã hội ........................... 9
1.2. Khái niệm về văn hóa, đời sống văn hóa .............................................. 17
1.3. Sự hình thành tộc người, địa bàn cư trú và nguồn gốc văn hóa của
người Khmer tỉnh Sóc Trăng ....................................................................... 24
CHƯƠNG II.VĂN HÓA TRONG ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ ĐỜI
SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI KHMER TỈNH SÓC TRĂNG ........ 36
2.1. Văn hóa trong đời sống vật chất của người Khmer tỉnh Sóc Trăng ..... 37
2.2. Văn hóa trong đời sống tinh thần của người Khmer Sóc Trăng ........... 51
2.3. Giá trị văn hóa trong đời sống người Khmer Sóc Trăng ...................... 70
2.4. Mốt số vấn đề đặt ra ảnh hưởng đến đời sống văn hóa người Khmer
tỉnh Sóc Trăng và giải pháp để tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị đời sống
văn hóa của người Khmer Sóc Trăng .......................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 99


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu
Trong Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số
miền Nam tại Plâyku, thể hiện quan điểm, tư tưởng của Bác đối với vấn đề
đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và kiến
thiết nước nhà. Ngày 19 tháng 4 năm 1946, Đại hội các dân tộc thiểu số miền
Nam được khai mạc tại Plâyku, Bác Hồ khẳng định: “đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu
số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau... Giang sơn và Chính
phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc
chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ
ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau
để mưu cầu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sơng có thể
cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta không bao giờ giảm
bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập
của chúng ta”. Hòa hợp dân tộc là ước vọng chính đáng của đại đa số người
Việt Nam trong nước và sinh sống ở nước ngoài. Đây là điều kiện cần thiết
cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Trên thực tế, chính sách
hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đã đạt những kết quả quan trọng,
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, Trích Thư gửi đồng bào Nam bộ
tháng 6 năm1946 Bác Hồ đã từng nói: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón
dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng
có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta”. Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, tuy nhiên
khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo cũng như mức sống của các dân tộc là
không hề nhỏ. Vì thế, tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải

1


pháp, làm lan tỏa giá trị nhân văn trong chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta để cảm hóa, nâng cao tinh thần đồn kết mọi người
dân Việt Nam cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước phát triển đồng đều
và giàu mạnh là nhiệm vụ quan trọng.
Văn hóa của người Khmer Sóc Trăng được hình thành từ rất lâu đời, là
kết quả của sự kế thừa nhiều nền văn hóa khác nhau vừa đa dạng vừa phong
phú. Người Khmer chiếm tỷ lệ khá đơng dân cư tồn tỉnh, vì vậy việc xây
dựng và phát triển đời sống văn hóa đồng bào dân tộc Khmer cũng góp phần
lớn cho sự phát triển văn hóa tồn tỉnh cũng như của khu vực Tây Nam Bộ.
Trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Sóc Trăng
rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống văn hóa cho đồng bào các dân tộc,
đặc biệt chú trọng đến dân tộc Khmer. Hiện nay, đời sống văn hóa của đồng
bào dân tộc Khmer có nhiều tiến bộ và thay đổi nhưng vẫn gặp phải nhiều khó
khăn, bất cập.
Do đó, việc tìm hiểu để xây dựng và phát huy đời sống văn hóa tốt đẹp
cho đồng bào dân tộc Khmer Sóc Trăng hiện nay càng thực sự cần thiết và
cấp bách, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất, tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển bền vững
Chính vì lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài“đời sống văn hóa của
người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng dưới góc nhìn của mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội” hướng đến giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa tốt
đẹp của người Khmer Sóc Trăng.
2. Tình hình nghiên cứu
- Tìm hiểu về đời sống văn hóa của người Khmer và việc giữ gìn, phát
huy văn hóa của người Khmer là mảng đề tài được nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều nhà khoa học quan tâm khai thác:
“Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ

trong công cuộc đổi mới hiện nay”, luận án tiến sĩ của Trần Thanh
2


Nam(2011). Tác giả đã phân tích vai trị của đời sống tinh thần trong sự phát
triển xã hội, các yếu tố thuộc đời sống tinh thần nói chung, đời sống tinh thần
của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ nói riêng, trong đó có nhiều yếu tố về
truyền thống phong tục tập quán và những yếu tố ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long.
“Phát triển bền vững với việc giữ gìn giá trị truyền thống các dân tộc
thiểu số bản địa tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ của
Bùi Thị Hồ (2011). Cơng trình làm rõ lý luận về phát triển bền vững và mối
quan hệ với việc giữ gìn giá trị truyền thống các dân tộc thiểu số bản địa ở
Đắk Nông, đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao kết quả của quá trình
phát triển bền vững gắn với việc giữ gìn giá trị truyền thống các dân tộc thiểu
số bản địa phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội của tỉnh
Đăk Nông trong giai đoạn hiện nay.
“Một số giải pháp nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc Khmer ở
miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay”, đề tài khoa học do Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực II chủ trì - thạc sĩ Lê
Tăng (2013) chủ nhiệm đề tài. Đề tài trình bày thực trạng đời sống đồng bào
dân tộc Khmer, những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nâng cao đời sống và
đề ra các giải pháp để nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc Khmer ở Tây
Nam Bộ.
“Vấn đề phát huy giá trị những phong tục, tập quán của người Khmer
Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ của Trương Kim Hảnh
(2015). Luận văn chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của phong tục tập
quán người Khmer. Đề ra phương hướng, giải pháp phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực trong phong tục tập quán của người Khmer.
“Giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc khmer hướng đến mục tiêu

phát triển bền vững ở tỉnh Cà Mau”, luận văn thạc sỹ Dương Như Ý (2016).
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về giá trị văn hoá của dân tộc
3


Khmer với phát triển bền vững; Phân tích thực trạng, làm rõ thành tựu, hạn
chế và những bất cập, những vấn đề đặt ra trong giữ gìn, phát huy giá trị văn
hoá dân tộc Khmer hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở tỉnh Cà Mau; Đề
xuất phương hướng và những giải pháp giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá dân
tộc Khmer hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở tỉnh Cà Mau.
“Hiệu quả tuyên truyền văn hóa Khmer Nam Bộ trên báo chí của tỉnh
Sóc Trăng hiện nay”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Minh Trí (2017). Luận văn
khái quát những vấn đề lý luận về cơng tác tun truyền văn hóa Khmer Nam
Bộ của báo chí Sóc Trăng; đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong
hoạt động của báo chí tỉnh Sóc Trăng; dự báo xu hướng phát triển của báo chí
Sóc Trăng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tun truyền văn hóa
Khmer Nam Bộ của báo chí tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
“Đấu tranh phịng, chống "Diễn biến hịa bình" trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa trong đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay”, luận văn
thạc sỹ của Hồ Văn Sáu (2017). Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về
cuộc đấu tranh phịng, chống "Diễn biến hịa bình" trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa; Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng; Đề xuất quan điểm và giải
pháp để tăng cường cuộc đấu tranh phịng, chống "diễn biến hịa bình" trên
lĩnh vực tư tưởng - văn hóa trong đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Sóc Trăng
- Bên cạnh các đề tài tiêu biểu kể trên cịn có các sách, bài viết đăng tải
trên các tạp chí như:
“Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Trường Lưu
(1993) chủ biên, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. Các tác giả đã
trình bày khái quát về người Khmer đồng bằng sơng Cửu Long, về tín ngưỡng
tơn giáo, lễ hội, phong tục tập quán, văn học, nghệ thuật... nhìn chung, các tác
giả đã đề cập khá tồn diện về dân tộc Khmer và lễ hội của người Khmer
Nam Bộ.


