Lời nói đầu
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách
mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cờng chức năng kinh
tế, xã hội của nhà nớc.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nớc cần phải sử
dụng các công cụ khác nhau để tác động đến nền kinh tế, nhằm thoả mãn các
nhu cầu xã hội.
Việc tăng cờng vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nớc dẫn đến tốc độ chi
tiêu của Nhà nớc ngày càng tăng lên, điều đó tất yếu đòi hỏi Nhà nớc phải
mở rộng quỹ tài chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nớc đợc hình thành
nên từ các nguồn thu.Trong đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu của NSNN,
vừa là một công cụ đắc lực để quản lí nền kinh tế. Đặc biệt là thuế GTGT.
Thuế GTGT đợc áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn hai
năm thực hiện, ngoài những u điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu tơng
đối chặt chẽ và thuận lợi nh : Đơn giản, dễ hiểu, có tính chất liên hoàn, tăng
cờng công tác hạch toán, kế toán tại doanh nghiệp. . . Luật thuế GTGT và
quy trình quản lí thuế GTGT cũng bộc lộ những nhợc điểm, ảnh hởng tới
công tác kiểm soát nguồn thu, do vậy ảnh hởng trực tiếp tới kế hoạch thu
ngân sách của Nhà nớc. Kiểm soát tốt đợc nguồn thu thuế GTGT cũng đồng
nghĩa với việc tăng thu cho NSNN.
Xuất phát từ vai trò quan trọng đó nên việc Tăng cờng kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội là đề tài
đợc chọn trong luận án thạc sĩ của tôi.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Luận án nghiên cứu thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối
với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội. Hệ thống hoá những
1
quan điểm mới về kiểm soát phù hợp với vai trò quản lí của Nhà nứớc, trên
cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm soát nguồn
thu thuế GTGT- một nguồn thu quan trọng của Nhà nớc.
3. Nội dung đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận , luận án gồm 3 chơng:
Chơng I: Lí luận chung về kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các
Doanh nghiệp
Chơng II: Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà nội
Chơng III: Những giải pháp tăng cờng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT
từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội
4. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận án nghiên cứu việc tăng cờng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ
các Doanh nghiệp thực hiện luật thuế GTGT theo phơng pháp khấu trừ.
Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Vận dụng phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin, kết hợp với các phơng pháp tổng hợp, phân tích và phơng
pháp so sánh.
6. Những đóng góp của luận án
Luận án làm rõ ý nghĩa quan trọng của việc tăng cờng kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT, nêu lên thực trạng của hoạt động kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT đối với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội, đồng
thời nêu ra những giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động này
2
chơng i
lý luận chung về kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh
nghiệp.
1.1/ kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lý nhà
nớc.
Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là một trong những hoạt động quản
lý của Nhà nớc. Do vậy để hiểu đợc khái niệm về kiểm soát nguồn thu Thuế
GTGT, chúng ta phải xuất phát từ quản lý nói chung và quá trình quản lý của
Nhà nớc nói riêng.
1.1.1 - Những vấn đề chung về quản lý.
Một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hớng và tổ chức
thực hiện các mục tiêu đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt
hiệu quả cao nhất.
Quá trình quản lý bao gồm 4 giai đoạn cơ bản:
Thứ nhất: trên cơ sở dự báo về các nguồn lực hiện có và các nguồn lực
tiềm năng, ngời quản lý xác định các mục tiêu của quản lý. Đây là giai đoạn
định hớng.
Thứ hai: Xây dựng các chơng trình, các kế hoạch để đạt đợc mục tiêu
của quản lý. ở giai đoạn này, ngời quản lý phải đa ra các quyết định cụ thể
để tổ chức thực hiện với những công cụ, các biện pháp, các chính sách.v...v...
Thứ ba: Giai đoạn tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn này, cần kết hợp
các nguồn lực theo một phơng án tối u nhất, sử dụng các quyết định quản lý
một cách hiệu quả nhất nhằm đạt đợc kết quả tối u nh mục tiêu đã đặt ra.
