Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức phật giáo đến phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở học viên khoa học quân sự hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.7 KB, 105 trang )

2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ

TƯỞNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐẾN PHÁT TRIỂN
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ
QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN
SỰ

1.1.

3

12

Thực chất ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến
phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan

1.2.

sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự
Đặc điểm ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo

12

đến phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo
sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự

33



Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY
ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG
TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
ĐẾN PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA
HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở
HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ HIỆN NAY

52
2.1.

Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến
phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan

2.2.

cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự hiện nay
Một số giải pháp cơ bản phát huy ảnh hưởng tích cực,

52

hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Phật
giáo đến phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào
tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự

72

hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

88
90
94


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Phật giáo truyền bá vào nước ta, đạo đức Phật giáo ln có vị trí
quan trọng trong đời sống văn hố, đạo đức, cũng như đời sống tâm linh mỗi
con người Việt Nam. Những giá trị đạo đức Phật giáo cùng với giá trị văn hố
truyền thống dân tộc đã góp phần to lớn vào sự phát triển xã hội Việt Nam
trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong đời sống tinh
thần mỗi con người Việt Nam, giá trị đạo đức phật giáo đã góp phần tạo lên cốt
cách, văn hoá truyền thống bao dung, vị tha, nhân ái. Vì lẽ đó, đạo đức Phật
giáo cũng như triết lý của nhà Phật, bên cạnh những yếu tố duy tâm, thần bí thì
sự cần thiết khẳng định cái giá trị bền vững nhân văn, nhân đạo của Phật giáo
chính là cái cần kế thừa, phát huy trong xây dựng con người mới hiện nay.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
với thành tựu của hơn hai mươi năm đổi mới cho thấy, một dân tộc muốn phát
triển bền vững phải trên cơ sở nền tảng bản sắc văn hoá, tinh thần dân tộc, trong
đó, có nền tảng là đạo đức. Ngược lại, những tiêu cực mới nảy sinh trong đời sống
xã hội, đặc biệt là sự sa sút về đạo đức, lối sống đã và đang trở thành lực lượng
cản trở việc xây dựng xã hội mới. Cái từ, bi, hỷ, xả, nhân văn, nhân đạo, thương
yêu con người, vì con người của Phật giáo cũng như truyền thống đạo pháp dân
tộc và chủ nghĩa xã hội của Phật giáo là đáng trân trọng phải được thấm vào mạch
nguồn mọi quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Hoạt động quân sự là hoạt động đặc biệt trong xã hội có giai cấp, hoạt

động chính trị xã hội được tiến hành theo phương cách qn sự, mọi hoạt động
qn sự, tồn bộ q trình xây dựng Quân đội ta tiến lên chính quy, tinh nhuệ
từng bước hiện đại luôn đặt trong quan hệ với phát triển kinh tế xã hội. Quá trình
xây dựng quân đội tiến lên chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại cũng là
quá trình đào tạo, bổ sung nguồn cán bộ phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiện hố,


4
hiện đại hoá đất nước. Phát triển đạo đức cách mạng, là mặt quan trọng trong
đào tạo nhân lực, phát triển nhân tài, chuẩn bị nhân tố con người cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và xây dựng quân đội nói riêng.
Học viện Khoa học quân sự là một trong những trung tâm đào tạo cán
bộ cho quân đội và đáp ứng nguồn nhân lực xây dựng ngành Tình báo quốc
phịng. Chất lượng, hiệu quả cơng tác đào tạo của Học viện có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị cơ sở trong
Tổng cục và trong toàn quân. Quá trình xây dựng và trưởng thành của Học
viện ln gắn liền với sự vận động, phát triển của Quân đội ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ cán bộ các
cấp trong Tổng cục và quân đội được đào tạo từ Học viện luôn trung thành
tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân trong mọi tình huống gay go
quyết liệt, luôn vượt qua mọi thử thách, cám giỗ về vật chất, tinh thần giữ
vững phẩm chất đạo đức cách mạng.
Những năm gần đây, do có biến động phức tạp của nhiều mặt đời sống xã
hội, nhất là từ khi đổi mới, mở cửa, hợp tác, do sự tác động của mặt trái nền kinh
tế thị trường, một số trong đội ngũ học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội có biểu
hiện non yếu về đạo đức lối sống. Một số ít trong họ bị chi phối, chịu ảnh hưởng
của những tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cùng với hạn chế của tư tưởng đạo
đức Phật giáo dẫn tới hoàn thành nhiệm vụ ở mức thấp. Do vậy, vấn đề nghiên
cứu ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát triển đạo đức cách mạng
của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự hiện

nay đang là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đời sống đạo
đức xã hội con người Việt Nam nói chung và đời sống đạo đức quân nhân nói


5
riêng đã có nhiều tác giả trong và ngồi qn đội nghiên cứu theo những
phương diện khác nhau.
Nghiên cứu về nguồn gốc, nội dung cơ bản và lịch sử tư tưởng triết học
Phật giáo Việt Nam đã có nhiều cơng trình với những cách thức tiếp cận, mục
tiêu, nhiệm vụ và kết quả nghiên cứu khác nhau.
Lê Văn Siêu “Việt Nam văn minh sử lược khảo”, trung tâm học liệu Sài
Gòn 1972. Tác giả đã luận chứng những đặc điểm của Phật giáo là có tính
tương đồng với tập qn, tín ngưỡng của người Việt Nam, nên Phật giáo xâm
nhập một cách dễ dàng vào Việt Nam.
Nguyễn Hùng Hậu, “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1” Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 2002, tác giả đã khái quát những nét cơ bản về quá trình
du nhập, cũng như ảnh hưởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam.
Phật giáo những vấn đề triết học của O.O.ROZENBERG do Nguyễn
Hùng Hậu và Ngô Văn Doanh dịch, Trung tâm tư liệu Phật học, Hà Nội, 1990.
Tác phẩm này đã khái quát những vấn đề thức luận và bản thể luận, đưa ra khái
niệm “Dharma” có ý nghĩa quan trọng đối với triết học Phật giáo. Tác giả nghiên
cứu Phật giáo từ góc độ Phật giáo Nhật Bản đã chỉ ra hệ thống thế giới quan Phật
giáo với các sơ đồ giáo lý. Tác phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với những người
nghiên cứu về Phật giáo nói chung, những vấn đề triết học Phật giáo nói riêng.
Nghiên cứu phật giáo và sự tác động của nó đến đời sống văn hố, tinh
thần xã hội Việt Nam đã có nhiều cơng trình khoa học, nhiều luận án tiến sĩ.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của tác giả Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện
triết học, Hà Nội, 1991. Trong tác phẩm này, các tác giả đã trình bày lịch sử hình

thành Phật giáo Việt Nam và chỉ rõ tư tưởng gắn đạo với đời, đặc biệt gắn với đời
sống văn hoá dân tộc. Nhiều người Việt Nam đã tự nguyện đến với đạo Phật, dùng
những giáo lý của nhà Phật như từ bi, hỉ xả, luân hồi nghiệp báo... làm nguyên tắc