4


“Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ” của Thạch Voi (1998),
Nxb Tổng hợp Hậu Giang. Tác giả đã viện dẫn nhiều nguồn tư liệu về quá
trình hình thành dân tộc Khmer ở Nam Bộ, làm rõ quá trình phát triển của dân
tộc Khmer.
" Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt
ra" của GS.TS Trần Văn Bính (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong
cơng trình nghiên cứu này, tập thể tác giả cho rằng công cuộc đổi mới của
Đảng đã làm bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước thay đổi đáng kể, đời sống
bà con các dân tộc thiểu số thực sự được cải thiện. Công cuộc đổi mới cũng
khẳng định các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc anh em trong đại
gia đình văn hóa Việt Nam. Bằng thái độ khoa học nghiêm túc, nhìn thẳng
thực trạng đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Nam bộ trong đó chủ
yếu là văn hóa truyền thống của bà con các dân tộc Chăm, Khmer, Hoa, các
tác giả cơng trình cố gắng vẽ lên bức tranh về thực trạng văn hóa để đề xuất
những kiến nghị và những giải pháp nhằm nâng cao, phát triển đời sống văn
hóa các dân tộc trên địa bàn các tỉnh Tây Nam bộ.
"Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam"
(tái bản có sửa chữa, bổ sung) Phạm Thị Phương Hạnh (2012), Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật. Cuốn sách giới thiệu những nét văn hóa đặc trưng của
người Khmer Nam bộ, gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Qua tiến
trình cộng cư lâu đời cùng với các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm,... trên mảnh đất
Nam bộ, người Khmer đã có sự giao thoa văn hóa với các dân tộc anh em.
Nhưng cơ bản, người Khmer vẫn giữ được những nét văn hóa đặc sắc, những
cốt cách, tinh hoa của dân tộc mình. Thể hiện rõ nét nhất qua các ngôi chùa
Khmer và sinh hoạt ở mỗi phum, sóc, gắn liền với Phật giáo Nam tơng Tiểu
thừa, qua tiếng nói, chữ viết, các lễ hội truyền thống, các hình thức nghệ thuật

như kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, sân khấu, ca múa,... Những bản
sắc vơ cùng độc đáo đó của đồng bào Khmer Nam bộ đã đóng góp lớn vào sự
5


đa dạng, phong phú của văn hóa đồng bằng sơng Cửu Long, Nam bộ nói riêng
và của văn hóa Việt Nam nói chung.
Giá trị văn hóa khmer vùng đồng bằng sơng Cửu Long (2011), Huỳnh
Thanh Quang, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Cuốn sách tập trung
nghiên cứu một số giá trị cơ bản của văn hóa Khmer đồng bằng sông Cửu
Long, thực trạng việc phát huy giá trị văn hóa Khmer thời gian qua.
Bài báo “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Khmer Nam Bộ” do tác
giả.Nguyễn Văn Sỹ (Bài báo đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2016).
Bài báo “ Bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ đáp ứng
nhu cầu phát triển bền vững đất nước” do tác giả Thạch Pích (18/11/2017)
(Nguồn Báo Sóc Trăng).
Như vậy, đã có nhiều đề tài cũng như là các sách và các bài viết tiêu
biểu đi vào nghiên cứu đời sống văn hóa của người Khmer cả về đời sống vật
chất và đời sống tinh thần ở các khía cạnh khác nhau, những địa phương khác
nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về “đời sống văn hóa của người Khmer ở tỉnh
Sóc Trăng dưới góc nhìn của mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội” hướng đến giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của người
Khmer Sóc Trăng là một đề tài có giá trị lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Mục đích đề tài là tìm hiểu đời sống văn hóa của người Khmer Sóc
Trăng dưới góc nhìn mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Qua
đó, đánh giá những giá trị văn hóa trong đời sống người Khmer Sóc Trăng và
chỉ ra một số vấn đề đặt ra ảnh hưởng đến đời sống văn hóa và giải pháp để
tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị đời sống văn hóa của người Khmer Sóc

Trăng
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích trên nhiệm vụ của đề tài là:
6


- Làm rõ khái niệm lý luận chung về: tồn tại xã hội,ý thức xã hội và đời
sống văn hóa.
- Tìm hiểu văn hóa trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
người Khmer tỉnh Sóc Trăng.
- Đánh giá những giá trị văn hóa trong đời sống của người Khmer tỉnh
Sóc Trăng
- Chỉ ra một số vấn đề đặt ra ảnh hưởng đến đời sống văn hóa và giải
pháp để tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị đời sống văn hóa của người Khmer
Sóc Trăng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Đời sống văn hóa người Khmer.
- Phạm vi: Đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người
Khmer dưới góc nhìn mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong
phạm vị tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận:
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và kế thừa các cơng trình khoa học trước đó về đề tài văn hóa
người Khmer nói chung và văn hóa người Khmer Nam bộ nói riêng.
5.2.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời kết hợp một số phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh từ các nguồn tài liệu thu thập được;
ngồi ra cịn sử dụng phương pháp lịch sử, logic…

6. Đóng góp của đề tài
Về lý luận: Tìm hiểu về đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
của người Khmer tỉnh Sóc Trăng dưới góc độ của triết học về tồn tại xã hội, ý

7


thức xã hội nói chung và về các mối quan hệ trong đời sống văn hóa của
người Khmer tỉnh Sóc Trăng nói riêng.
Về thực tiễn: Đề tài góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
dân tộc Khmer Nam Bộ nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Đề tài có thể
làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành triết học, ngành văn hóa học và
cũng như những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Mục lục. Đề tài
được triển khai trong 2 chương và 7 tiết.