Thứ t: là giai đoạn đánh giá kết quả hoạt động. Giai đoạn này rất quan
trọng vì các thông tin thu đợc sẽ cho biết các kết quả đạt đợc có thoả mãn các
mục tiêu của ngời quản lý hay không, từ đó ngời quản lý có thể có những
điều chỉnh cần thiết.
3
Trong suốt quá trình quản lý, kiểm tra luôn gắn kết với các giai đoạn
của quản lý. ở giai đoạn định hớng cần có những dự báo về nguồn lực và
mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục
tiêu, xây dựng các chơng trình, kế hoạch...Sau khi các chơng trình, kế hoạch
đã đợc kiểm tra có thể đa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. ở
giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phơng án tối u,
đồng thời thờng xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để
đIều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan
điểm tối u hoá kết quả hoạt động.
Nh vậy, kiểm tra không phải là một giai đoạn hay một pha của quản lý
mà nó đợc thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này. Bởi vậy, kiểm
tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên, chức năng này đợc thể hiện rất
khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt
động cụ thể, vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và trong từng thời kỳ
lịch sử cụ thể.
1.1.2 - Kiểm tra, kiểm soát- một chức năng của quản lý Nhà nớc.
Để hiểu đợc vai trò của kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý,
chúng ta cần đi từ khái niệm của kiểm tra, kiểm soát.
Trong quản lý, kiểm tra là công việc nhằm soát xét lại những quyết
định và quá trình thực thi những quyết định đó, nhng đợc giới hạn theo cấp
bậc quản lý (ví dụ kiểm tra của cấp trên đối với cấp dới). Kiểm tra thờng gắn
liền với xử lý, gọi là thanh tra.
Kiểm soát là công việc nhằm soát xét lại những quy định, những quá
trình thực thi các quyết định quản lý đợc thể hiện trên các nghiệp vụ
(những thao tác cụ thể) nhằm nắm bắt và đIều hành đợc những nghiệp vụ
đó.
Nhằm tham gia vào quá trình quản lý, kiểm tra kiểm soát phải tuân thủ
theo 3 bớc cơ bản:
4
Thứ nhất là xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dựa trên cơ sở của những
mục tiêu quản lý.
Thứ hai là đo lờng việc thực hiện theo những tiêu chuẩn đã đợc xây
dựng. ở bớc này ngời quản lý sẽ nhận đợc các thông tin về đối tợng quản lý.
Thứ ba là dựa trên những thông tin thu thập đợc ở bớc thứ hai, ngời
quản lý điều chỉnh các sai lệch trong việc thực hiện.
Nh vậy, kiểm tra kiểm soát gắn liền với hoạt động quản lý. ở đâu có
quản lý thì ở đó có kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra, kiểm soát không tự nhiên
tồn tại mà nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý và phục vụ quản lý.
Kiểm tra kiểm soát là cầu nối giữa thực tế sinh động và nhận thức chủ quan
của con ngời trong quá trình quản lý.
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung nhất
thờng là phân thành quản lý vĩ mô (của Nhà nớc ) và quản lý vi mô (của các
đơn vị cơ sở). Ngoài ra, trong nhiều trờng hợp giữa hai cấp quản lý cơ bản nói
trên còn có cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc,
vừa thực hiện chức năng quản lý của các đơn vị cơ sở.
Đối với quản lý vi mô, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi
đơn vị cơ sở đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu :
rà soát các tiềm lực, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối
chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông tin thực
hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi nguồn
lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc này là kiểm
soát nội bộ hay còn gọi là nội kiểm.
