Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 78 trang )

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà văn M.Gorki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống – thơng
qua ngơn từ và hình tượng nghệ thuật sinh động, nó cung cấp cho con người kiến thức
về cuộc sống cũng như khám phá cái đẹp trong tâm hồn con người. Đến với văn học
chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình tượng trong tác phẩm mà từ đó
tác động tâm tư tình cảm, góp phần để hình thành và phát triển nhân cách. Vậy nhưng,
khơng phải ai cũng hiểu vai trị của văn chương trong đời sống con người, hiện nay giá
trị văn học đang dần bị lãng quên. Nhất là với học sinh. Xu hướng xem nhẹ các mơn xã
hội nói chung, mơn Ngữ văn nói riêng là điều mà bất cứ giáo viên đứng lớp nào cũng
có thể dễ dàng cảm nhận. Học sinh học Văn như một sự bắt buộc để đủ điều kiện lên
lớp hay để có được tấm bằng tốt nghiệp cuối cấp chứ không phải bởi sự đam mê. Học
văn là phải đọc, thậm chí là đọc đi đọc lại nhiều lần, phải ngẫm nghĩ, tìm tịi, liên hệ…
Có lẽ vì vậy mà học sinh đang dần dần “quen” môn Văn.
Tác phẩm văn chương là bức tranh về cuộc sống, con người trong lao động,
trong đấu tranh được tái hiện một cách chuẩn xác mà không hề khô khan, tẻ nhạt. Học
văn, bên cạnh cái cơ bản là học về ngơn ngữ, tiếng nói văn chương của tiếng Việt để có
thể nói, viết, xây dựng ngơn ngữ diễn đạt cho riêng mình thì cịn học về văn hóa, tình
Trang 1


cảm, tư duy nghệ thuật của nhân loại thông qua những tác phẩm văn chương đặc sắc.
Và từ đây, ta học cách làm người, học cách chia sẻ, yêu thương.Văn học giúp ta bồi
dưỡng tình đời, tình người, làm cho tâm hồn tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm. Học
tốt môn văn là nền tảng vững chắc giúp các em tự tin trong giao tiếp hàng ngày, góp
phần cho những thành công trong cuộc sống mai sau.
Để học sinh thấy được giá trị to lớn của văn học, để thắp sáng và thổi bùng ngọn
lửa đam mê văn học trong các em, từ đó nâng cao chất lượng bộ mơn Ngữ Văn, bản


thân tôi đã luôn không ngừng nỗ lực tìm tịi, nghiên cứu, thực hiện những biện pháp
phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6 và bước đầu nhận thấy được những chuyển biến
rất tích cực. Các em trở nên hào hứng hơn với các tiết văn, tích cực hơn trong việc học
bài ở nhà, chuẩn bị bài trước khi đến lớp nên chất lượng bộ môn cũng được nâng cao.
Vì vậy, tơi chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 6” với
mong muốn được chia sẻ những kinh nghiệm riêng của cá nhân trong q trình giảng
dạy bộ mơn Ngữ văn.
II. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng bộ
môn Ngữ Văn 6”, bản thân tôi muốn bày tỏ những suy nghĩ, trăn trở của mình về thực
trạng việc dạy và học môn Ngữ văn 6 hiện nay, đồng thời cũng mạnh dạn đề xuất
những giải pháp được rút ra từ thực tiễn giảng dạy của mình. Thực sự tôi rất mong
được các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm, trao đổi, bàn luận để tìm ra
những giải pháp tối ưu nhất, giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về giá trị của mơn
Trang 2


học, say mê, hứng thú với bộ mơn, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ
văn. Mục đích cụ thể mà đề tài hướng đến là:
- Tìm hiểu thực trạng thái độ của học sinh với môn học Ngữ Văn và chất lượng
của bộ môn này.
- Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ môn Ngữ văn chưa cao.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để vận dụng vào việc giảng
dạy Ngữ văn ở các khối lớp để nâng cao chất lượng của bộ môn này
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 6A1, 6A7 năm học 20172018 và học sinh lớp 6A3, 6A6 của học kì 1- năm học 2018-2019 tại trường THCS
Nguyễn Trãi.
2. Phạm vi của đề tài
Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số giải pháp mới để giúp học sinh có cái

nhìn đúng đắn hơn về giá trị của mơn học, say mê, hứng thú với bộ mơn, từ đó nâng
cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn 6.

PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề

Trang 3


Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã đ ược chính xác trong quy ết
nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quy ết nghị Trung ương 2 khóa VIII (12 –
1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), đ ược cụ th ể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là ch ỉ th ị s ố 15 (4 – 1999). Văn
Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục kh ẳng đ ịnh “giáo d ục là qu ốc
sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào t ạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trinh giáo dục ch ủ y ếu t ừ trang
bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm ch ất ng ười h ọc; h ọc đi
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.
Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp dạy h ọc
mới đó là:
- Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo d ục, trong đó, d ưới s ự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh đ ược tham gia tr ực
tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đinh, nhà tr ường
cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát tri ển
năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng t ạo c ủa cá
nhân minh. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn
học.
- Phương pháp- kĩ thuật dạy học tích cực
Trang 4



Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có nhiều
quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Trong tài liệu này, PPDH được hiểu là
cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên và học sinh, trong nh ững
điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ
thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thu ật các m ảnh
ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,...
Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách th ức hành đ ộng c ủa giáo
viên trong các tinh huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trinh
dạy học.
- Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy)
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi m ới ph ương pháp
giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp t ư
duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các ph ương tiện tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trinh dạy học, đảm bảo điều ki ện và th ời gian t ự
học, tự nghiên cứu cho học sinh...”.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) sử dụng đồng thời hinh ảnh, đường nét, màu sắc, ch ữ
viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỷ l ệ, chi
tiết khắt khe và định khuôn sẵn như các loại bản đồ thông dụng khác. Nh ư v ậy
cùng một chủ đề, bài học nhưng mỗi người có thể vẽ theo một cách khác nhau và
Trang 5


hồn tồn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ dàng. Nếu muốn ghi chép bằng
SĐTD cũng có nhiều ưu điểm hơn như: Lơgíc, mạch lạc; trực quan, sinh đ ộng, d ễ
nhin, dễ hiểu; vừa nhin được tổng thể, vừa biết được chi tiết; giúp hệ th ống hóa
kiến thức dễ dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nh ớ ki ến th ức lâu h ơn...
- Dạy học phát triển năng lực

Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực khơng chỉ chú ý
tích cực hố học sinh về hoạt động trí tuệ mà cịn chú ý rèn luyện năng lực giải
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp , đồng thời
gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng c ường việc học
tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo h ướng c ộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
- Giáo dục an ninh và quốc phịng
Quốc phịng: là cơng cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng h ợp c ủa toàn dân
tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm
nòng cốt.
An ninh: là tinh hinh trật tựxã hội binh thường, n ổn, khơng có rối lo ạn.
Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hinh thành, b ồi d ưỡng ở
học sinh tinh yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý th ức công dân trong
việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững m ạnh đ ể bảo vệ đ ất n ước.

Trang 6


II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, rất nhiều những phương phápđổi mới dạy học được
đưa vào áp dụng, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của học sinh. Các buổi
tập huấn, họp tổ chuyên môn cũng đưa vấn đề phương pháp dạy học cùng thảo luận,
trao đổi nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ môn. Tuy nhiên, vị thế của môn Văn
ngày càng giảm sút, tình trạng học sinh chán học văn ngày càng tăng thực sự là một vấn
đề đáng lo ngại. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để dẫn đến tình trạng này do một số
nguyên nhân sau:
1. Đối với người dạy
Nhìn chung, hầu hết các thầy cô đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo
quan tâm đến học sinh, tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế nhất định sau:
+ Nhiều thầy cô ngại đổi mới, có áp dụng phương pháp mới nhưng chậm, ít hoặc

chưa phù hợp với nội dung bài học, phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với
đa phần đối tượng học sinh.
+ Nhiều giáo viên cịn gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới với
yêu cầu truyền đạt mộtkhối lượng khổng lồ của tri thức nhưng thời gian thực học của
học sinh với bộ môn ngày càng ít.
+ Với đặc thù của bộ mơn, các đồ dùng trực quan hầu như khơng có, tranh ảnh
minh họa trong sách không nhiều.