8


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm, kết cấu của tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Nếu như cách giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại là
tiêu chuẩn để xác định lập trường triết học là duy tâm hay duy vật, là khả tri
hay bất khả tri, thì đối với lịch sử xã hội, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học duy vật về lịch sử. Triết
học trước Mác, các học thuyết triết học hoặc khơng đánh giá đúng vị trí của
vấn đề này hoặc trả lời nó theo lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Chỉ đến
C.Mác và Ph. Ăngghen, một cuộc cách mạng trong tư tưởng triết học mới
được thực hiện. Các ông đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để bằng

việc làm sáng tỏ nguyên lý tồn tại xã hội là tính thứ nhất, ý thức xã hội là tính
thứ hai, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, mặt khác, ý thức xã hội cũng
có tính độc lập tương đối của nó. Với việc vạch ra phạm trù tồn tại xã hội, các
ông đã xem xã hội như một hình thái phát triển cao nhất của vật chất, do vậy,
đã đem lại tiêu chuẩn khách quan cho việc xem xét các hình thái ý thức xã
hội.
1.1.1.Tồn tại xã hội
*Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội [1;tr.354]. Các yếu tố cơ bản tạo
thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, gồm có:
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ,
phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:
các điều kiện khí hậu, đất đai, sơng hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của khơng
gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.

9


Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất
lưu dân cư, mơ hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác
động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức sản xuất là
nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã
hội và nó làm thay đổi ý nghĩa của hồn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong
sự phát triển của xã hội.

Xét về thực chất, hoạt động vật chất của xã hội chính là hoạt động thực
tiễn mà trước hết và cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất để duy trì sự sinh
tồn và phát triển của xã hội, đồng thời gắn với hoạt động đó là quá trình hình
thành, phát triển của các hình thức, phương thức giao tiếp, trao đổi kết quả
của sản xuất vật chất giữa con người với nhau cũng như giữa các cộng đồng
xã hội khác nhau.
*Kết cấu của tồn tại xã hội
Các điều kiện vật chất khách quan quy định sự tồn tại và phát triển của
mỗi một xã hội bao gồm nhiều yếu tố cơ bản là điều kiện tự nhiên, dân cư, và
phương thức sản xuất; trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và trực
tiếp nhất quy định sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội.
Điều kiện địa lí tự nhiên với tư cách là yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại
xã hội – đó là tồn bộ những điều kiện vật chất tự nhiên tạo thành những điều
kiện khách quan cho sự sinh tồn và phát triển của cộng đồng người trong lịch
sử. Một cách hiển nhiên, khơng thể có cộng đồng người nào, dù là xã hội
nguyên thuỷ hay xã hội hiện đại, có thể tồn tại ngồi những điều kiện vật chất
tự nhiên nhất định. Giới tự nhiên là “thân thể vơ cơ” của con người. Chính từ
trong điều kiện tự nhiên mà con người có thể thực hiện quá trình trao đổi chất,

10


tiến hành sản xuất, cung cấp những điều kiện vật chất đảm bảo sự sinh tồn và
phát triển của mình.
Yếu tố dân cư bao gồm toàn bộ các phương diện về số lượng, cơ cấu,
mật độ phân bố, cấu trúc tổ chức dân cư tạo thành điều kiện vật chất khách
quan đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của xã hội. Thí dụ, cấu trúc cư dân
nơng nghiệp lúa nước ở Việt Nam, với tổ chức làng xã ổn định có những khác
biệt khá lớn so với cách thức cấu trúc dân cư của các cộng đồng dân du mục
thường xuyên di động. Sự phân bố và tổ chức dân cư trong xã hội nông