Trong khi đó, với cơng vị quản lý vĩ mô, Nhà nớc cũng thực hiện chức
năng kiểm tra của mình. Trong nền kinh tế, Nhà nớc có vai trò bảo đảm một
môi trờng kinh doanh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh hơn nữa, Nhà nớc còn giữ
vai trò định hớng sự phát triển của nền kinh tế thông qua việc điều tiết kinh tế
5
vĩ mô. Với những vai trò đó, đối tợng của quản lý Nhà nớc là rất rộng lớn, từ
các doanh nghiệp cho tới những lĩnh vực , những ngành nghề khác nhau và
trên nguyên tắc, tất cả các hoạt động kinh tế đều thuộc đối tợng quản lý của
Nhà nớc. Với đối tợng quản lý rất rộng, việc quản lý của Nhà nớc đòi hỏi
phải bám sát thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, nhng đồng thời phải bảo
đảm đúng định hớng, bảo đảm thực hiện các mục tiêu của Nhà nớc.
Mặt khác, Nhà nớc là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của
giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai
trị xã hội. Để duy trì sự hoạt động của mình, Nhà nớc cần có những nhu cầu
chi tiêu chung có tính chất xã hội. Do đó, Nhà nớc phải dùng quyền lực chính
trị vốn có để giành lấy một bộ phận của cải xã hội phục vụ cho các chức
năng, nhiệm vụ của mình. Đó là lý do tồn tại của nguồn thu NSNN. Về thực
chất, nguồn thu NSNN là sự phân phối của cải xã hội nhằm thực hiện chức
năng của tài chính. Do tính chất quan trọng của nguồn thu NSNN, Nhà nớc
phải thực hiện quản lý và thiết lập việc kiểm soát các nguồn thu này.
Do vậy, kiểm tra kiểm soát nói chung và kiểm soát nguồn thu NSNN
nói riêng là rất cần thiết và vô cùng quan trọng trong quản lý Nhà nớc. Trong
việc kiểm soát của Nhà nớc, các tiêu chuẩn kiểm soát là hệ thống các Luật và
các quy định dới Luật.
Nhà nớc thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp. ở cấp độ trực tiếp (thông thờng với t cách chủ sở hữu) Nhà nớc
kiểm tra các mục tiêu các chơng trình, kế hoạch hoạt động, kiểm tra các
nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các
doanh nghiệp Nhà nớc và bộ máy hành chính, kiểm tra tính trung thực của
các thông tin cũng nh tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ. ở cấp độ
gián tiếp, Nhà nớc có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các chuyên gia hoặc
các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua các chính sách
6
của mình, hoặc tham gia đầu t hoặc với t cách là các khách hàng của các tổ
chức kinh tế.
Việc kiểm tra, kiểm soát của Nhà nớc khác với kiểm tra, kiểm soát của
các doanh nghiệp do mục đích quản lý, đối tợng quản lý là hoàn toàn khác
nhau. Nếu nh đối với doanh nghiệp, mục tiêu của quản lý là tạo ra lợi nhuận
tối đa và một nền tảng bền vững để phát triển thì đối với Nhà nớc, mục tiêu
quản lý lại là ổn định nền kinh tế trên các lĩnh vực: sản xuất, thơng mại, tài
chính - tiền tệ , bảo đảm một môi trờng kinh doanh ổn định và thực hiện huy
động đủ nguồn thu NSNN. Đối tợng quản lý của quản lý Nhà nớc là các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trờng kinh doanh, các giá trị văn hoá,
môi trờng xã hội. Còn đối tợng quản lý của doanh nghiệp lại là những vấn đề
chi phí, thu nhập, cơ cấu các nguồn vốn sử dụng, quy trình tạo ra sản phẩm,
dịch vụ..v.v... Do vậy, quá trình kiểm tra kiểm soát đối với doanh nghiệp thì
ngoài việc kiểm tra trong nội bộ doanh nghiệp còn phải chịu sự kiểm tra,
kiểm soát này nhằm bảo đảm các quyết định quản lý kinh tế của Nhà nớc,
trong đó có chính sách huy động nguồn thu NSNN đợc thực hiện một cách có
hiệu quả.
Trên giác độ tài chính, cả kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và kiểm
soát của Nhà nớc đều hớng tới một đối tợng chung là hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
1.1.3 - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Phạm vi quản lý bao gồm tất cả các lĩnh vực chức năng khác nhau.
