Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt động quản lý kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.86 KB, 19 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI TƯƠNG ĐỐI VÀ CÁI TUYỆT
ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ KINH TẾ

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CÁI TƯƠNG
I.

ĐỐI VÀ CÁI TUYỆT ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG

1
2
2

QUẢN LÝ KINH TẾ
1.1.
1.2.


Cái tương đối và cái tuyệt đối
Hoạt động quản lý kinh tế
BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI TƯƠNG ĐỐI VÀ CÁI

2
3

II.

TUYỆT ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ

6

2.1.
2.2.

KINH TẾ
Biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt
động quản lý kinh tế
Một số giải pháp vận dụng biện chứng giữa cái tương đối

và cái tuyệt đối trong hoạt động quản lý kinh tế
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
12
16
17



MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn cách mạng hịên nay, dưới sự tác động của nhân tố thời
đại, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường và mở cửa, vai trò quản lý xã hội của
nhà nước phải được phát huy hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội
(chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng an ninh…) nhằm giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam đó là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
vì hịa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân thế giới. Trong đó
nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn vai trò quản lý của nhà nước ta trong những năm qua trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng, tuy đã đạt
được những thành tựu quan trọng, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng về kinh
tế - xã hội, tạo tiền đề cơ bản cho nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; nhưng bên cạnh đó cịn tồn tại nhiều mặt hạn chế,
yếu kém gây bức súc trong nhân dân và dư luận xã hội, ảnh hưởng đến sự phát
triển của kinh tế xã hội cần khắc phục. Để khắc phục những hạn chế trên cần
tiến hành nhiều giải pháp khác nhau, trong đó nghiên cứu vấn đề biện chứng
giữa cái tương đối và tuyệt đối sẽ cho chúng ta có cơ sở phương pháp luận để
giải quyết vấn đề. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Biện chứng giữa cái tương đối
và cái tuyệt đối trong hoạt động quản lý kinh tế” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.

3


NỘI DUNG

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CÁI TƯƠNG ĐỐI VÀ CÁI
TUYỆT ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ KINH TẾ
1.1. Cái tương đối và cái tuyệt đối
Mọi chân lý đều có tính khách quan, những bản thân thế giới khách quan lại
vơ cùng, vơ tận, vì vậy, sự phù hợp của chân lý là một quá trình. Điều đó cũng có
nghĩa chân lý vừa mang tính tương đối vừa mang tính tuyệt đối.
Tính tương đối thể hiện ở chỗ, nó bao quát một cách có điều kiện, gần
đúng tính quy luật của khách thể. Tính chất này là do tính “khơng tối cao và có
hạn” của nhận thức quy định. Nhận thức của con người cũng như một thế hệ lồi
người và thậm trí của cả nhân loại, ở bất kỳ thời điểm nào, bao giờ cũng bị giới
hạn bởi những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử bởi trình độ phát triển của thực
tiễn xã hội. Trong khi đó, các sự vật , hiện tượng của thế giới xung quanh lại hết
sức phong phú, muôn vẻ, không ngừng vận động, phát triển và luôn bộc lộ ra
những thuộc tính và quan hệ mới cần phải được nhận biết. Chính vì thế, những
tri thức mà con người đạt được trong quá trình lịch sử thường là những chân lý
tương đối, tức là những tri thức đúng nhưng chưa hồn tồn, chưa đầy đủ. Sự
phù hợp của nó đối với khách thể là tương đối, là sự phù hợp có tính chất bộ
phận, từng phần và ở một số cấp độ nào đó.
Nhưng tính tương đối khơng loại trừ tính tuyệt đối của nó. Tính tuyệt đối
thể hiện ở chỗ, nó là những tri thức tuyệt đối đúng và hoàn toàn phù hợp với một
phạm vi, một giai đoạn, một khía cạnh một bộ phận nào đó của khách thể. Tính
chất này là do tính “tối cao và vơ hạn” của nhận thức quy định. Chính vì mọi
chân lý đều có tính tuyệt đối nên nếu xét theo “bản tính, xứ mệnh, khả năng và
mục đích lịch sử cuối cùng” thì con người có thể đạt đến chân lý tuyệt đối, tức là
đạt tới những tri thức hoàn toàn phù hợp và thực sự đầy đủ về thế giới.
Cái tương đối và cái tuyệt đối khác nhau về phạm vi và khả năng phản
ánh, về mức độ đầy đủ, hoàn thiện hay mức độ chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện,
song chúng đều là chân lý khách quan có mối quan hệ thống nhất biện chứng với
nhau. Điều đó, biểu hiện mối quan hệ giữa q trình nhận thức vơ tận thế giới
4