nghiệp truyền thống cũng có sự khác biệt cơ bản với xã hội cơng nghiệp thị
trường ở các nước có trình độ sản xuất vật chất phát triển cao. Trong các xã
hội nông nghiệp truyền thống, tổ chức dân cư thường phân tán, tách biệt với
quy mơ nhỏ, đó là các mơ hình “cơng xã nơng thơn” (mơ hình tổ chức làng,
bản...), việc quan hệ trao đổi hàng hoá rất hạn chế, chỉ là sự liên kết ngẫu
nhiên. Ngược lại, trong các xã hội công nghiệp phát triển gắn kết với phương
thức kinh tế thị trường, tổ chức dân cư cũng có những biến đổi cơ bản. Đó là
q trình di dân làm hình thành nên những khu công nghiệp và thành thị với
quy mô lớn, nhằm tạo ra những điều kiện tiền để khách quan cho quá trình
phát triển nền sản xuất vật chất hiện đại.
Các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên và dân cư là những yếu tố tiền
để cho việc xác lập một phương thức sản xuất nhất định, đồng thời các yếu tố
đó cũng biến đổi theo yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển các
phương thức sản xuất trong lịch sử.
Phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và trực tiếp quy định sự sinh tồn,
phát triển của mỗi con người cũng như của toàn bộ cộng đồng xã hội, quy
định trực tiếp phương thức hoạt động vật chất của mỗi xã hội. Phương thức
sản xuất nào cũng được tạo nên từ hai mặt, đó là mặt vật chất – kĩ thuật của
q trình sản xuất (biểu hiện tập trung ở trình độ phát triển phương thức là kĩ
thuật, công nghệ) và mặt kinh tế - xã hội của quá trình ấy (thể hiện tiêu biểu ở
11


trình độ phát triển của phương thức tổ chức kinh tế). Trong hai mặt đó, mặt
kinh tế - xã hội phụ thuộc tất yếu vào trình độ phát triển của mặt vật chất – kĩ
thuật; nó trực tiếp quy định tính chất và trình độ phát triển của một tồn tại xã
hội nhất định.
Thí dụ, phương thức sinh tồn cơ bản và truyền thống của cư dân người
Việt trong lịch sử là phương thức kĩ thuật canh nông lúa nước với trình độ
cơng cụ và lao động thủ cơng (xét về mặt phương thức kĩ thuật). Thích ứng

với phương thức kĩ thuật đó là phương thức tổ chức kinh tế với quy mơ nhỏ
và phân tán theo ngun lí lấy tổ chức kinh tế hộ gia đình cùng cấu trúc tổ
chức “công xã nông thôn” hay làng xã truyền thống làm cơ sở (phương thức
tổ chức kinh tế). Giữa các cơng xã đó chỉ có sự liên kết khơng thường xun
qua hình thức trao đổi hàng hố dư thừa tương đối để đảm bảo sự cân bằng
trong sinh hoạt vật chất giữa các cộng đồng người. Phương thức tổ chức kinh
tế ấy là cơ sở trực tiếp quy định tính ổn định theo nhịp điệu tuần hoàn lặp đi
lặp lại giữa các chu kì theo tính chất mùa vụ của quá trình sản xuất và tái sản
xuất trong nền sản xuất nông nghiệp truyền thống. Trong lịch sử, người Việt
Nam về cơ bản là theo phương thức sản xuất đó.
Giữa các yếu tố hợp thành tồn tại xã hội có mối quan hệ quy định và
chi phối lẫn nhau, tạo nên sự biến đổi trong lĩnh vực hoạt động, sinh hoạt vật
chất khách quan của mỗi cộng đồng xã hội. Trong đó, phương thức sản xuất
là yếu tố cơ bản và trực tiếp nhất quy định trình độ phát triển của tồn tại xã
hội. Khi phương thức sản xuất có sự phát triển nhờ những tiến bộ về kĩ thuật,
công nghệ sản xuất, tất yếu sẽ dẫn tới những biến đổi trong việc sử dụng các
nguồn lực tự nhiên và cơ cấu, phân bố dân cư để đảm bảo cho q trình xác
lập phương thức sản xuất mới.
Thí dụ, xuất phát từ tính chất đặc thù về điều kiện tự nhiên của đất
nước, người Việt Nam trong lịch sử đã tiến hành q trình sản xuất theo
phương thức canh nơng lúa nước. Để tiến hành q trình đó nhất định con
12


người phải liên kết lại dưới hình thức tổ chức lao động gia đình và tổ chức
dân cư theo mơ hình làng xã ổn định, bền vững. Sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ
bản đó tạo thành điều kiện khách quan cho sự sinh tồn và phát triển của người
Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở hiện thực quy định những nội dung và tính
chất cơ bản nhất trong đời sống tinh thần, truyền thống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông

nghiệp hiện nay tất yếu dẫn tới sự biến đổi trong việc sử dụng các nguồn lực
tự nhiên truyền thống và làm thay đổi cấu trúc nông thơn Việt Nam sang một
hình thức mới, trên cơ sở đó dẫn tới sự biến đổi, phát triển đời sống văn hóa –
tinh thần của nơng thơn mới và con người mới.
1.1.2.Ý thức xã hội
*Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những
quan điểm, tư tưởng, cùng những tình cảm, tâm trạng… của cộng đồng xã hội
nảy sinh từ Tồn tại xã hội và phản ảnh Tồn tại xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định [1;tr.355].
*Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là một hiện tượng phức tạp, tùy theo góc độ xem xét,
người ta có thể phân ý thức xã hội thành: ý thức thông thường và ý thức lý
luận; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những
hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng phương thức khác nhau.
Chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:
-Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của
con người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày,
chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá.

13


Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều
mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường chi phối cuộc sống đó. Ý
thức thơng thường tuy là trình độ thấp nhưng có vai trị quan trọng ở chỗ, nhờ
nó mà tri thức kinh nghiệm được hình thành, đây là tiền đề quan trọng để hình
thành các lý thuyết khoa học.

Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái
quát hoá thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm,
phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh
hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các
mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước
muốn, thói quen, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của
tồn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày
của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện
sống của xã hội và phản ánh có tính tự phát, do vậy thường ghi lại những mặt
bề ngồi khơng có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối
quan hệ xã hội. Tâm lý xã hội cịn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được
thể hiện về mặt lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận.
Tuy nhiên, tâm lý xã hội có vai trị nhất định trong đời sống xã hội,
biểu hiện ở chỗ, nếu nắm bắt được trạng thái tâm lý của nhân dân thì sẽ tìm ra
được các biện pháp để giáo dục nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc
đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một
cách gián tiếp, tự giác, khái quát hoá thành những quan điểm, tư tưởng (chính
trị, triết học, nghệ thuật, tơn giáo).

14


Đặc điểm của hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối
quan hệ xã hội do vậy có khả năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội.
Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới

toàn bộ xã hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định hướng sự
phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ
tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất
của xã hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ
vật chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau.
Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm
lý xã hội tạo điều kiện hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự
tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định và làm cho hệ tư
tưởng, lý luận xã hội bớt xơ cứng, bớt sai lầm. Trái lại hệ tư tưởng, lý luận xã
hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy
tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến
bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu
cực của tâm lý xã hội phát triển.
Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không
phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
1.1.3.Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của
xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng khơng thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là khơng thể
tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong chính hiện thực vật chất. Sự
biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ khơng giải thích được nếu chỉ căn cứ
15


vào ý thức thời đại đó. C.Mác viết: “Khơng thể nhân định được về một thời
đại đảo lộn như thế, căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích
ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện

có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất
ấy”.[13;tr.15]
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã
hội. Nghĩa là tồn tại xã hội quyết định nội dung phản ánh của ý thức xã hội:
nó quyết định ý thức xã hội ở sự nghèo nàn, phong phú hay đơn điệu trong
nội dung phản ánh. Tồn tại xã hội cũng quyết định tính chất cách mạng hay
phản ánh cách mạng, đối kháng hay không đối kháng trong ý thức xã hội. Khi
tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư
tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp quyền, triết học,
đạo đức, văn hóa nghệ thuật… sớm hay muộn cũng thay đổi theo. Cho nên,
chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những quan điểm, lý luận,
tư tưởng xã hội khác nhau thì đó chính là do những điều kiện khác nhau của
đời sống vật chất quyết định.
Triết học Mác Lênin với quan điểm về nguồn gốc ý thức không chỉ
dừng lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội mà
còn chỉ ra rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không phải một cách
đơn giản, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất
cứ tư tưởng quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ
ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ khi nào xét đến cùng
thì mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay
cách khác trong các tư tưởng ấy.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội,
còn ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết
học Mác Lênin không xem ý thức xã hội như một yếu tố hoàn toàn thụ động
16


mà trái lại cịn nhấn mạnh sự tác động tích cực trở lại của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với