Trang 7


+ Trong một lớp, mức tiếp thu nội dung bài học của học sinh nhanh, chậm khác
nhau cũng là một rào cản trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
2. Đối với học sinh
Với địa bàn tập trung lượng dân cư đông đúc, tỉ lệ đồng bào ở các buôn Eana,
buôn Drai, buôn Tơ Lơ phần đa phần điều kiện kinh tế cịn khó khăn, ngồi giờ lên lớp,
các em cịn phải phụ giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc học. Nhất là vào mùa vụ,
sự chuyên cần của các em các giảm.Điều đó càng khiến cho chất lượng bộ mơn càng
khó đảm bảo.
+ Ý thức tự học, vượt khó trong học tập của nhiều em chưa cao. Với môn Văn,
tương lai để chọn ngành nghề, kiếm việc cũng khó hơn nên nhiều gia đình chỉ hướng
con em vào các mơn học “thời thượng” như Tốn, Lí, Hóa, Tiếng Anh. Vì vậy, khơng ít
học sinh xem nhẹ mơn học, không dành thời gian cho bộ môn này, hoặc có học cũng
chỉ là học lấy lệ hoặc đối phó. Điểm này thể hiện rõ ở việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới
của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Có nhiều em giáo viên hỏi bài cũ cả 4,6 lần thì tất
cả cũng chỉ nhận được câu trả lời duy nhất “Thưa cô, em không thuộc”, “em chưa
thuộc”….
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, nhu cầu giải trí như xem ti vi,
chơi game, lướt facebook . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học
bị lơi cuốn, xao nhãng việc học.


Trang 8


+ Lười học, chán học nên học yếu. Học yếu lại càng lười học, chán học, cứ xoay
vòng như một quy luật tất yếu, khiến cho giờ học với các em trở rất nên nặng nề.
Năm học 2017-2018, tôi phụ trách giảng dạy môn Văn ở 2 lớp: 6A1, 6A7.Và
năm học 2018-2019 dạy hai lớp: 6A3, 6A6. Dù là học sinh đầu cấp và mới chỉ là những
tuần học đầu tiên, nhưng học sinh đã tỏ ra thờ ơ, không hào hứng với môn học. Tôi
hướng dẫn các em cách soạn bài, học bài, song ở tiết học mới, có rất ít em chịu thực
hiện.
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I mơn Ngữ văn 6 trường THCS Nguyễn
Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau:
Năm học 2017 -2018:
Lớp

Điểm
Sĩ số

Năm học

Trung
Giỏi

Khá

Yếu

Kém


Ghi chú

bình
6A1

29

0

1

15

8

5

6A7

36

2

7

17

8

2


65

2

8

32

16

7

Tổng
2017-2018

cộng
12,5
Tỉ lệ

3%

24,5
49%

%

11%
%


 Năm học 2018 – 2019:
Lớp

Sĩ số

Ghi chú

Điểm
Giỏi

Khá

Trang 9

Trung

Yếu

Kém


Năm học

bình
6A3

26

0


1

14

6

5

6A6

35

2

6

16

9

2

61

2

7

30


15

7

Tổn
2018-2019

g
cộng
Tỉ lệ

3,4%

11,3% 49,3% 24,6% 11,4%

Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối với bộ
mơn Ngữ văn vẫn cịn thấp cụ thể như sau:
Năm học 2017- 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 64,5%,
cịn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Năm học 2018- 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 6 4%, cịn
lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Vậy làm thế nào để học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển được tư
duy, tìm tịi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh việc thực hiện
tốt việc dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tơi khơng ngừng học hỏi, tìm tịi sử dụng
nhiều phương pháp dạy học khác nhau với hi vọng học sinh sẽ u mơn Ngữ văn hơn
và từ đó nâng cao được chất lượng bộ mơn của mình.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Các bước tiến hành một tiết học:
1.1. Tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện khi vào giờ học
Trang 10