khách quan với quá trình nhận thức cái riêng lẻ, cụ thể có hạn của từng cá nhân,
từng thế hệ trong điều kiện lịch sử, xã hội nhất định. Cái tuyệt đối là tổng số
những cái tương đối, mỗi cái tương đối là những nấc thang trên con đường nhận
thức cái tuyệt đối. V.I. Lênin viết: “theo bản chất của nó, tư duy của con người
có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này
chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại
đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối” [5, tr.517]…
“chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối” [6,
tr.127]. Ngược lại mỗi chân lý tương đối đều chứa đựng những yếu tố, thành
phần bộ phận của chân lý tuyệt đối, những thành phần này phù hợp với điều kiện
lịch sử nhất định mà sau này không ai bác bỏ. V.I. Lênin viết: “… mỗi chân lý
khoa học dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt
đối” [7, tr.251].
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa cái tương đối, tuyệt đối
có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan
trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu hố tính tuyệt đối, hạ thấp tính
tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ quan, giáo điều, bệnh bảo
thủ trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hố tính tương đối, hạ thấp vai trị của tính
tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối, sẽ “… phủ định mọi tiêu chuẩn,
mọi mẫu mực khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào loài người, những tiêu
chuẩn và mẫu mực mà nhận thức tương đối của chúng ta ngày một tiến gần” [7,
tr.252].
Từ đó dẫn tới chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện,
thuyết hoài nghi và không thể biết.
1.2. Hoạt động quản lý kinh tế
Quản lý đã xuất hiện từ lâu trong xã hội loài người và hoạt động ngày
càng phát triển trong xã hội hiện đại. Quản lý là một dạng lao động xã hội đặc
biệt, điều khiển các hoạt động lao động, nó có tính khoa học và nghệ thuật cao,

nhưng đồng thời nó là sản phẩm có tính lịch sử - xã hội. Khi đề cập đến cơ sở
khoa học quản lí, Các Mác viết: “Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng
5


được thực hiện ở qui mô nhất định đều cần ở chừng mực nhất định sự quản lí,
giống như người chơi vĩ cầm một mình thì tự điều khiển cịn một dàn nhạc thì
phải có nhạc trưởng” [1, tr.182].
Quản lý là một q trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý (đối tượng quản lý) thông qua việc thực hiện các
chức năng quản lý, nhằm đạt được mục đích của quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản, đó là: kế hoạch hoá; tổ chức; chỉ đạo;
kiểm tra. Bốn chức năng này có mối quan hệ mật thiết và gắn bó hữu cơ với
nhau trong q trình quản lý.
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất và đời sống của con người cùng
các quan hệ vật chất giữa con người với con người trong quá trình sản xuất
và tái sản xuất xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử...).
Quản lý nhà nước về kinh tế là chức năng quan trọng của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế,
nâng cao đời sống của nhân dân.
Quản lý nhà nước về kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý nhà nước nói
chung và gắn chặt với các hoạt động quản lý nhà nước khác.
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp
luật của Nhà nước đến nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn lực kinh tế trong và ngồi nước, các cơ hội có thể có để đạt được
những mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra.
Chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế: Là các cơ quan nhà nước thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà trực tiếp là bộ máy quản lý kinh
tế được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở.
(Theo thể chế hiện nay của nước ta (căn cứ vào Hiến pháp 1992, sửa

đổi, bổ sung 2013), cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm:
Các cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội (Điều 70, khoản 2,3,4,14;
Điều 75, Điều 79 của Hiến pháp: Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách,
nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; giám sát tối cao...) và
Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 112, 113, 114, 115, 116 của Hiến pháp:
6