Tùy theo tính chất nghiệp vụ, sự chuyên môn hoá và sự phân quyền mà các
bộ phận chức năng có thể đợc thiết lập. Quá trình quản lý trong mỗi lĩnh vực
đều phải tuân thủ theo các bớc nh đã nêu ở trên nhng phải tập trung vào việc
thực hiện chức năng đã định một cách hiệu quả nhất. Để thực hiện mục tiêu
này, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát trên hai khu vực, đó là kiểm soát
quản lý và kiểm soát kế toán.
7
Theo các chuẩn mực đã hệ thống hoá của Hội đồng kế toán viên công
chứng Mỹ (AICPA), phần thực hành kiểm toán (32009) thì :
Kiểm soát quản lý (trong doanh nghiệp đợc cụ thể hoá là kiểm soát
quản trị - Administrative) bao gồm (nhng không hạn chế) kế hoạch tổ chức
và các trình tự, hồ sơ cần cho quá trình ra quyết định để cho phép tiến hành
các nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý gắn liền với trách nhiệm thực hiện các mục
tiêu của tổ chức và là điểm xuất phát để thiết lập kiểm soát kế toán.
Kiểm soát kế toán (Accounting Control) bao gồm kế hoạch tổ chức và
các trình tự, hồ sơ cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách
tài chính và do đó phải bảo đảm hợp lý rằng :
- Các nghiệp vụ đợc tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của
quản lý.
- Các nghiệp vụ đợc ghi sổ là cần thiết để : (1) Giúp chuẩn bị các báo
cáo tài chính đúng với nguyên tắc kế toán chung đợc thừa nhận hoặc các tiêu
chuẩn có thể áp dụng cho các báo cáo này; (2) Duy trì khả năng hạch toán
của tài sản.
- Chỉ khi đợc phép của nhà quản lý mới động đến tài sản.
- Tài sản đã ghi sổ phải đợc đối chiếu với tài sản thực có tại thời điểm
thích hợp và phải có sự điều chỉnh phù hợp khi có những chênh lệch.
Nh vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của
doanh nghiệp đợc phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm soát
quản lý yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tợng kiểm soát theo mục
tiêu quản lý của toàn bộ tổ chức. Tuy nhiên, kiểm soát kế toán lại có vai trò
là cơ sở cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là sự thông
tin mà còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế.
Từ đó, kiểm soát kế toán có thể hình thành phơng pháp tự kiểm soát : đối ứng
tài khoản không chỉ là phơng pháp phân loại, phản ánh sự vận động của tài
sản mà còn là phơng pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể, tổng hợp -
8
cân đối kế toán không chỉ cung cấp những thông tin tổng hợp mà còn là ph-
ơng pháp kiểm tra kết quả cân đối tổng quát trong thông tin kế toán. . .
Tuy vậy, thực trạng hoạt động tài chính và sự phản ánh nó trong kế
toán vẫn có những sự cách biệt do giới hạn của trình độ, phơng tiện thu thập
thông tin và những giới hạn cho phép về nghề nghiệp trong chính sách kế
toán với sự đa dạng, thờng xuyên của lợng thông tin phát ra từ hoạt động tài
chính. Do vậy, cần phải có kiểm tra ngoài kế toán mới có thể xác minh một
cách chính xác thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Từ những lý luận trên, có thể cụ thể hoá đối tợng của kiểm soát kế
toán trong hoạt động tài chính doanh nghiệp trên những vấn đề sau :
+ Thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, thực trạng hoạt động tài chính bao gồm 2
phần rõ rệt: một phần đợc phản ánh trong các tài liệu kế toán và phần còn lại
cha đợc phản ánh trong tài liệu kế toán. Đối với phần thực trạng đợc phản
ánh trong các tài liệu kế toán, việc kiểm soát đã có đầy đủ bằng chứng, đó là
các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập ra trên cơ sở các nghiệp vụ phát
sinh và các quy định của hệ thống Luật pháp về kế toán. Tuy vậy, đây chỉ là
phần nổi của các hoạt động tài chính. Hoạt động kiểm soát còn quan tâm đến
phần thực trạng hoạt động tài chính cha đợc phản ánh trong tài liệu kế toán.