tồn tại xã hội.
Ph. Ăng ghen đã khẳng định “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật,
triết học, tơn giáo, văn học, nghệ thuật…đều dựa vào sự phát triển kinh tế.
Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh
tế.” Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh
tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ
tư tưởng vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu
phát triển xã hội, vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì
vậy cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng
phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội[1;tr.363].
Như vậy, nguyên lý của triết học Mác - Lênin về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã
hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu
hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc
kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới
trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.
1.2. Khái niệm về văn hóa, đời sống văn hóa
1.2.1. Khái niệm về văn hóa
Khái niệm văn hóa là khái niệm rất phức tạp. Sau đây là một số khái
niệm về văn hóa:
E.B Tay lor đưa một khái niệm hiện đại về văn hóa: Văn hóa là một
tổng thể phức tạp, bao gồm trí thức tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, phong tục tập quán và thói quen mà con người đạt được trong xã
hội[14;tr.13].
17


Khái niệm văn hóa của UNESCO hướng vào cái cơ nhất và chung nhất.

Ở đây, văn hóa được định nghĩa: Văn hóa là tất cả những gì làm cho dân tộc
này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi nhất đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động, nhờ đó con người tự định vị mình
trong khơng gian và thời gian nhất định để có thể giải thích thế giới, phát triển
các năng lực biểu hiện giao lưu sáng tạo[2;tr.101].
Phạm vi của văn hóa hết sức rộng lớn, nhưng quan trọng hơn cả, nó là
những giá trị do hoạt động tinh thần - sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện
trình độ hiểu biết, thước đo trình độ phát triển và sự vươn lên tự hoàn thiện
của con người theo lý tưởng chân, thiện, mỹ.
Về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ở và phương thức sử dụng. Tồn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi
phương thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra
nhằm mục đích thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi sinh
tồn”[15;tr.431].
Trên đây là những khái niệm về văn hóa của những cá nhân, tổ chức
tiêu biểu đã trình bày. Qua đó cho ta thấy được một bức tranh chung về khái
niệm văn hóa. Do phạm vi của đề tài mang tính triết học, vì vậy tác giả sẽ sử
dụng khái niệm văn hóa đứng từ góc nhìn của triết học Mác – Lênin, như sau:
Văn hóa theo nghĩa rộng nhất - đó là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của mình trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng của tồn bộ
đời sống của lồi người. Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các mặt của đời
sống xã hội và quan tâm đến trình độ phát triển của con người[3;tr.155].

18



Văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp hơn - đó là những giá trị tinh thần, là
đời sống tinh thần của xã hội như đạo đức, tín ngưỡng, tơn giáo, thẩm mỹ,
tâm linh, nghệ thuật…Như vậy, văn hóa chỉ là một mặt chứ khơng phải tồn
bộ đời sống xã hội của lồi người[16;tr.1406].
*Phân biệt giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
Con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu
tinh thần, do vậy, con người cũng có hai loại hoạt động cơ bản là sản xuất vật
chất và sản xuất tinh thần. Từ đó, văn hố như một hệ thống thường được chia
làm hai dạng: văn hoá vật chất và văn hố tinh thần.
Văn hố vật chất bao gồm tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản
xuất vật chất của con người tạo ra: đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt
hàng ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại…
Văn hố tinh thần bao gồm tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản
xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng - tôn giáo, nghệ
thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương…
Sự phân chia này mới nhìn tưởng như khá rõ ràng và hiển nhiên, song
nhìn kĩ sẽ thấy xuất hiện hàng loạt trường hợp phức tạp.
Ví dụ: các dạng hoạt động, các quan hệ sản xuất… xếp vào dạng văn
hố vật chất hay tinh thần? Khơng ít các vật dụng sinh hoạt hàng ngày (vật
chất) lại có giá trị nghệ thuật rất cao (tinh thần), ví dụ như cái mi múc canh
thời Đơng Sơn có gắn tượng người ngồi thổi khèn, chiếc ngai vàng được
chạm trổ công phu; ngược lại, các sản phẩm tinh thần thường tồn tại dưới
dạng đã được vật chất hố, ví dụ như pho tượng, quyển sách.
Trong thực tế, văn hoá vật chất và tinh thần ln gắn bó mật thiết với
nhau và có thể chuyển hố cho nhau: khơng phải ngẫu nhiên mà K.Marx nói
rằng “Tư tưởng sẽ trở thành những lực lượng vật chất khi nó được quần
chúng hiểu rõ”. Bởi vậy mà tuỳ theo những mục đích khác nhau, việc phân