Quyết định các vấn đề ở địa phương theo luật định; giám sát việc chấp
hành...).
Các cơ quan Quản lý nhà nước, bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp (thực hiện chức năng quản lý kinh tế). Chẳng hạn về
các Bộ và cơ quan ngang Bộ có thể chia thành các nhóm khác nhau:
Nhóm các Bộ làm chức năng quản lý kinh tế trực tiếp: Bộ Tài chính,
Ngân hàng nhà nước, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công
thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng...
Nhóm các Bộ làm chức năng quản lý kinh tế gián tiếp: Bộ Quốc phịng,
Bộ Cơng an, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và Công
nghệ, Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông...
Cơ quan xét xử; cơ quan kiểm sát, thanh tra chính phủ, kiểm toán nhà
nước... thực hiện các phần việc kinh tế của đất nước (Thanh tra, kiểm tra, giám
sát các hoạt động kinh tế của các tập đồn, cơng ty, doanh nghiệp...; xét xử các
vụ việc liên quan đến lĩnh vực kinh tế...).
Đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế: Là tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Điều
đó có nghĩa là:
Quản lý các quan hệ nảy sinh trong hoạt động kinh tế trên lãnh thổ quốc
gia và ngoài lãnh thổ quốc gia. Ví dụ quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh
doanh ở trong nước; các hoạt động kinh tế của công dân Việt Nam đang diễn ra
ở nước ngồi như: các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Việt Nam ở nước ngồi,
các hàng hố xuất nhập khẩu của Việt Nam cịn đang ở ngồi nước, thẩm định

các công nghệ - thiết bị chuẩn bị chuyển giao về Việt Nam...
Quản lý mọi bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, gồm: tài nguyên
quốc gia, kết cấu hạ tầng kinh tế, quỹ tiền tệ quốc gia, hệ thống các doanh
nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu. Ví dụ quản lý, cấp phép khai thác tài nguyên,
khoáng sản, đất đai; quản lý, cấp phép xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, các
cơng trình giao thơng, thủy lợi, quản lý cấp phép thành lập các Tập đồn, Tổng
cơng ty, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân...
7


Quản lý mọi ngành kinh tế hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân. Bao gồm
các lĩnh vực kinh tế: Cơng nghiệp; nơng nghiệp; dịch vụ; xây dựng; tài chính
ngân hàng... (Chính phủ Việt Nam áp dụng Hệ thống ngành kinh tế theo Quyết
định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ,
gồm các 21 nhóm ngành, 642 hoạt động kinh tế cụ thể:
Nhóm A: Nơng nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
Nhóm B: Khai khống.
Nhóm C: Cơng nghiệp chế biến.
Nhóm D: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều
hịa khơng khí.
Nhóm E: Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải.
Nhóm F: Xây dựng.
Nhóm G: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tơ, xe máy và xe có động
cơ khác.
Nhóm H: Vận tải kho bãi.
Nhóm I: Dịch vụ lưu trú và ăn uống.
Nhóm J: Thơng tin và truyền thơng.
Nhóm K: Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.....
Nhóm U: Hoạt động của các tổ chức và cơ quan quốc tế.
II. BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI TƯƠNG ĐỐI VÀ CÁI TUYỆT ĐỐI

TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ KINH TẾ
2.1. Biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt động
quản lý kinh tế
Cái tương đối trong hoạt động quản lý kinh tế thể hiện, do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan khác nhau, hoạt động quản lý kinh tế còn những
mặt hạn chế, có những nhận thức khơng đúng về mơ hình, mục tiêu phát triển
nền kinh tế đất nước, phát triển kinh tế không theo quy luật khách quan, hoạt
động quản lý máy móc, rập khn… những hạn chế đó chính là cái “tương đối”
trong hoạt động quản lý kinh tế, chưa nhận thức và tuân theo quy luật khách
quan, chưa đạt tới cái “tuyệt đối”.
8