Trong mỗi tiết học, người đóng vai trị chủ đạo để điều tiết khơng khí lớp học
chính là giáo viên.Thái độ, tâm lí, tác phong của người đứng lớp có ảnh hưởng rất lớn
đến tâm lí học sinh. Xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” phải bắt đầu
từ “Lớp học thân thiện” và “Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng về đạo đức và tự học”.
Điều đó địi hỏi giáo viên phải ln mẫu mực trong thái độ, tác phong, cách ứng xử.
Sự thân thiện, tích cực của giáo viên sẽ tạo nên sự gần gũi, thân tình, u mến ở
học sinh, xóa bỏ cảm giác áp lực mỗi khi đến tiết học Ngữ văn. Yêu mến thầy cơ, đồng
nghĩa với việc các em có hứng thú với môn học. Ngược lại, nếu giáo viên tỏ ra lạnh
nhạt, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ xa lánh, không tương tác với những bài
học, và đồng nghĩa với việc, mục đích của giáo dục coi như thất bại.
Cuộc sống của giáo viên cũng như bao nhiêu người khác với những lo toan, gánh
nặng bộn bề của cuộc sống đời thường.Nhưng khi lên lớp, đứng trên bục giảng, chúng
ta phải tự mình điều chỉnh tâm lí, gạt bỏ những lo âu, buồn bực, bởi những tâm lí nặng
nề sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tiết học, đến tâm lí học sinh. Khơng làm chủ được cảm
xúc, khơng chỉ khơng có cảm hứng truyền tải nội dung bài học, mà cịn có thể có những
thái độ, hành động khơng chuẩn mực, đánh mất hình ảnh của chính mình. Vì thế, tạo
một khơng khí vui vẻ, thân thiện, nhẹ nhàng là tiền đề quan trọng để tạo hứng thú cho
học sinh tiếp thu bài học.
1.2. Coi trọng việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới

Trang 11


Kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới ở nhà của học sinh phải là hoạt động
mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi bắt đầu tiết học.Có khi tự tơi đi một
vịng quanh lớp, u cầu các em giở vở soạn lên bàn, có khi cho chính học sinh kiểm
tra chéo nhau, có khi là bằng cách lấy ý thức tự giác, trung thực của học sinh…Để tránh
tình trạng khơng học bài, soạn bài hoặc có nhưng chỉ mang tính chất đối phó, lấy lệ, vài

tuần, tơi sẽ thu vở kiểm tra, có thể là 5-10 em, nửa lớp, hoặc cả lớp, có chấm điểm,
nhận xét rõ ràng theo hướng động viên, khích lệ sự cố gắng, nỗ lực của các em để học
sinh rút kinh nghiệm trong các bài soạn sau. Với những học sinh yếu hơn, tơi thường có
thêm điểm cộng ở sau, khi trả bài, tơi sẽ nói ln ở trước lớp, rằng “những bạn đó có
nhiều cố gắng nên cơ đã cộng thêm 1 điểm khuyến khích”.Với những trường hợp
khơng tiến bộ thì tơi cũng kiểm điểm nghiêm khắc, có những hình thức kỉ luật nhất
định, từ nhẹ nhàng nhắc nhở đến việc viết bản kiểm điểm, mời phụ huynh.
Để việc học bài cũ, soạn bài mới có hiệu quả, điều quan trọng là giáo viên cần có
những hướng dẫn cụ thể cho học sinh tự học.Giúp các em có tinh thần tự học, phát huy
tính chủ động trong việc tìm hiểu nội dung bài học. Vì thế, trong buổi học đầu tiên của
năm học mới, tôi dành một khoảng thời gian cho việc đưa ra nội quy riêng của bộ mơn,
trong đó tất nhiên khơng thể thiếu quy định việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới. Tôi
hướng dẫn khái quát cách soạn bài của từng phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm
văn để học sinh nắm rõ phương pháp học ở nhà. Phần dặn dò sau mỗi tiết học, tôi đều
dành vài phút để nêu những hướng dẫn, gợi ý cho việc học bài cũ, soạn bài mới. Với
việc học bài cũ, tơi thường dặn dị các em về xem lại nội dung bài giảng, chỉ ra những
Trang 12