19



biệt văn hóa vật chất và văn hố tinh thần sẽ phải dựa vào những tiêu chí khác
nhau.
Với mục đích thực tế là phân loại các đối tượng văn hoá thì việc phân
biệt văn hố vật chất và tinh thần chỉ có thể thực hiện một cách tương đối căn
cứ vào “mức độ” vật chất hay tinh thần của đối tượng văn hố. Trong trường
hợp này, có thể dùng khái niệm “mục đích sử dụng” làm tiêu chí bổ trợ:
những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu vật chất thì, dù
có giá trị nghệ thuật cao đến mấy (như cái muôi thời Đông Sơn có gắn tượng
người ngồi thổi khèn dùng để múc canh, chiếc ngai vàng được chạm trổ công
phu dùng cho vua ngồi thiết triều) vẫn thuộc dạng văn hoá vật chất; còn
những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu tinh thần thì, dù
được vật chất hoá (như pho tượng, quyển sách mua về để trưng, để đọc),
chúng vẫn thuộc dạng văn hố tinh thần.
Cịn với mục đích phân loại các giá trị, làm rõ bản chất của chúng, đưa
ra một bức tranh khoa học về văn hố vật chất và tinh thần thì có thể dựa hẳn
vào chất liệu để phân biệt: theo đó, văn hố vật chất liên quan đến sự biến đổi
mang tính sáng tạo thiên nhiên quanh mình thành những sản phẩm có dạng
chất liệu vật thể; cịn văn hố tinh thần thì chỉ liên quan đến sự biến đổi thế
giới bên trong, thế giới tâm hồn của con người, sản phẩm của nó là tư tưởng
thuần tuý, “phi vật thể”. Với cách này, cùng một đối tượng có thể vừa có phần
giá trị vật chất, vừa có phần giá trị tinh thần của nó.
Riêng về các hoạt động thì, thơng thường, người ta xếp hoạt động sản
xuất vật chất vào dạng văn hố vật chất (vì loại hoạt động này phải sử dụng
nhiều năng lực cơ bắp, mồ hơi…), cịn hoạt động sản xuất tinh thần được xếp
vào văn hóa tinh thần (vì loại hoạt động này chủ yếu sử dụng năng lực trí tuệ).
1.2.2. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hoá là cụm từ mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào
những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm từ này là cụm từ “đời
20



sống mới”, tiêu đề của bài viết dưới dạng hỏi - đáp, công bố năm 1947, tác giả
Tân Sinh, một bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bối cảnh ra đời cụm từ
này là dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên làm cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và tầng lớp thống trị
phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà (mồng 2 tháng 9 năm 1945). Sau đó, chính quyền nhân dân non
trẻ bắt tay vào sự nghiệp kiến quốc và kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp
trở lại xâm lược Việt Nam. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn hố lúc đó là diệt
giặt dốt, cổ động tồn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc
đói, cổ vũ tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đạo đức cách
mạng và sửa đổi nề nếp sinh hoạt trong đời sống của mỗi người, mỗi nhà và
mỗi cộng đồng làng bản, đơn vị công tác. Đây là công việc mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chưa từng có trong các giai đoạn lịch sử trước đó nên được gọi
là xây dựng đời sống mới. Đoạn văn mở đầu bài viết xác định mục đích, nội
dung của đời sống mới gồm:
Một là, thái độ ứng xử với cái cũ, cái mới trong đời sống của nhân dân
một cách hợp tình, hợp lý: "Đời sống mới khơng phải cái gì cũ cũng bỏ hết.
Khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà
khơng xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ
mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì phải làm..."[4;tr112]
Hai là, gắn văn hóa với lao động sản xuất: “Làm thế nào cho đời sống
của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn”[4;tr.112]
Ba là, gắn văn hóa với xây dựng đời sống tinh thần, làm cho dân ta
“tinh thần được vui mạnh hơn”[4;tr.112]
Bốn là, xây dựng đạo đức mới: “Thực hành đạo đức cách mạng: Cần Kiệm - Liêm - Chính”[4;tr.112-113]
Năm là, xây dựng nếp sống mới: “Việc trước tiên là sửa đổi cách ăn,
cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”[4;tr.113]
21



×