Biểu hiện “cái tương đối” trong hoạt động quản lý kinh tế: Trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội có thời kỳ chúng ta nhận thức khơng đúng về kinh tế
thị trường. Theo đó, thị trường chỉ là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản đem đối lập
kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ chế hành chính tập trung,
quan liêu, bao cấp chối bỏ kinh tế thị trường, dẫn đến một giai đoạn “ngăn sơng
cấm chợ”, khơng khuyến khích được sản xuất, sản xuất bị đình chệ, hàng hóa
khan hiếm, đời sống nhân dân khổ cực. Từ trong khó khăn, thách thức của
khủng hoảng đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã thấy rõ sự cần thiết phải thăy
đổi cách nghĩ cách làm cho phù hợp và mang lại hiệu quả thiết thực.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức một cách
khách quan về kinh tế thị trường và cơ chế thị trường cả về mặt tích cực và mặt
tiêu cực của nó. Kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển của kinh tế hàng
hóa. Khi trình độ sản xuất phát triển đến nền sản xuất hàng hóa tất yếu thị
trường ra đời. Kinh tế thị trường tác động nhiều chiều đối với xã hội nói chung
và đối với vai trò quản lý nhà nước về chế thị trường đó là nền kinh tế hoạt động
với cơ chế theo quy luật của thị trường tinh vi. Nếu vai trò quản lý nhà nước kết
hợp hài hòa với quy luật điều tiết nền kinh tế của thị trường, thì sẽ cung- cầu,

điều tiết phân phối các nguồn lực một cách mau lẹ, kích thích tiến bộ khoa học,
kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh. Điều đó được chứng minh bằng thực
tiễn cách mạng Việt Nam, từ khi Đảng và Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động, nhanh tróng là
một trong những nguyên nhân cơ bản quyết định đưa nước ta ra khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội. Sau hơn 30 năm đổi mới những thành tựu ấy đã khảng
đinh đường lối đúng đắn của Đảng, đồng thời thể hiện rõ vai trò quản lý của nhà
nước ta đối với nền kinh tế có hiệu quả. Qua đó Đảng, Nhà nước ta đúc rút được
nhiều kinh nghiệm tronng quản lý, phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa - một tiền lệ chưa có trong lịch sử của đất nước. Đánh
giá về vai trị này, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X khảng định: “thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng bước đầu,
9


kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định” [3, tr.148] và “hệ thống pháp luật, chính sách và
cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng tương đối đồng bộ; hoạt động của các loại hình doanh nghiệp và bộ máy
quản lý nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Một số loại thị trường
mới hình thành; các thị trường hàng hóa, lao động, khoa học và cơng nghệ, tài
chính, bất động sản có bước phát triển phù hợp với cơ chế” [3, tr.149]. Đây là
mặt tích cực của nền kinh tế thị trường tác động đến vai trò quản lý của nhà
nước trong lĩnh vực kinh tế cần phải tận dụng, phát huy trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Cùng với mặt tích cực kinh tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực
(hay cịn gọi là mặt trái của cơ chế thị trường) đối với xã hội nói chung và vai
trị quản lý của nhà nước nói riêng. Bởi vì, cơ chế thị trường về bản chất thường
vận động tự phát, tất yếu dẫn đến cơ cấu cung cầu mất cân đối, dẫn đến khủng
hoảng kinh tế hàng hóa theo chu kỳ, tệ nạn thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo

q mức... Nếu khơng có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản thì sẽ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa về kinh tế,
từ đó dẫn đến chệch hướng về chính trị và các mặt khác của xã hội. Bên cạnh
đó, kinh tế thị trường có tác động tiêu cực đến các vấn đề xã hội như: tư tưởng,
đạo đức, lối sống… Kinh tế thị trường làm nảy sinh tệ sùng bái đồng tiền, vì
đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con người; xuất hiện các hiện
tượng buôn lậu, chốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh, hàng giả, lừa đảo, môi
giới lừa đảo làm cho công tác quản lý của nhà nước đối với kinh tế đã phức tạp
lại càng phức tạp hơn. Nếu nhà nước khơng có chính sách quản lý chặt chẽ thì sẽ
dẫn đến dối loạn thị trường, đình chệ sản xuất, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
khó tránh khỏi.
Vì vậy, làm thế nào để khắc phục được những hạn chế của kinh tế thị
trường và giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế; làm thế
nào để phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường dể đưa đất nước
ta tiến lên. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra đối với vai trò quản lý Nhà nước trên
lĩnh vực kinh tế hiện nay.
10