6
sống cho mình. Tác phẩm này đã khẳng định vị trí, vai trị của Phật giáo đối với
đời sống của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là đời sống tinh thần.
Cuốn Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam (1945 - 1969) do Phùng
Hữu Phú (chủ biên) Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1997). Trong cuốn này
các tác giả đã nêu những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh trong
mối quan hệ với Phật giáo và dân tộc. Đặc biệt, các tác giả đã làm rõ những
nhân tố triết lý Phật giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện sự tiếp thu
những tinh tuý của văn hố nhân loại, trong đó có văn hố phương Đơng, tất
yếu có giá trị nhân bản của đạo Phật. Trên cơ sở tìm hiểu nghiêm túc các di
sản tư tưởng của Người, đối chiếu với giáo lý đạo Phật giáo. Các tác giả đã
làm rõ mối tương quan giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với triết lý Phật giáo, thể
hiện tính tương đồng và được Việt hố, trong nền văn hoá dân tộc.
“Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người
Việt Nam và sự biến đổi của nó trong q trình đổi mới hiện nay”. Luận văn thạc sĩ
của Mai Thị Dung, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ
những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò của nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng
triết học Phật giáo; quá trình du nhập và ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến
đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Đặc biệt là sự ảnh hưởng của nó đến đời
sống đạo đức, đến lối sống, đến văn hố…. Tác giả phân tích những nhân tố kinh tế,
sự giao lưu văn hoá với các nước trên thế giới, những hiện tượng lợi dụng tôn giáo để
chống phá đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, quan điểm đổi mới của
Đảng và Nhà nước về tơn giáo và chính sách đối với tơn giáo là những nhân tố tác
động đến tư tưởng Phật giáo và tác động đến đời sống văn hoá, tinh thần xã hội Việt
Nam.

Luận án tiến sĩ “Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh
thần quân nhân ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
của tác giả Lê Đại Nghĩa, Học viện Chính trị quân sự. Những vấn đề vị trí, vai


7
trị của tín ngưỡng tơn giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam
nói chung và đời sống tinh thần của qn nhân nói riêng; phân tích và làm rõ
q trình du nhập, ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh thần
quân nhân ở đơn vị cơ sở đã được tác giả đã luận chứng sâu sắc. Luận án đi sâu
phân tích những yếu tố tác động, ảnh hưởng của tín ngưỡng tơn giáo đến đời
sống tinh thần của quân nhân ở đơn vị cơ sở. Đồng thời, nêu lên một số định
hướng, nguyên tắc và những giải pháp cơ bản khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của
tín ngưỡng tơn giáo đến đời sống tinh thần quân nhân ở đơn vị cơ sở hiện nay.
Nghiên cứu về đạo đức Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống
đạo đức xã hội Việt Nam là một vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều tác giả.
Cuốn “Đạo đức Phật giáo”, do Hoà thượng Thích Minh Châu giới thiệu
và Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995. Cuốn sách đăng tải
những bài tham luận của nhiều tác giả, tập trung bàn về đạo đức Phật giáo.
Những phạm trù diễn tả về đạo đức: giới, hạnh, nguyện, thiện, ác… đã được
phân tích rõ nội dung. Cuốn “Khái niệm về bồ tát Quan Thế Âm” của Thích
Viên Trí, Nxb Tơn giáo, Hà Nội 2003. Đây là luận án tiến sĩ Phật học, được tác
giả in thành sách. Tác giả đã đưa ra nhiều cách giải thích mới về vị Bồ Tát từ bi,
cứu khổ cứu nạn của Phật giáo, đồng thời ứng dụng những giá trị đạo đức được
tượng trưng bằng vị Bồ Tát vào đời sống của con người trên thế giới hiện nay.
Luận án tiến sĩ của Tạ Chí Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh: “Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội
Việt Nam hiện nay”. Tác giả làm rõ vị trí, vai trị tư tưởng đạo đức Phật giáo,
những cơ sở triết lý trực tiếp của đạo đức Phật giáo: Phật giáo đặt trọng tâm

vào con người, đây là tiêu chí để phân biệt Phật giáo với khơng ít các hệ
thống tơn giáo khác, theo đó thì quan niệm con người của Phật giáo là con
người hiện thực chứ khơng phải là con người chung chung trìu tượng; Phật


8
giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng của thuyết nghiệp. Thuyết nghiệp là luật
nhân quả của đạo Phật được học thuyết này triển khai, áp dụng để nghiên cứu
sâu vào lĩnh vực của đời sống con người; Phật giáo xây dựng đạo đức trên
nền tảng của triết lý vô ngã, để lý giải cho câu hỏi vì sao con người hay chúng
sinh có thể giải thốt; Phật giáo cũng đề cao tinh thần của bi, trí, dũng. Trong
luận án tác giả cũng phân tích làm rõ q trình du nhập, ảnh hưởng của đạo
đức Phật giáo trong đời sống đạo đức Việt Nam cả truyền thống và hiện đại.
“Lý thuyết nhân tính qua kinh tạng Pàli” của Hồ Thượng Thích Chơn
Thiện, Việt dịch Tâm Ngộ, Nxb thành phố. Hồ Chí Minh 1999. Đây cũng là một
luận án tiến sĩ được phiên dịch ra tiếng Việt và biên soạn thành sách. Nội dung
cuốn sách, tác giả lấy thuyết Duyên sinh, Ngũ uẩn của Phật giáo làm cơ sở để lý
giải nhân tính. Từ nhân tính theo nhãn quan của Phật giáo, tác giả muốn góp
phần phát hiện và xây dựng lối sống, đạo đức cho con người hiện đại.
“Tâm của Phật giáo với đời sống tinh thần của con người Việt Nam
hiện nay”. Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Lan Anh, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh đã làm rõ quan niệm của Phật giáo về “Tâm” và ảnh hưởng
của nó đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Tác giả đề ra một
số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục hạn chế ảnh hưởng
“Tâm” với đời sống tinh thần của con người Việt Nam hiện nay.
Tạp chí Nghiên cứu Tơn giáo số 10 - 2007, “Bàn thêm về ảnh hưởng
của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay” của Lê Văn Đính đã
tập trung làm rõ sự ảnh hưởng, vai trò của Phật giáo trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc và những giá trị đạo đức của Phật giáo với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

Đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003 của Viện Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh: “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến


9
động” do Nguyễn Thế Kiệt làm chủ nhiệm đã tập trung bàn về vai trò của đạo
đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Đề tài đã tập trung làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đạo đức
người cán bộ lãnh đạo chính trị nước ta hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng
và những giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chính trị ở Việt Nam.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ quân sự - lý
luận vận dụng” Luận án phó tiến sĩ, của Hà Huy Thơng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã khai thác, hệ thống, phân loại tư tưởng Hồ
Chí Minh về lĩnh vực đạo đức quân sự. Luận án đã bước đầu phân tích, khái
quát, luận giải các quan điểm của Người về vai trò của đạo đức đối với người
cán bộ quân sự, về những chuẩn mực đạo đức cơ bản, những yêu cầu của đạo
đức trong các mối quan hệ đặc trưng và phương châm phương pháp rèn luyện
đạo đức của người cán bộ qn sự. Trên cơ sở đó tác giả phân tích tính tất yếu
khách quan phải tăng cường tu dưỡng, rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh đối
với người cán bộ quân sự hiện nay.
Luận văn thạc sĩ “Phát triển đạo đức cách mạng của học viên cử nhân Hậu
cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần hiện nay” của Ngơ Văn Luyện, Học viện
Chính trị qn sự. Tác giả làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển đạo đức cách
mạng của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần. Trên cơ sở
đó, làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đạo đức cách
mạng của học viên cử nhân hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã tập trung luận giải những vấn đề
lý luận, thực tiễn triết lý nhân sinh Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời

sống, quan hệ đạo đức xã hội, con người Việt Nam. Mỗi bài viết, mỗi luận
văn, luận án ở các mức độ, khía cạnh khác nhau đều trực tiếp hoặc gián tiếp
bàn về sự ảnh hưởng của triết học Phật giáo, đạo đức Phật giáo đến đời sống


10
văn hoá tinh thần; đời sống đạo đức con người Việt Nam và những vấn đề về
đạo đức cách mạng… Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học về sự ảnh hưởng tích cực,
tiêu cực và đặc điểm của sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến
phát triển đến đức cách mạng của đội ngũ học viên nói chung và học viên đào
tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự nói riêng.
Vì thế, tác giả lựa chọn vấn đề “Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức
Phật giáo đến phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội ở Học viên khoa học quân sự hiện nay ” làm đề tài nghiên
cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến
phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của Đạo đức Phật giáo đến phát triển đạo đức cách mạng của
học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất và đặc điểm ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo
đến phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Học viện Khoa học quân sự.
- Đánh giá thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát
triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện
Khoa học quân sự hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát triển đạo


11
đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa
học quân sự hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát triển đạo đức cách mạng
của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát
triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội (chuyên
ngành ngoại ngữ quân sự và trinh sát kỹ thuật) ở Học viện Khoa học quân
sự từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo; các Văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam; các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung
ương về công tác tôn giáo.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn xây dựng, phát triển đạo đức
cách mạng cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân
sự hiện nay và thực tiễn một số đơn vị trong ngành Tình báo quốc phịng có học
viên ngoại ngữ qn sự và trinh sát kỹ thuật đã tốt nghiệp đang công tác.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các
phương pháp khác như phương pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp điều
tra xã hội học, phân tích và tổng hợp, lơ gíc và lịch sử, khái quát hoá, trừu
tượng hoá và phương pháp chuyên gia.

6. Những đóng góp mới của luận văn


12
- Chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát triển đạo
đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học
quân sự hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát
triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện
Khoa học quân sự hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương (4 tiết).


13
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
PHẬT GIÁO ĐẾN PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ

1.1. Thực chất ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến phát
triển đạo đức cách mạng của học viên đạo tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học
viện Khoa học Quân sự
1.1.1. Tư tưởng của đạo đức Phật giáo và sự dung hợp, ảnh hưởng của
nó đến đời sống đạo đức xã hội Việt Nam
Khái lược về tư tưởng đạo đức Phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Thái tử Cồ Đàm - Tất Đạt
Đa sinh năm 563 trước công nguyên, con vua Tịnh Phạn thuộc bộ tộc Thích Ca (Sa

Kya), trị vì một vương quốc nhỏ là Ca-tỳ-la-vệ ở trung lưu sơng hằng, bao gồm một
phần phía Nam Nê-pan và một phần các bang Ut-ta-rơ, Pra-đe-zơ, Bi he của Ấn Độ
ngày nay. Từ nhỏ, thái tử luôn là người thơng minh và tính đức độ. Mặc dù, vua cha
hết lòng hướng thái tử theo con đường triều chính, song với lịng thương người vơ
hạn, khơng thể ngồi yên nhìn thấy sự khổ đau của chúng sinh, thái tử đã luôn nghĩ
đến con đường cứu khổ cho dân chúng. Hai mươi chín tuổi Tất Đạt Đa xuất gia.
Sau nhiều năm tu hành khổ hạnh không thành, Tất Đạt Đa xuất gia lần 2, đã tới
ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề (Tất-bát-đa) và 49 ngày sau Tất Đạt Đa đạt chính quả
thành Phật, hiệu là Phật Thích Ca Mầu Ni (Cakya Muni).
Sau khi đắc đạo, suốt 49 năm (có sách ghi 45 năm) Đức Phật chu du
khắp các lưu vực sơng Hằng, đem đạo vơ thường của mình giáo hố chúng
sinh, khơng phân biệt già trẻ, giàu nghèo, nam nữ, màu da... Nhờ lòng từ bi,
đức hy sinh rộng lớn, những bài giảng của Đức Phật đã hoá độ vơ số quần
sinh, thốt vịng mê mờ, khổ não.