nội dung trọng tâm để học sinh lưu ý nắm vững kiến thức.Với việc yêu cầu học sinh
soạn bài mới, tơi thường cụ thể hóa những u cầu của nội dung bài học theo từng phân
môn.
Phần văn bản: Yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xem phần chú thích từ khó để
hiểu đúng nội dung; nắm khái quát về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, bố cục; trả
lời các câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản, lưu ý về nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của
văn bản. và một số lưu ý cụ thể ở từng bài.
Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Bài học đường đời đầu tiên” của Tơ
Hồi tơi thường u cầu:
+ Tìm hiều thêm về tác giả Tơ Hồi và tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí”.
+ Đọc phần chú thích, nắm những nét chính về tác giả, tác phầm; đọc kĩ đoạn

trích, nắm vững các từ khó;tìm các chi tiết miêu tả về ngoại hình, hành động, tính cách
của Dế Mèn; tìm chi tiết thể hiện thái độ của Dế Mèn sau khi gây ra cái chết cho dế
Choắt.
+ Soạn bài theo hệ thống câu hỏi phần Đọc - hiểu văn bản trong sách giáo khoa.
Phần Tiếng Việt và Tập làm văn: Yêu cầu học sinh chú ý trước hết ở từng mục.
Đọc ví dụ, trả lời các câu hỏi để từ đó tự hình thành khái niệm và làm trước các bài tập
phần luyện tập.
Nếu xét thấy nội dung nào quá khó với năng lực của học sinh, tơi sẽ phân chia
cơng việc theo từng nhóm để các em trao đổi, thảo luận, giúp đỡ những bạn yếu hơn.
Trang 13


Giáo viên cần chú ý để tránh tạo áp lực về điểm số cho học sinh. Học bài cũ, chuẩn bị
bài mới mục đích chính là tạo tâm thế để học sinh tiếp thu bài tốt hơn.
2. Các giải pháp:
2.1. Soạn giảng và đổi mới phương pháp dạy học
Đây là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng dạy học nói riêng, chất
lượng giáo dục nói chung. Dù dạy – học là hai hoạt động có tính độc lập tương đối
nhưng lại là hai mặt của một quá trình: giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng, hình
thành, bồi dưỡng nhân cách, tình cảm cho học sinh, học sinh là người lĩnh hội, làm chủ
kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu bắt buộc, người giáo viên phải
thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro và rút kinh nghiệm
từ thất bại. Tuy nhiên, với suy nghĩ của cá nhân, tơi cho rằng, đổi mới phương pháp dạy
học khơng có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn phương pháp truyền thống, mà cần biết kế thừa,
phát huy trên cơ sở vận dụng phương pháp mới một cách sáng tạo, có hiệu quả như:
2.1.1. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sơ đồ tư duy vào
giảng dạy
Công nghệ thông tin là một phương tiện dạy học hiện đại với những tính năng ưu
việt, tiện ích nổi trội của nó so với các phương tiện dạy học khác. Giáo án điện tử là
bước cải tiến lớn giúp giáo viên mang lại cho học sinh nhiều thông tin hơn và các thơng

tin đó có thể được chứa đựng trong nhiều kênh khác nhau như văn bản, hình ảnh, âm
thanh và các đoạn video. Có thể nói, cơng nghệ thơng tin đã cung cấp điều kiện và phTrang 14