Đó là khi các chứng từ kế toán không đủ độ tin cậy mà trên thực tế không
phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, hoặc các nghiệp vụ kinh tế cha đợc phản
ánh đầy đủ trên các chứng từ.
+Kiểm soát về tài liệu kế toán.
Thực trạng hoạt động tài chính là đối tợng chung của kiểm soát.
Trong nền kinh tế thị trờng hiện đại, khi các nghiệp vụ kế toán và tài chính
phát triển đến trình độ cao và hệ thống Luật pháp ngày càng trở nên chặt chẽ
thì yêu cầu chung đối với quản lý là tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
phải đợc phản ánh đầy đủ trên các tài liệu kế toán. Một mặt đây là sự lợng
9
hoá các nghiệp vụ kinh tế, mặt khác tài liệu kế toán còn thể hiện tính pháp lý
của hoạt động kinh tế.
Đối với các tài liệu kế toán, việc kiểm soát phải thực hiện theo các nội
dung sau:
- Kiểm tra tính hiện thực của các thông tin kế toán. Tính hiện thực của
thông tin trên các tài liệu kế toán thể hiện sự phản ánh một cách trung thực,
đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Kiểm tra tính hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập và luân
chuyển các tài liệu kế toán.
- Kiểm tra tính hợp lý của các đói tợng kế toán phù hợp với nội dung
của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Và cuối cùng, kiểm tra tính pháp lý trong việc thực hiện các quy
định, chuẩn mực và chế độ tài chính của doanh nghiệp.
Để tiến hành kiểm soát cần phải có những phơng pháp cụ thể , đó là
phơng pháp kiểm soát trên chứng từ và phơng pháp kiểm soát ngoài chứng từ.
Các phơng pháp kiểm soát trên chứng từ.
Các phơng pháp kiểm soát trên chứng từ dựa trên cơ sở các nguồn tài
liệu kế toán sẵn có của doanh nghiệp. Các phơng pháp này gồm có:
- Phơng pháp kiểm soát cân đối kế toán: là phơng pháp dựa trên các
cân đối kế toán và các cân đối khác để kiểm soát các quan hệ nội tại của các
yếu tố cấu thành nên quan hệ cân đối đó. Đó là cân đối giữa nguồn lực và kết
quả cân đối giữa số phát sinh nợ và số phát sinh của các tài khoản v.v...
- Phơng pháp đối chiếu trực tiếp: Là phơng pháp so sánh (về mặt lợng)
trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kế toán. Phơng pháp đối chiếu
trực tiếp thờng sử dụng trong các trờng hợp sau:
+ Đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ về chỉ tiêu
doanh thu, chi phí, thu nhập để phát hiện sự biến động bất thờng trong các
chỉ tiêu đó.
10
+ Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành
chỉ tiêu đó. Chẳng hạn đối chiếu số lợng, đơn giá với số tiền trong các chứng
từ gốc, đối chiếu thu nhập, chi phí với kết quả kinh doanh.
Tuy vậy, phơng pháp này chỉ đợc sử dụng trong trờng hợp các chỉ tiêu
đợc hạch toán theo cùng một nội dung, cùng phơng pháp, cùng đơn vị , trong
cùng một khoảng thời gian điều kiện tơng tự nhau.
- Phơng pháp đối chiếu logic: Là phơng pháp xem xét mức biến động
tơng ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song nó có thể
có mức biến động khác nhau theo những chiều hớng khác nhau (ví dụ giữa
hàng tồn kho với tiền mặt, tiền gửi và các khoản phải thu).
Các phơng pháp kiểm soát ngoài chứng từ
- Phơng pháp kiểm kê: Là phơng pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản.
Phơng pháp này giúp việc kiểm soát phát hiện sự sai lệch giữa thực trạng tài
sản và việc phản ánh trên các chứng từ kế toán.