“Cái tương đối” trong hoạt động quản lý kinh tế cịn thể hiện: Vai trị
quản lý xã hội nói chung và quản lý trên lĩnh vực kinh tế nói riêng cịn chịu sự
tác động của chính sách mở cửa, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Đây là xu thế và yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế- xã hội,
muốn phát triển phải mở cửa, hội nhập. Nếu phát huy tốt vai trị đó nước ta có
thể thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại tranh thủ vốn, kỹ thuật, khoa học công
nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh tế của nước ngoài phục vụ cho quản lý nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đi dúng hướng. Tuy nhiên
trong điều kiện mở cửa hợp tác hội nhập toàn cầu hóa kinh tế, bên cạnh những
yếu tố tích cực hội nhập kinh tế quốc tế còn mang lại những mặt tiêu cực như:
bị chèn ép về kinh tế, bị tụt hậu về khoa học công nghệ, sự thâm nhập nhiều

luồng văn hóa dẫn đến đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc…
Mặt khác chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu
phá hoại cách mạng nước ta, nhằm xóa bỏ chủ nghĩa hội ở nước ta. Trong những
âm mưu thủ đoạn đó, thủ đoạn chống phá về kinh tế được chúng lợi dụng nhằm
thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến” sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác chúng làm cho nền kinh
tế nước ta mất tính cân bằng và độc lập tự chủ, khuyến khích tự do hóa, tư nhân
hóa nền kinh tế làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Thông qua hoạt
động đầu tư thương mại, bóp ngẹt, chèn ép kinh tế nước ta… Theo đó để vừa
mở cửa hội nhập kinh tế, tham gia vào q trình tồn cầu hóa mà khơng bị hịa
tan, địi hỏi phải đặc biệt chú trọng đến vai trò quản lý nền kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trước tác động nhiều chiều của kinh tế thi
trường và mở cửa nền kinh tế hiện nay, chúng ta cần phải xác định rõ mục tiêu,
nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế. Từ đó có những
giải pháp nâng cao vai trị của nhà nước trong quản lý kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
“Cái tuyệt đối” trong hoạt động quản lý kinh tế thể hiện: Nhà nước ta là
chủ thể quản lý nền kinh tê đất nước, mọi hoạt động kinh tế diễn ra đều chịu sự
quản lý, giám sát của nhà nước. Chính vì vậy, văn kiện tồn quốc lần thứ X đã
11


khảng định: “tiếp tục hoàn thiện thể chế để thực hiện đầy đủ nguyên tắc nhà
nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Khẩn trương rà soát để giảm đến mức
thấp nhất quan hệ “xin-cho”. Thực hiện công khai, minh bạch trong mua sắm
công và đầu tư xây dựng cơ bản, trong quản lý tài chính và ngân sách nhà
nước…” [2, tr.100]. Đây là một trong những nội dung cơ bản trong đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vừa thể hiện quyết tâm của Đảng và nhân
dân ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. Trong đó đề cao hiệu lực quản lý xã hội trong lĩnh vực kinh tế là một

trong những lĩnh vực quyết định chi phối đến các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đẩy
nhanh quá trình hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Khẳng định vai trò quản lý của nhà nước trên lĩnh vực kinh tế là trọng tâm
trong quản lý xã hội cịn do chính thực trạng và đặc điểm của nền kinh tế nước
ta quy định. Bởi vì, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất kém phát triển, còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế, do vậy khuynh hướng tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản là khách quan, là
không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, do đặc điểm nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần quy định tính định hướng xã hội chủ nghĩa là: Thứ nhất, thực hiện
nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần;
lấy việc giải phóng sức sản xuất, phát huy tối đa các nguồn lực bên trong và bên
ngoài trên cơ sở nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngồi là
quan trọng cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. Có chính sách tôn
vinh những người tổ chức sản xuất, kinh doanh theo luật pháp, tạo được nhiều
việc làm cho xã hội, dù ở thành phần kinh tế nào. Thứ hai, kinh tế nhà nước
đóng vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh tư
nhân làm ăn lâu dài. mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà
12


nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Thứ ba, xác lập,
củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội; thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn; đảm bảo công bằng xã hội
cho mọi người dân tham gia các hoạt động kinh tế-xã hội. Thứ tư, tăng trưởng
kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước

phát triển. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, kết hợp với phân phối theo mức độ đóng
góp các nguồn lực trí tuệ , vốn vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua
phúc lợi xã hội. Các nguồn tài nguyên, tài chính của quốc gia được phân phối,
sử dụng theo nguyên tắc công bằng và hiệu quả. Thứ năm, kết hợp chặt chẽ thị
trường và kế hoạch, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Vai trò quản lý, điều khiển kinh tế của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết để phát triển đúng đắn và giữ vững nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
“Cái tuyệt đối” trong hoạt động quản lý kinh tế thể hiện: Nhà nước ta
quản lý toàn diện nền kinh tế. Khi nói đến vai trị quản lý kinh tế của nhà nước
xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế là nói đến quản lý một cách tồn diện mà
trước hết là quản lý về sở hữu tư liệu sản xuất, các thành phần kinh tế, đây là
yếu tố quyết định bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; quyết định bản chất của chế độ xã hội. Trong đó phải tổ chức, quản lý
được vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế hợp tác
(nòng cốt là hợp tác xã) trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân. Đồng thời phải
quản lý cả về trình độ phát triển của nền kinh tế, hệ thống kinh tế, các thành
phần kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đó, nhà nước ta phải quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, các mặt đời sống kinh tế xã
hội; trực tiếp là đầu tư một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn có tính chất huyết mạch
của nền kinh tế như ngân hàng tài chính, viễn thơng, cơ sở hạ tầng… để dẫn dắt
toàn bộ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiết lập khuôn khổ hệ
thống pháp luật, hệ thống chính sách nhất quán nhằm khắc phục những hạn chế,
13


tiêu cực của kinh tế thị trường. Từng bước hoàn thiện chính sách phân phối đảm
bảo cơng bằng theo khả năng của người lao động; hướng dẫn các hoạt động kinh

tế, thành phần kinh tế vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa chủ yếu tập trung vào việc cụ thể hóa đường
lối, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng. Tổ chức thực hiện một cách
khoa học, có kế hoạch, xác định cơ cấu tổ chức, quản lý mới phù hợp với từng
giai đoạn, tình hình thực tế của đất nước, các ngành, các vùng kinh tế. Thực hiện
tốt vai trò chỉ đạo địa phương, các ngành kinh tế, vai trò điều tiết, định hướng,
giám sát, kiểm tra, khuyến khích, sử phạt của nhà nước trong quản lý kinh tế.
2.2. Một số giải pháp vận dụng biện chứng giữa cái tương đối và cái
tuyệt đối trong hoạt động quản lý kinh tế
Từ những hạn chế yếu kém về quản lý kinh tế ở nước ta thời gian qua,
việc nâng cao vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ta hiện nay là vẫn đề khách
quan và cấp bách. Để phát huy hơn nữa vai trò quản lý của nhà nước trên lĩnh
vực kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa
hiện nay, cần vận dụng sáng tạo biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối,
trên cơ sở đó thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nắm vững xu hướng vận động của các thành phần kinh tế. Xây
dựng nền kinh tế trong thời kỳ qúa độ tất yếu phải thực hiện nhất quán chính
sách phát triền kinh tế nhiều thành phần. Bởi vì, chúng ta cần phải quán triệt sâu
sắc và kiên trì quan điểm đại hội IX, X. Nghị quyết TW9, khóa IX. Các thành
phần kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thống nhất, được phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận
động chung, thành phần kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ những
thành phần kinh tế khác phát triển; thành phần kinh tế tập thể cần được phát
triển mạnh và cùng với thành phần kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân; các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích
phát triển, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh vì mục đích kinh tế, khơng hạn chế quy
mô, hoạt động theo pháp luật và theo định hướng của nhà nước. Vì vậy, phải tiếp
14