ương tiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho công việc giảng dạy của giáo viên mơn Ngữ văn
nói riêng, các bộ mơn khác nói chung. Trong thực tế giảng dạy của mình, tơi nhận thấy
với những tiết học có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, học sinh tỏ ra rất hào hứng,
chăm chú khi được trực quan bằng những hình ảnh liên quan. Và vì thế, các em cũng
nắm bài, nhớ được nội dung bài học tốt hơn rất nhiều.
Khi có sự hỗ trợ cơng nghệ thơng tin, ta cần chú trọng lồng ghép phương pháp sử
dụng sơ đồ tư duy vào phần củng cố - đây là cách làm hiệu quả, giúp học sinh nắm nội
dung bài học một cách khái quát nhưng rất đầy đủ. Tơi thường dành 5 phút cuối giờ,
u cầu các nhóm vẽ sơ đồ tư duy cho bài học sau đó để các em tự trình bày cách hiểu
của mình về nội dung bài học, rồi có thể đối chiếu với bảng sơ đồ tư duy giáo viên
chiếu lên bảng. Với cách này, tôi không chỉ tạo cho các em sự thích thú khi được tự tay
thiết kế một sản phẩm, mà cịn rèn luyện tư duy chọn lọc thơng tin, từ ngữ, sắp xếp bố
cục để ghi nội dung cần thiết và logic nhất.
2.1.2. Tích cực dạy học theo chủ đề tích hợp và áp dụng giáo dục an ninh quốc
phòng
Đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học mơn
Ngữ văn nói riêng để phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao chất lượng giáo
dục. Nội dung tích hợp cần tập trung vàonhững điểm quy tụ, liên kết nội dung ba phân
môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn trong văn bản để xây dựng các tình huống tích
hợp và các hoạt động phức hợp tương ứng nhằm giúp học sinh tích hợp tri thức và kĩ
năng trong khi xử lí tình huống. Đó có thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn văn, những
Trang 15


chi tiết, hình tượng, các sự kiện, quan hệ, tình huống mà muốn cảm hiểu, cắt nghĩa,
đánh giá đòi hỏi phải vận dụng tri thức liên văn bản, phải tổng hợp hiểu biết nhiều mặt

về lịch sử, văn hóa, xã hội, văn học, ngơn ngữ. Đó cịn có thể là tích hợp kiến thức
những bộ mơn khác như lịch sử, địa lí, giáo dục cơng dân... Bằng cách tổ chức, thiết kế
các nội dung, tình huống tích hợp để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng
riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các kiến thức và
phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp. Với cách làm này, giáo viên vừa tạo được sự hào
hứng của các em với mơn học, giúp các em tích hợp các kiến thức và kĩ năng đã lĩnh
hội,xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng thuộc môn Ngữ văn với các môn khác.
Ở năm học 2018-2019, Phịng giáo dục và đào tạo huyện Krơng Ana đã triển khai
việc dạy lồng ghép“An ninh quốc phòng” vào giảng dạy. Sau khi được tập huấn và có sự
thống nhất trong tổ bộ môn, tôi đã mạnh dạn đưa vào chương trình học của học sinh. Bên
cạnh nội dung đã được định hướng ở một số văn bản tơi cịn mở rộng, liên hệ thực tế nhằm
giáo dục ý thức cơng dân cho các em.
Ví dụ: Chương trình Ngữ văn 6 học kì 1 lồng ghép giáo dục An Ninh – Quốc Phòng
ở các văn bản: Con Rồng cháuTiên, Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm. Ngồi nội dung đã có
định hướng tôi giảng giải giúp các em tự hào về q hương đất nước mình, về trách nhiệm
góp phần xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh để bảo vệ đất nước.
2.1.3. Dạy học trải nghiệm sáng tạo

Trang 16


Đây là một hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên - từng cá
nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau. Qua đó phát
triển năng lực, phát huy tiềm năng sáng tạo của các nhân.
Trong năm học 2017 – 2018, bản thân tôi được tập huấn về việc dạy học trải
nghiệm sáng tạo theo định hướng năng lực cho giáo viên do Phòng giáo dục và đào tạo
huyện Krơng Ana tổ chức, sau đó tơi về có triển khai và thấy kết quả khả quan. Sang năm
học 2018 – 2019, nhận thấy đây là một trong những nội dung không thể thiếu, tôi đã lên kế
hoạch ngay từ đầu năm và đưa vào áp dụng.
Ví dụ: Với chủ đề “Sân khấu hóa truyện dân gian”. Khi bắt đầu học truyện cổ tích

và truyện cười, tơi hướng dẫn học sinh cách thức làm việc, lắng nghe nguyện vọng của học
sinh để học sinh tự tư duy sáng tạo, giao việc và định hình về một tiết thực hành sau khi
học xong bài học. Cuối cùng là chọn thời điểm (có thể là tiết ngoại khóa: hoạt động ngồi
giờ lên lớp hay sinh hoạt lớp) để học sinh thực hành ngay trên lớp.
Hình ảnh minh họa của các nhóm khi thực hành tiết “ Trải nghiệm sáng tạo”