14
Sau khi Đức Phật Niết bàn, Ngài MaHaCaDiếp (Mahakasypa) thay mặt tăng
chúng, triệu tập hội nghị Phật giáo với khoảng 500 đệ tử của Phật, để tụng đọc
những giáo lý của Đức Phật. Hội nghị này được mệnh danh là “kỳ tập kết thứ nhất”.
“Kỳ tập kết thứ hai” đã chia làm hai phái rõ rệt, một phái họp ở Vaijji và một
phái họp ở Vaixaly.
“Kỳ tập kết thứ ba” và “Kỳ tập kết thứ tư” đã họp bàn và kết tập các tác
phẩm kinh điển của Phật giáo và đề ra các giáo luật của Phật giáo. Kinh điển của
Phật giáo được viết bằng hai thứ văn bản, Phạn và Pali. Những vùng nào có kinh
điển Pali thì gọi là Nam Phương Phật giáo. Còn những vùng nào theo kinh điển chữ
Phạn được gọi là Bắc Phương Phật giáo. Nam Phương Phật giáo và Bắc Phương
Phật giáo đều thờ chung đấng giáo chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo phản kháng xã hội Ấn Độ phân
chia đẳng cấp ngặt nghèo. Đó là: Balamôn gồm những tăng lữ, những người

giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Sát-đế-ly là hàng
vua chúa võ sĩ nắm quyền hành thống trị xã hội. Vệ-xá là những hàng thương
gia, chủ điền đảm đương về kinh tế trong nông nghiệp, dân tự do. Thủ-Đà-La
là hạng hạ tiện, nô lệ chịu cảnh khổ sai suốt đời cho những giai cấp trên.
Ngoài bốn đẳng cấp trên, xã hội Ấn Độ cịn có một hạng người thuộc đẳng
cấp thấp nhất bị các giai cấp trên đối xử như những công cụ lao động.
Kinh điển của Phật giáo gồm: Kinh Tạng, Luật Tạng, Luận Tạng. Kinh
Tạng, bao gồm những bài thuyết giảng mà đức Phật dùng để răn dạy trong
nhiều hoàn cảnh khác nhau, dành cho cả hai giới xuất gia và cư sĩ. Luật
Tạng, nói về giới luật và nghi lễ trong đời sống xuất gia của các Tỳ khưu
(nam) và các Tỳ khưu ni (nữ), Luật Tạng mô tả các nghi lễ sám hối dành cho
các tăng sĩ và nêu ra lý do mà đức Phật đặt ra các giới luật. Luận Tạng là luận
bàn, chú giải của các học giả, cao tăng sau này bàn về kinh, luật của Phật.
Các giáo lý của Đức Phật được thâu tóm trong học thuyết “Tứ diệu
Đế”. “Tứ diệu Đế” là bốn sự thật chắc chắn, quý báu, hồn tồn nhất, khơng


15
có giáo lý ngoại đạo nào sánh kịp. Bốn sự thật mà Phật nêu ra (Khổ Đế, Tập
Đế, Diệt Đế, Đạo Đế) giúp người tu hành đi từ tăm tối đến vùng sáng, giác
ngộ thành chính quả. Vì “Tứ diệu Đế” là một trong những giáo lý quan trọng
của Phật giáo, cho nên các Phật tử muốn thành chính quả phải học và thực
hành pháp “Tứ diệu Đế”. “Tứ diệu Đế” là bốn chân lý có giá trị bất biến, có
thể áp dụng cho mọi người và mọi thời. Trong đó, Khổ Đế và Tập Đế thuộc
về thế gian, Diệt Đế, Đạo Đế có khả năng đưa con người ra khỏi thế gian đau
khổ.
Toàn bộ giáo lý của Phật giáo chủ yếu nhằm mục đích vào con người,
giải thốt con người, chứ khơng phải giải thốt cho linh hồn như một số tôn
giáo khác. Quan điểm này được Phật tuyên bố với A-tu-lu (Asùrà) Pahàràda,
được coi như là lời tuyên bố chung, đồng thời như là một tơng chỉ: “Ví như

này, Pahàràda, nước biển chỉ chỉ có một vị mặn. Cũng vậy, này Pahàràda, Pháp
và Luật này cũng chỉ có một vị là vị giải thoát” [10, tr. 563].
Trong giáo lý Phật giáo, vị trí của đạo đức là quan trọng nhất, bởi vì nó
là phẩm phương tiện cụ thể để hành giả thực sự thoát khỏi tất cả mọi thứ ràng
buộc, nói chung là thốt khỏi cái khổ. Do vậy, dù có một hệ thống giáo lý đồ
sộ, cao siêu, phong phú, nhưng Phật giáo lại không ưa hý luận, không dừng lại
ở lý thuyết, mà sự mong mỏi, thôi thúc lớn nhất là hành giả cần thực hành nó
để tự giải thốt. Từ đặc tính của luật vơ thường như vậy, nên trong phẩm “Song
yếu”, Phật đã chỉ rõ: “Người kia không hiểu rằng: “Chúng ta sắp bị huỷ diệt
(nên mới phí sức tranh luận hơn thua). Nếu họ hiểu rõ điều đó, thì chẳng cịn
tranh luận nữa” [18, tr. 15]. Cũng từ lý do đó, trong phẩm “Cấu uế”, Phật đã
dùng nó để quở trách những người sống bng lung, thiếu tư cách đạo đức.
Phật nói: “Đời ngươi nay sắp lụi tàn, ngươi đang dịch bước đến gần Diêmvương, giữa đường không nơi ngơi nghỉ, lữ hồ ngươi thiếu hẳn tư lương” [18,
tr. 55].


16
Từ tinh thần trên, trong kinh “Aggivacchotta”, Phật cũng không bàn dài
dòng về 10 câu hỏi thuộc những vấn đề siêu hình, hý luận, như sinh mạng hai
hay một, thế giới vơ thường, vơ biên hay hữu thường có hạn... của du sĩ
Vacchagotta. Theo Phật, cái đó mỗi người phải tu tập, thực nghiệm để đạt đến
thực tại vô ngã mà tự chứng ngộ lấy. Mặt khác, ngay quan niệm của triết thuyết
và tôn giáo ấn Độ đều coi giáo lý là một đạo sống, là một con đường, mà khách
lữ hành là con người cụ thể tha thiết sống chết với lý tưởng ấy, lấy bản thân mình
làm vật thí nghiệm để thực hiện nó trong cuộc đời.
Phật giáo cho rằng, sở dĩ có luân hồi là do dục vọng (tham, sân, si); có dục
vọng là do lầm lạc, vô minh mà tạo nghiệp chướng cho các chúng sinh mà có. Bởi
đạo đức, lối sống xuất phát từ nghiệp mà ra. Nếu chúng ta tạo nghiệp tốt, tức là
chúng ta sống thiện, mọi cử chỉ, hành vi, suy nghĩ đều thiện, thì kết quả chúng ta
nhận được sẽ là một cuộc sống tốt đẹp, bình yên, an vui. Ngược lại, nếu ta tạo