tục tháo gỡ những khó khăn, cản trở hiện nay, xóa bỏ sự phân biệt đối xử tạo điều
kiện và môi trường kinh doanh lành mạnh cho các thành phần kinh tế.
Hai là, nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Ở
nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là xuất phát từ lợi ích của đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là “hòn đá thử vàng” để xem xét sự
đúng hướng hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình phhát triển kinh
tế. Kinh tế nhà nước càng phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã
hội sẽ phát triển nhanh, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh” nhanh và vững chắc bấy nhiêu.
Để phát huy tốt vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cần tập trung giải
quyết tốt các công việc sau đây: Đẩy nhanh tiến độ khổ phần hóa doanh ngiệp
nhà nước mở rộng việc mua bán khổ phiếu công khai trên thị trường; Tổng kết
chuyển các cơng ty nhà nước hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con;
hình thành cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Đổi mới việc quản lý
đối với doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ bao cấp và những bảo hộ bất hợp lý,
thực hiện đầu tư vốn thơng qua tài chính, đưa các doanh nghiệp nhà nước thực
sự đối mặt với yêu cầu của thị trường và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường;
tăng quyền tự chủ kinh doanh của nhà nước, nâng cao hiệu của hoạt động của
tổng cơng ty mạnh, hình thành các tập đồn kinh tế lớn; kiểm sốt chặt chẽ các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong khu vực độc quyền, điều tiết lợi nhuận
độc quyền do nhà nước mang lại.
Ba là, tiếp tục hồn thiện thể chế, chính sách của nhà nước. Để đẩy mạnh
phát triển kinh tế nhiều thành phần, chúng ta tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế,
chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế quốc tế hiện nay. Cụ thể, cần tập trung
nghiên cứu giải quyết các vấn đề sau: Hướng tới thống nhất việc ban hành các
đạo luật theo hành vi cần điều chỉnh chứ không phải theo chủ thể điều chỉnh.
Sớm tạo lập hệ thống pháp luật theo hướng chỉ có một luật áp dụng chung, bình
đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, khơng cần phân biệt hình thức sử hữu, hoặc

giữa các luật cần thống nhất chung. Nghĩa là, chúng ta phải đặt các doanh
15


nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong cùng một luật chơi thực sự
cơng bằng. có như vậy mới tạo được sự cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình
doanh nghiệp; sớm ban hành luật Cạnh tranh và luật Kiểm soát độc quyền, luật
Chống bán phá giá…, nhằm hình thành khung pháp luật cho việc đảm bảo cạnh
tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền, hạn chế tiêu cực trong kinh doanh; chú
trọng súc tiến thương mại đầu tư đẩy nhanh tiến độ tiếp cận với thế giới trong
quá trình hội nhập.
Đẩy mạnh tiến độ cải cách hành chính nhà nước. Hiện nay, thái độ tâm lý
làm việcvà phương thức, công cụ quản lý của hầu hết các cơ quan nhà nước có
liên quan chưa có sự thay đổi rõ nét và do đó, chưa thực sự phù hợp với cơ chế,
chính sách mới về phát triển kinh tế. Tính khoa học, chun mơn, chun nghiệp
theo cơ chế thị trường trong các công việc của các cơ quan quản lý nhà nước cịn
thấp. Trước mắt, cần hồn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
các tổ chức, đơn vị quản lý hành chính các cấp để nâng cao hiệu quả quản lý của
nhà nước với các thành phần kinh tế. Khắc phục và tiến tới xóa bỏ tình trạng
trùng lắp trong quản lý, điều hành; làm rõ trách nhiệm và có chế độ thưởng phạt
nghiêm minh đối với người đứng đầu tổ chức, đơn vị. Đẩy nhanh tiến độ xóa bỏ
chế độ chủ quản để các doanh nghiệp tự chủ hơn trong việc sản xuất, kinh doanh.
Hồn thiện cơng cụ quản lý kinh tế vĩ mơ nền kinh tế. Trước hết cần hồn
thiện một số chính sách sau: Có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
dân doanh tiếp cận với nguồn vồn tín dụng ngân hàng bằng cách dơn giản hóa
các thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các hình thức cho vay vốn như bảo lãnh tín
dụng, th mua tài chính…; Hồn thiện chính sách thuế, khắc phục tình trạng
vừa bất hợp lý, vừa sơ hở, lại vừa bất bình đẳng hiện nay… Để khắc phục tình
trạng chốn lậu thuế, khai khống hóa đơn liên tục sảy ra trong thời gian qua, cần
thực hiện nguyên tắc bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành

phần kinhh tế; xác định mức thuế hợp lý để vừa đảm bảo thu đủ ngân sách nhà
nước, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp tích lũy vốn đầu tư phát triển, và vừa hạn
chế tình trạng trốn thuế; nhanh chóng khắc phục những sơ hở trong hệ thống
thuế, tiến tới hoàn thiện hệ thống thuế một cách hợp lý.
16


Bốn là, nâng cao vai trò quản lý kinh tế của chính quyền các cấp. Mặc dù
có nhiều chuyển biến, nhưng vai trò quản lý các thành phần kinh tế của các bộ,
chính quyền địa phương các cấp vẫn cịn bất cập, vẫn lấn sân nhau và có nhiều
sơ hở. Thời gian tới, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng
cao vai trò quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý các thành phần
kinh tế nói riêng của các bộ, ngành và các địa phương. Tăng cường chỉ đạo,
kiểm tra đôn đốc các bộ, ngành thể chế hóa, hồn thiện một số cơng cụ, chính
sách như chính sách tín dụng, chính sách thuế… Hình thành các tổ chức phù
hợp, thống nhất với nhiệm vụ cụ thể để thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, các thành phần kinh tế.
Năm là, nâng cao phẩm chất năng lực và trình độ quản lý kinh tế của đội
ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc, muốn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém” [4, tr.187]. Thực tiễn hiện nay “năng lực và phẩm chất của
nhiều cán bộ, cơng chức cịn yếu, một số bộ phận khơng nhỏ thối hóa, biến
chất. Dân chủ nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. quan
liêu, tham nhũng, lãng phí cịn nghiên trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu,
cửa quyền, thiếu trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức,
nhất là các cơ quan trong giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp…” [3,
tr.175]. Cho nên, việc nâng cao phẩm chất, năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ
công chức nhà nước là một yêu cầu khách quan cần thiết và cấp bách hiện nay.

17



KẾT LUẬN
Mục tiêu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
Đảng ta xác định nhằm: Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên
tất cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Thực chất là từng bước giải phóng
người lao động khỏi áp bức bóc lột, làm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, con người được phát triển toàn diện.
Khi nói đến vai trị quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với
nền kinh tế là nói đến quản lý một cách tồn diện mà trước hết là quản lý về sở
hữu tư liệu sản xuất, các thành phần kinh tế, đây là yếu tố quyết định bản chất của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quyết định bản chất của chế
độ xã hội. Đó là sự vận dụng sáng tạo biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt
đối trong hoạt động quản lý kinh tế. Trong đó phải tổ chức, quản lý được vai trò
chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là
hợp tác xã) trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân. Đồng thời phải quản lý cả về
trình độ phát triển của nền kinh tế, hệ thống kinh tế, các thành phần kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đó, nhà nước ta phải quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, các mặt đời sống kinh tế xã
hội (cái tuyệt đối); trực tiếp là đầu tư một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn có tính
chất huyết mạch của nền kinh tế như ngân hàng tài chính, viễn thơng, cơ sở hạ
tầng… để dẫn dắt tồn bộ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiết
lập khn khổ hệ thống pháp luật, hệ thống chính sách nhất quán nhằm khắc
phục những hạn chế, tiêu cực của kinh tế thị trường. Từng bước hồn thiện
chính sách phân phối đảm bảo công bằng theo khả năng của người lao động;
hướng dẫn các hoạt động kinh tế, thành phần kinh tế vào quỹ đạo của chủ nghĩa
xã hội.


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. V.I.Lênin, toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
6. V.I.Lênin, toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
7. V.I.Lênin, toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.

19



×