Trang 17


Trang 18


2.1.4. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ quan tâm đến
việc HS học được cái gì đến quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm
bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ
một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành
năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo
viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã
hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên

Trang 19


mơn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải
quyết các vấn đề phức hợp.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh là sự kết hợp linh hoạt phương
pháp – kỹ thuật dạy học tích cực với phương pháp truyền thống, đồng thời với việc sử
dụng các phương tiện kỹ thuật phù hợp với môn học, kiểu bài. Chú trọng nhiều đến khả

năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề của học sinh.
Ví dụ: Sau khi hướng dẫn đọc thêm văn bản “Con Rồng cháu Tiên”, tôi giúp học
sinh củng cố bằng sơ đồ tư duy:

Bài tập về nhà là học sinh vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản “Con Rồng cháu Tiên”.
Khi kiểm tra bài tập các em tôi đánh giá cao ý tưởng sử dụng đường nét, hình ảnh, màu sắc
... để thể hiện nội dung. Chỉ có các chi tiết, sự việc là bám sát văn bản, cịn ý tưởng thì
khơng có quy định nào. Học sinh rất hào hứng trong việc tìm tịi ý tưởng để thể hiện nội
dung nên các em hứng thú hơn với môn Ngữ văn.
Trang 20


2.2. Linh hoạt trong kiểm tra, đánh giá
Khi kiểm tra để lấy điểm miệng, không nên cứng nhắc là kiểm tra vào đầu tiết
học. Việc kiểm tra có thể linh hoạt chuyển đổi giữa tiết, hoặc cuối tiết học. Cũng có thể
cho điểm trong q trình học bài mới, khi học sinh trả lời tốt, tích cực tham gia xây
dựng bài.
Khi kiểm tra 15 phút hoặc kiểm tra định kì, cần có sự phân loại đối tượng học
sinh, khơng nên ra những câu hỏi đánh đố hay những câu hỏi ngồi kiến thức sách giáo
khoa. Tơi thường ra đề thi có sự phân hóa đối tượng học sinh. Mức độ nhận biết, thông
hiểu, vận dụng ở cấp độ dễ chiếm 60-70% tổng số điểm bài thi, câu hỏi khó, hoặc câu
hỏi vận dụng cấp độ cao chiếm 30-40%. Với những đề như vậy, học sinh yếu cũng có
thể làm được 4-5 điểm, điều đó sẽ khơng tạo ra sự chán nản hay thất vọng hồn tồn
với những em có học lực yếu. Cùng với những lời động viên, khuyến khích kịp thời,
những con điểm đó cịn khích lệ tinh thần cho các em, để các em cố gắng hơn trong
những bài kiểm tra sau.
Khi chấm bài, bên cạnh đòi hỏi phải chấm chính xác theo yêu cầu đề ra được thể
hiện rõ qua điểm số, còn cần chấm sự sáng tạo, tình cảm chân thành của học sinh để
động viên, khích lệ. Tơi thường chỉ ra cụ thể lỗi sai, sửa trực tiếp trên bài kiểm tra và có
những nhận xét, bổ sung để học sinh thấy được hạn chế của mình để khắc phục lần sau.

2.3. Giáo viên cần làm chủ kiến thức

Trang 21


Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học là giáo viên
phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, đảm bảo kiến thức chuyên môn, làm chủ được
phương pháp trong từng bài giảng, tránh trường hợp bị động, lung túng trong quá trình
dạy học. Điều này sẽ khiến cho học sinh quy phục và sẽ hứng thú học tập với giáo viên
bộ mơn đó. Muốn vậy, chúng ta cần khơng ngừng tìm tịi, học hỏi, nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ. Trước mỗi giờ lên lớp, cần phải soạn giảng cẩn thận, bài bản,
kĩ càng, chu đáo và làm chủ kiến thức. Như vậy, ta đã thành công một nửa.
Giáo án minh họa:
Tuần 2

Ngày soạn:

Tiết PPCT: 5

Ngày dạy:

THÁNH GIÓNG
(Truyền thuyết)