nghiệp ác, ắt sẽ lãnh quả báo. Cho nên, đạo đức Phật giáo chủ trương tiết dục
(cấm dục). Bởi vì, nếu vén được cái màn sương dục vọng ấy thì tâm Phật trong
mỗi con người sẽ được khai mở, toả sáng và con người sẽ sống tốt đẹp hơn, cho
nên muốn giải thoát tất phải diệt nghiệp bằng sự sáng suốt, phá lầm lạc bằng cấm
dục.
Những tư tưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo thể hiện trong Tứ vô
lượng tâm bao gồm bốn tâm vô lượng từ, bi, hỉ, xả; trong thuyết Nghiệp, mục
đích thiết thực và trước mắt của thuyết Nghiệp là Phật giáo mong muốn ai
cũng phải làm điều thiện, tránh điều ác và thuyết Nghiệp đánh giá đạo đức
của hành động, đồng thời cũng cho thấy sự nghiêm khắc của luật nhân quả.
Do vậy, thuyết Nghiệp của Phật giáo liên quan trực tiếp đến hệ thống đạo đức
cũng như các chuẩn mực, hành vi của đạo đức Phật giáo. Tư tưởng đạo đức
Phật giáo cịn thể hiện trong tư tưởng “Vơ ngã vị tha”; tính thiện, tinh thần bi,


17
trí, dũng, cơng bằng, bình đẳng và lịng khoan dung, độ lượng; ở Ngũ giới,
Thập thiện, Lục hoà...
Như vậy, Phật giáo đã xây dựng một hệ thống đạo đức hoàn chỉnh từ
nhận thức, lý luận đến thực hành, áp dụng nó để con người xây dựng cho mình
một nếp sống. Phật giáo đã xây dựng mẫu người đạo đức, đó là con người từ,
bi, xả, vô ngã, vị tha mà thâu tóm là đứng vững trên hai chân: từ bi và trí tuệ cả trái tim và khối óc. Từ đó, lý tưởng Bồ Tát đạo đã vượt khỏi phạm vi giải
thoát của cá nhân để trở thành giải thoát chung, cứu độ chúng sinh cùng giải
thoát.
Sự dung hợp, ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo với đời sống đạo
đức xã hội và con người Việt Nam
Khoảng mấy nghìn năm về trước, người Việt Nam với tính chất là cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước, nên đã sớm định canh định cư, đồng thời
ngay từ đầu đã hình thành tư tưởng thích tự do và độc lập. Từ thực tiễn của
lịch sử, người Việt Nam sớm có tinh thần u hồ bình, u nước, tự do,

bình đẳng và giầu lịng nhân nghĩa. Phật giáo với tính thiện, bình đẳng, bác
ái bao la, nêu cao ngọn cờ hồ bình với tinh thần cứu khổ, cứu nạn, nên đã
sớm thấm sâu vào lòng đại chúng Việt Nam. Phật giáo đã sống thuỷ chung
với dân tộc Việt Nam qua những bước thăng trầm của lịch sử, dung hợp với
tín ngưỡng, phong tục tập quán bản địa để trở thành Phật giáo Việt Nam và
tồn tại cho đến ngày nay. Trước và trong khi Phật giáo du nhập, ở Việt Nam
đã có nhiều tín ngưỡng, đồng thời đã có những tư tưởng triết học. Những tín
ngưỡng liên quan nhiều đến Phật giáo như tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng
thờ thần tiên, tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu. Những tư tưởng
triết học như qua niệm về Thái Hoà và Nhất phân lưỡng hợp hay Nhất
nguyên lưỡng cực, tư tưởng về phúc đức.


18
Theo ý kiến của đa số các nhà Phật học thì Phật giáo Ấn Độ trực tiếp
truyền vào Việt Nam bằng đường biển, trước khi có Phật giáo từ Trung Hoa
sang. Gần như đầu thế kỷ I và thế kỷ II, cả ba đạo: Phật, Nho, Lão đã chính thức
được truyền bá vào Việt Nam, đạo Phật vào trước. Với Việt Nam ngày đó, trong
hồn cảnh nước mất nhà tan và khác với các đạo của kẻ xâm lược, dân chúng
Giao Châu nhìn thấy đạo Phật là một đạo hồ bình, thực tâm, cứu khổ, cứu nạn,
nên đón nhận một cách dễ dàng. Từ những lý do trên, nên: “Người Giao Châu đã
đến với Phật giáo không phải bằng tuệ giác mà bằng tình cảm. Hay nói ngược
lại, đạo Phật bắt rễ vào trong lòng người Giao Châu hơn là vào trong óc” [36, tr.
315].
Tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên“ của Việt Nam không chỉ đồng
nguyên trong Tam giáo, mà cịn đồng ngun với tín ngưỡng bản địa. Đó là sự
nhào lộn và hội nhập. Trong chùa, trong điện thờ Mẫu cùng các chuyện dân
gian, hoặc văn thơ bác học đã thể hiện vấn đề này. Mặt khác, ngay trong Phật
giáo tuy có nhiều tơng phái, nhưng cũng khơng vì thế mà gây chia rẽ, mất
đoàn kết đến nỗi phải ly khai, trở thành kẻ thù của nhau…Điều đó cũng chứng

minh cho một đặc điểm của tôn giáo Việt Nam là tơn giáo mang tính cởi mở. Từ
những đặc điểm trên, tư tưởng đồng nguyên cũng chứng tỏ rằng, không có một
hệ tư tưởng nào thoả mãn đầy đủ nhu cầu của mọi người, đồng thời trong truyền
thống Việt Nam cũng chưa có tổ chức nào đứng ra “bầu cử” cho một hệ tư
tưởng nào đó giữ địa vị độc tơn. Cho nên, trong lịng con người Việt Nam có cả
Phật, Nho, Lão, bản địa và tuỳ từng trường hợp cụ thể, mà chúng lộ ra, lúc này
thì Phật, lúc khác thì Nho, Lão, bản địa. Chỉ cần dẫn chứng ngay trong tư tưởng
bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, hoặc “Cáo bình ngơ” của Nguyễn Trãi
cũng đủ thấy con người Việt Nam là như vậy. Khi phải “Sát thát” và “Đánh một
trận sạch khơng kình ngạc; Đánh hai trận tan tác chim muông” là tư tưởng Nho
lai Phật. Ngay trong hàng ngàn sĩ phu Việt Nam khi “phải có danh gì với núi


19
sông” là con người của Nho giáo; khi thế sự khơng cho phép thì “một mai, một
cuốc, một cần câu…” là con người của Lão pha Phật; khi quan hệ với xóm làng,
thực hiện những việc thuộc phong tục tập quán… lại là con người của bản địa,
của Mẫu. Như vậy, con người Việt Nam đã nhìn thấy ở những học thuyết ấy đều
có cái “tâm” - đó là cái đạo đức, cái lòng người.
Do những đặc điểm như trên đã đề cập, nên khi Phật giáo vào Việt Nam,
cả giáo lý nói chung và quan niệm đạo đức nói riêng của tơn giáo này có sự
dung hợp với đời sống văn hố, chính trị, tín ngưỡng… và đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam. Nguyên nhân cho hiện tượng trên, trước tiên có thể
được giải thích là từ bản thân của Phật giáo. Đó là một đạo trí và thiện, tính
nhân bản cao cả đi vào lịng người, phù hợp với phong tục tập quán bản địa,
mềm dẻo, khế cơ, khế thời trong cách truyền giáo, tôn trong phong tục tập
qn cùng chính quyền sở tại. Bên cạch đó,Phật giáo cịn là sản phẩm của nền
văn minh nơng nghiệp cùng với đặc điểm vốn có của nó. Điều này, Hồ
thượng Thích Đức Nhuận đã viết: “Dân tộc Việt Nam, về nhân chủng, có
nguồn gốc Mélanesien, Indonesien cùng các nước Đông Nam á láng giềng và

trực tiếp thụ nhân tinh hoa Đạo Phật vốn có chung một truyền thống sinh hoạt
văn hố “nơng nghiệp thảo mộc” - một nền văn hố nhân bản bao dung, trí tuệ
và khai phóng, đượm sắc thái hiếu sinh, hiếu hồ và giải thốt” [33, tr. 91].
Với tinh thần đó, sự dung hợp của tư tưởng đạo đức Phật giáo với
truyền thống văn hoá - đạo đức dân tộc được thể hiện ở mấy điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tính nhân bản trong đạo đức Phật giáo. Tính nhân bản là giá
trị có tính phổ qt khơng những của đạo đức Phật giáo, mà cịn cho bất kể một
hệ thống đạo đức nào có khát vọng đưa con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ.
Trải qua quá trình thực tiễn của lịch sử, dân tộc Việt Nam đã xây dựng cho nền
đạo đức của mình mang tính nhân bản lớn. Đó là vì hạnh phúc, tự do của con
người nói chung, trước tiên là vì con người, giải phóng cho con người.


20
Ý tưởng thực sự của hệ thống giáo lý cũng như tư tưởng đạo đức Phật
giáo là hướng tới siêu giải thốt cho con người và chúng sinh nói chung, nó
mang tính siêu trần thế. Từ sự dung hợp ấy, tư tưởng đạo đức Phật giáo đã
góp một phần hun đúc thành những giá trị, mang tính truyền thống trong suốt
chiều dài của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là: “Yêu nước, cần cù, anh hùng,
sáng tạo, thương người, vì nghĩa” [9, tr. 50].
Thứ hai, sự hồ hợp rộng rãi của tư tưởng đạo đức Phật giáo và tính
cộng đồng người Việt. Đây là một đức tính quý báu của con người Việt Nam
được kết tinh từ tư tưởng triết học, từ những bài học về lẽ sống, từ những bí
quyết cho sự trường tồn của dân tộc trong mấy nghìn năm lịch sử. Từ đó, Hồ
Chí Minh đã tổng kết nó thành như cơng thức: “vừa là, vừa là” và điều này
được thể hiện trong nhiều bài viết của Người… Do vậy, ít ra về cách nhìn
nhận, đánh giá sự ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo trong con người
Việt Nam, chúng ta cũng nên theo tinh thần đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên tinh thần ấy, một số tài liệu nghiên cứu có dẫn lời của Hồ Chí Minh theo
“Hồ Chí Minh truyện”, bản tiếng Hoa của Nhà xuất bản Tam Liên, Thượng

Hải năm 1949 là: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. tơn giáo Jêsu có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng… Khổng
Tử, Jêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ muốn mưu
cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu họ còn
sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ sống
chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm
học trị nhỏ của các vị ấy” [16, tr. 84-85].
Với Phật giáo Việt Nam, sự hoà hợp rộng lớn cũng mang sắc thái riêng.
Khác với sự hoà hợp của Phật giáo Ấn Độ là sự hồ hợp mang tính ngoại
giao, chung sống hồ bình thì sự hồ hợp của Phật giáo Việt Nam là một sự
dung hợp, nhào trộn rộng lớn để trở thành một thứ tôn giáo bản địa. Điều này


21
q rõ, bởi vì sự hồ hợp ấy xuất phát từ nền văn hố truyền thống Lạc Việt.
Ngồi ra sự hồ hợp rộng lớn ấy cịn xuất phát từ lịng nhân nghĩa cao cả cùng
với tầm lòng bao dung rộng lớn của con người Việt Nam. Với Phật giáo, ngay
tấm lịng đó cũng được thể hiện trong các chùa Việt Nam. Với Phật giáo, ngay
tấm lịng đó cũng được thể hiện trong các chùa Việt Nam. Trên nét đại thể,
Phật giáo truyền vào Việt Nam có Tiểu thừa và Đại thừa (hiện nay còn gọi là
Phật giáo nguyên thuỷ và Phật giáo phát triển), người Việt Nam đều chấp
nhận cả, nhưng có phần nghiêng hơn về Đại thừa. Đối với Tiểu thừa, Thiền
tơng, chủ yếu chỉ thờ Phật Thích Ca, nên tượng trong chùa đơn giản. Đại
thừa, ngồi Phật Thích Ca còn thờ nhiều vị Phật và Bồ Tát khác, do đó tượng
trong chùa phức tạp hơn, nhưng trên nét đại thể vẫn là Phật giáo chính hiệu.
Từ lẽ hồ hợp rộng lớn và ảnh hưởng lẫn nhau như thế, nên Phật giáo
Việt Nam còn mang màu sắc của Phật Nho, Phật Lão, Phật Mẫu, mà gần nhất
trong kinh “Chơn Lý” của Khất sĩ đã đề cập hiện tượng này. Ngồi ra, hiện
tượng này cịn được thể hiện ử kiến trúc chùa tháp, tâm lý, tình cảm, quan