A/MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
Giúp HS:
1. Kiến thức:
- Nắm được nội dung ý nghĩa và một số nét nghệ thuật tiêu biểu của truyện Thánh
Gióng.
2. Kĩ Năng:

- Kể lại được truyện.
Trang 22


- RLKN: Bước đầu nhận biết, phân tích truyện truyền thuyết
3. Thái độ:
-GDHS: Tinh thần đoàn kết, ý thức dân tộc và ý chí đấu tranh bảo vêh đất nước.
Thấy được sức mạnh đánh giặc của dân tộc ta từ xưa đến nay.
B/ PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC:
- Phương pháp quan sát trực quan, vấn đáp, hoạt động nhóm…
- KT “trình bày một phút”, Đọc hợp tác,…
- Sử dụng các dạng câu hỏi: Nêu vấn đề, tái hiện, yêu cầu có sự so sánh đối chiếu,
ứng dụng và liên hệ…
C/ CHUẨN BỊ:
1. GV: Giáo án, SGK, SGV, tranh về Thánh Gióng, giấy A4
2. HS: soạn bài, vở ghi
D/ CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NỘI DUNG HỌC TẬP
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
(?) Nêu ý nghĩa truyện Con Rồng cháu Tiên?
- Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới:
Trang 23


Chủ đề đánh giặc cứu nước thắng lợi là chủ đề lớn, cơ bản, xuyên suốt lịch sử văn
học VN nói chung, văn học dân gian VN nói riêng. Thánh Gióng là truyện dân gian thể
hiện rất tiêu biểu độc đáo chủ đề này. Truyện cho chúng ta biết về sức mạnh đánh giặc
có từ rất sớm của người Việt cổ và sức mạnh này luôn theo mỗi con người VN trong
công cuộc đánh giặc cứu nước.

Hoạt động của thầy và trò
 Hoạt động 1

Nội dung kiến thức
I/ Đọc - hiểu văn bản:

- GV gọi HS đọc tác phẩm. Đọc giọng: Rõ ràng,

1. Đọc – Tìm hiểu

mạch lạc.

chung:

- HS đọc và GV nhận xét cách đọc của mỗi HS.

- Đọc, tóm tắt

? Văn bản thuộc thể loại gì?

- Tìm hiểu từ khó

? PTBĐ chính mà tác giả sử dụng là gì?

- Thể loại:Truyền thuyết

?Văn bản có bố cục mấy phần? Nội dung của từng

- PTBĐ: Tự sự


phần?

- Bố cục: 4 phần

- Đ1: từ đầu … “nằm đấy”:sự ra đời của Gióng
- Đ2: “Bấy giờ … cứu nước”: Gióng địi đi đánh
giặc
- Đ3: “Giặc đã đến … lên trời”: Gióng đánh giặc
- Đ4: Phần cịn lại: Những dấu tích cịn lại.
Trang 24


? Truyền thuyết Thánh Gióng có những nhân vật
nào? Ai là nhân vật chính?
- Hai vợ chồng ơng lão, cậu Gióng, sứ giả, nhân dân,


2. Tìm hiểu văn bản:

- Nhân vật chính: Thánh Gióng

a. Sự ra đời của Thánh

? Theo dõi văn bản, em thấy những chi tiết nào kể về Gióng.
sự ra đời và lớn lên của Thánh Gióng?
(Hs trả lời)

- Bà mẹ ướm chân thụ thai
12 tháng mới sinh
- Cậu bé lên 3 không biết


? Một đứa bé được sinh ra như thế là bình thường nói biết cười
hay kì lạ?

 Kì lạ, khác thường

- Kì lạ, khác thường. Bình thường người phụ nữ chỉ
mang thai 9 tháng 10 ngày nhưng bà mẹ TG mang
thai 12 tháng mới đẻ. Hơn nữa khi sinh ra cậu có mặt
mũi khơi ngơ nhưng lên ba mà vẫn chưa biết nói, biết
cười cứ đặt đâu thì ngồi đó
? Câu hỏi thảo luận: Nhân vật Thánh Gióng được
xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo như
vậy có ý nghĩ gì ?
Trang 25


×