điểm của con người Việt Nam, đồng thời lồng vào nhau như cầu Phật đan xen
với tử vi, bói tốn, phong thuỷ, lên đồng…
Như vậy, Phật giáo Việt Nam là sự dung hợp cái “hữu ngã” của Khổng,
cái “vô ngã” của Phật, cái “vơ vi” của Lão, cái “phồn thực” và lịng trắc ẩn
của Mẫu để trở thành cái mà chúng ta thấy như ngày nay.
Thứ ba, cái thiện của tư tưởng đạo đức Phật giáo Việt nam còn là tinh
thần yêu nước. Như đã đề cập, trong kinh nhà Phật có bàn đến việc quốc gia,
kinh tế, chúng nằm trong các bài giảng của đức Phật. Đương thời, chính bản
thân đức Phật cũng phải đóng vai trị là người hồ giải và đã hồ giải thành
cơng việc ngăn chặn các cuộc chiến tranh giữa các nước với nhau, cũng như
cuộc xâm lăng của ngoại bang đối với chính vương quốc của Phật… Tuy
nhiên, mục đích giải thốt đích thực của Phật giáo lại không phải là những


22
vấn đề quốc gia, chính trị, mà là chuyển tất cả các nghiệp đó. Do vậy, tinh
thần này có lẽ Việt Nam hoá Phật giáo nhiều hơn là Phật giáo hố Việt Nam.
Ngun nhân của vấn đề này có thể được giải thích là trước hết, khác với
người hán coi thiên hạ quan trọng nhất, người Việt từ truyền thống “phúc
ấn”, “Tổ ấm”, “Đại tổ ấm” đã đi vào máu thịt của mình. Bên cạnh đó, tuyệt
đại đa số Phật tử lại là người Việt, vì thế việc đề cao “Đại tổ ấm” là lẽ
đương nhiên. Hơn nữa, người Việt cả ngàn năm làm nô lệ và chống ngoại
xâm, nên người Việt Nam đã thức tỉnh ý thức bảo tồn dân tộc, ôm chặt
những truyền thống của tổ tiên. Do vậy, từ một đạo giải thoát tất cả các
nghiệp của nhân thế, nhưng Phật giáo Việt Nam lại cần bảo trì nó, nhất là
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời kết hợp việc giải quyết vấn đề nhân thế và giải
thoát. Đó là lý do vì sao ngồi việc tu hành, các Thiền sư Việt Nam cịn tham
gia với chính quyền trong việc “quốc thái an dân” và đây cũng chính là tinh
thần Bồ Tát đạo. Khi du nhập, Phật giáo đã có cơng lớn trong việc giữ gìn và
xây dựng đất nước, sống thuỷ chung với dân tộc Việt Nam qua những bước

thăng trầm của lịch sử. Chính từ tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc
Việt Nam, Phật giáo đã hồ nhập, tích cực tham gia để bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc. Sự đóng góp của Phật giáo cho vấn đề trị nước an dân được thể hiện
qua các Thiền sư của triều đại Đinh, Lê, Lý - Trần.
Về đạo đức Phật giáo Việt Nam, ngoài tiêu chuẩn cơ bản của tư tưởng
đạo đức Phật giáo, còn là tình yêu Tổ quốc và tuỳ cơ để đáp ứng với hoàn
cảnh bên ngoài, hoàn cảnh xã hội. Tư tưởng “tuỳ cơ” của Phật giáo Việt Nam,
cũng là sự bao dung những điểm đặc sắc của tư tưởng đạo đức Phật giáo Ấn
Độ và đạo đức Phật giáo Trung Hoa. Đó là sắc thái đặc thù của đạo đức Phật
giáo Việt Nam, đồng thời cũng là sự tiếp biến của đạo đức Phật giáo để góp
phần mang bản sắc đạo Phật Việt Nam. Chính nó đã hồ đồng với sinh khí
của dân tộc qua những chặng đường lịch sử, đồng thời được dàn trải trong các


23
mặt của đời sống đạo đức Việt Nam truyền thống. Như vậy, thang bậc giá trị
về cái thiện của tư tưởng đạo đức Phật giáo Việt nam còn là tinh thần yêu
nước.
Thứ tư, tâm lý phật tử người Việt Nam thực sự coi trọng giá trị thực
hành. Tất cả những kinh nghiệm trong sản xuất, các cơng trình văn hố, khoa
học, nghệ thuật… đều có sự đóng góp kết quả của việc thực hành. Từ giá trị
về hành trì, Phật giáo đã gặp tư tưởng này của Việt Nam và tạo cho con người
Việt Nam ln có cái nhìn thực tế, khơng ưu hý thuyết dài dịng, nhất là
những lý thuyết giáo điều khi nó khơng mang lại kết quả thiết thực. Mở rộng
ra thì tư tưởng coi trọng giá trị thực hành cịn là đặc tính rõ nét của con người
phương Đơng. Trong thư gửi đồng chí Pêtơrốp, Tổng thư ký phương Đông
Quốc tế Cộng sản vào năm 1926, Hồ Chí Minh viết: “Nói chung thì các dân
tộc phương Đơng đều giàu tình cảm và đối với họ, một tấm gương sống còn
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [23, tr. 263].
Từ sự hội nhập đã mang đặc điểm như trên, nên sự ảnh hưởng của tư

tưởng đạo đức Phật giáo đến đời sống tinh thần nói chung và đạo đức nói
riêng của dân tộc Việt Nam cũng mang tính biện chứng của nó. Trong sự hội
nhập, thực sự đã hàm chứa sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau, cho nên rất
khó tách bạch cái này thì hội nhập, cịn cái kia thì ảnh hưởng. Nói chung, sự ảnh
hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của dân tộc Việt
Nam là từ nhận thức, quan hệ, nghĩa vụ, phẩm chất, lý tưởng… đến hành vi đạo
đức, đồng thời có những mặt đậm nét, có những mặt chỉ bàng bạc mà thơi. Từ
tinh thần ấy, có thể khái quát một số mặt của tư tưởng đạo đức Phật giáo ảnh
hưởng đến đời sống đạo đức của con người Việt Nam như: ảnh hưởng của tư
tưởng đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử và giao tiếp; về tính trung thực,
sự bình đẳng và lẽ cơng bằng; về tinh thần đồn kết, độc lập, tự lực và tự chủ;
thể hiện trong tính thiện, tình nghĩa, tình thương và tấm long bao dung rộng
lớn… của tư tưởng đạo đức Phật giáo đến đời sống đạo đức dân tộc Việt Nam.


24
Tất cả sự dung hợp, ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo cũng như tư tưởng
đạo đức của nó với đạo đức, tư tưởng truyền thống Việt Nam đã tạo cho Phật
giáo Việt Nam có đặc điểm là: vừa ơn hoà, vừa hành động; vừa hướng nội vừa
hướng ngoại với tinh thần đại bi, đại trí, đại hùng, đại lực của lý tưởng bồ tát.
Hiện nay, những tư tưởng đó vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh
thần nói chung, đạo đức nói riêng của nhân dân và cán bộ ta, trong đó đội ngũ
học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học qn sự khơng
nằm ngồi sự ảnh hưởng đó. Do vậy, quá trình phát triển đạo đức cách mạng
cho đội ngũ học viên này ln chịu sự tác động vừa tích cực, vừa tiêu cực bởi
ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Phật giáo.
1.1.2. Nội dung ảnh hưởng cơ bản của tư tưởng đạo đức Phật giáo
đến phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân
đội ở Học viện Khoa học quân sự
Phát triển đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân

đội ở Học viện Khoa học quân sự
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự là
những học sinh, quân nhân đã trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh quân sự, đã tốt nghiệp
tiểu đội trưởng và tương đương, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành sĩ quan
chuyên môn, chỉ huy trinh sát kỹ thuật cấp phân đội. Sau khi tốt nghiệp ra trường
họ thường giữ chức vụ ban đầu là trợ lý chuyên môn ở các cơ quan, hay trên
cương vị là trung đội trưởng ở đơn vị hoặc có thể làm giảng viên ở các học viện,
nhà trường trong quân đội (đối với học viên đào tạo sĩ quan Ngoại ngữ quân sự).
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự sinh
ra và lớn lên trong chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, được sự quan
tâm, chăm lo giáo dục của nhà trường phổ thơng, gia đình và xã hội. Họ là
những người có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong quân đội, là lớp người trẻ,
nên có trí thơng minh, nhanh nhạy, thích ứng được với điều kiện, môi trường xã
hội mới hiện nay. Phần lớn học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội là con em công


25
nhân, công viên chức Nhà nước và con em cán bộ trong ngành. Cho nên, họ có
điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển những phẩm chất đạo đức của
người quân nhân cách mạng, nhất là phẩm chất đạo đức của “Bộ đội Cụ Hồ”.
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự
đóng quân trên địa bàn thành phố Hà Nội, nên chịu ảnh hưởng rất lớn của điều
kiện kinh tế - chính trị xã hội, cả về mặt tích cực, tiêu cực của đời sống xã hội,
nhất là tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường đến đời sống đạo đức, lối
sống. Đặc biệt, trong suy nghĩ và hành động của họ còn mang những dấu ấn,
tàn dư, những tư tưởng, tập quán, thói quen lạc hậu của nền sản xuất nhỏ không
phù hợp với hoạt động quân sự. Do đó, trong q trình học tập, rèn luyện phải
từng bước gạt bỏ nó, nếu khơng sẽ ảnh hưởng tới quá trình phát triển đạo đức
cách mạng của họ. Mặt khác, trong quá trình học tập rèn luyện tại Học viện
Khoa học quân sự, học viên cần phải tham gia vào nhiều hoạt động, rèn luyện

phát triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách của người quân nhân cách mạng,
nhân cách của người sĩ quan tương lai; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo
đức trong sáng, lối sống lành mạnh và có trình độ học vấn cao đáp ứng được
mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển quân đội theo hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Hoạt động rèn luyện của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học
viện Khoa học quân sự được diễn ra trong môi trường hoạt động qn sự, có
tính tổ chức kỷ luật cao. Kỷ luật là một thuộc tính, là yêu cầu khách quan tạo
nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Do đó, địi hỏi mọi qn nhân trong
qn đội phải chấp hành vô điều kiện về điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định
và thực hiện nhanh chóng, chính xác, thì mới tạo nên sức mạnh tổng hợp sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Mặt khác, Học
viện Khoa học quân sự là nơi giáo dục - đào tạo ra những người sĩ quan
chuyên môn, chỉ huy kỹ thuật cấp phân đội cho ngành và cho tồn qn, thì
vấn đề trên càng địi hỏi u cầu cao về phẩm chất đạo đức, năng lực công tác


26
cũng như ý thức tổ chức kỷ luật của đội ngũ sĩ quan này. Do vậy, quá trình
học tập, rèn luyện tại Học viện Khoa học quân sự chính là quá trình xây dựng,
hình thành những phẩm chất đạo đức cách mạng của người sĩ quan chuyên
môn, chỉ huy kỹ thuật có định hướng rõ ràng, điều đó được thể hiện ngay
trong khâu tuyển đầu vào, cùng với môi trường đào tạo, nội dung đào tạo
xuyên suốt trong quá trình học tập, rèn luyện của học viên. Đặc biệt đi sâu
vào nội dung chuyên ngành như Ngoại ngữ quân sự; Trinh sát kỹ thuật và rèn
luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Từ những đặc điểm hoạt động giáo
dục đào tạo và hoạt động của học viên chi phối việc hình thành, phát triển và
biểu hiện đạo đức cách mạng ở họ. Vì vậy, đạo đức cách mạng của học viên
đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viện Khoa học quân sự là sự biểu hiện và
cụ thể hoá đạo đức cách mạng trong lĩnh vực quân sự, mang bản chất đạo đức

của giai cấp công nhân, được hình thành và phát triển trong quá trình giáo
dục, học tập tại Học viện.
Đạo đức cách mạng của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học
viện Khoa học quân sự, là những chuẩn mực đạo đức của người quân nhân
cách mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đang học tập, rèn luyện tại Học
viện. Bao gồm một hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tiên tiến,
cách mạng nhất gắn với yêu cầu hoạt động đặc thù. Do đó, đạo đức cách mạng của
học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Học viên Khoa học quân sự không “nhất
thành bất biến” mà là hệ thống “mở”, ln có sự kế thừa và phát triển những giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc trong đó có các giá trị tiến bộ của tư tưởng đạo đức
Phật giáo. Vì thế, phát triển đạo đức cách mạng của học viên là một dạng vận động
đặc biệt, theo xu hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hồn
thiện đến hồn thiện, đó là một quá trình khách quan, là sự “tự thân vận động” với
nguồn gốc, động lực là tiến lên thông qua các bước “nhảy” để chuyển hoá từ
“lượng” sang “chất” và ngược lại, q trình đó là q trình quanh co phức tạp


×