- Phơng pháp thực nghiệm: Là phơng pháp diễn lại hoặc nghiên cứu,
phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn
ra và cần xác minh lại.
- Phơng pháp điều tra: Đây là phơng pháp xác định lại một tài liệu,
hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận trong quá trình
kiểm soát.
Tóm lại, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp chính là thực hiện
việc kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính. Nó có vai trò rất quan trọng
trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp và của Nhà nớc. Do có đối tợng, có
phơng pháp cụ thể, kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính đã đáp ứng đợc
các nhu cầu của quản lý và là một chức năng quan trọng của quản lý. Trong
phạm vi của đề tài, tác giả sẽ đi sâu vào một hoạt động kiểm tra kế toán trong
hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là kiểm soát nguồn thu thuế GTGT.
1.2/ Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh
nghiệp.
11
1.2.1 - Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT.
Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lu thông đến tiêu dùng.
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế đối
với hàng hoá, dịch vụ là giá bán cha có thuế GTGT (gồm cả khoản phụ thu và
phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh đợc hởng).
Có hai phơng pháp tính thuế GTGT:
+ Phơng pháp khấu trừ thuế.
+ Phơng pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Trong luận văn này chúng ta chỉ đi vào xem xét phơng pháp thứ nhất:
phơng pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp.
Phơng pháp khấu trừ thuế đợc áp dụng cho các cơ sở kinh doanh đã
thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các
quy định của chế độ hoá đơn, chứng từ bao gồm: các doanh nghiệp Nhà nớc,
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, doanh nghiệp t nhân, các Công ty cổ
phần, hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác.
Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế theo phơng pháp khấu trừ thuế phải
sử dụng hoá đơn GTGT (trừ trờng hợp đợc dùng chứng từ ghi giá thanh toán
đã có thuế GTGT). Trên hoá đơn GTGT phải ghi rõ: giá bán (cha có thuế
GTGT), các khoản phụ thu, thuế GTGT và tổng số tiền phải thanh toán.
Thuế GTGT phải nộp là số chênh lệch giữa số thuế GTGT đầu ra với số
thuế GTGT đầu vào. Công thức tính nh sau:
Thuế GTGT
phải nộp
= Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó, thuế GTGT đầu ra là số thuế tính trên tổng giá bán (cha bao
gồm thuế GTGT) hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ. Thuế GTGT đầu ra đợc
tính theo công thức sau:
12
Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế x Thuế suất
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tợng tính thuế theo phơng pháp khấu trừ
thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hoá,
dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải
ghi rõ giá bán cha bao gồm thuế GTGT, thuế GTGT, tổng giá thanh toán. Tr-
ờng hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi rõ giá cha có thuế GTGT
và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá
thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ.
Thuế GTGT đầu vào là số thuế GTGT đợc ghi trên hoá đơn GTGT khi
mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá, dịch
vụ nhập khẩu.
Đối với quản lý Nhà nớc, mục tiêu của việc áp dụng thuế GTGT là :
- Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lu thông hàng hoá,
đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế GTGT khắc phục đợc việc thu trùng lắp của thuế
doanh thu, thuế GTGT không thu trên vốn đầu t, do đó khuyến khích sản
xuất kinh doanh và đầu t. Đối với hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp không
phải nộp thuế GTGT, mặt khác lại đợc hoàn thuế GTGT đầu vào nên có điều
kiện hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
- Bảo đảm động viên số thu quan trọng và tơng đối ổn định cho NSNN.
- Tăng cờng công tác hạch toán kế toán và khuyến khích việc mua bán
hàng hoá có hoá đơn, chứng từ.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế và đẩy nhanh tiến trình hội nhập với các
nớc trong khu vực và trên thế giới
1.2.2 - Vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT.
1.2.2.1- Vai trò của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT
Nguồn thu NSNN là nguồn tài chính nuôi sống sự hoạt động của bộ
máy Nhà nớc. Hơn nữa nguồn thu NSNN còn quyết định mức chi NSNN, do
đó ảnh hởng đến sự tăng trởng và phát triển của nền kinh tế. Từ đó có thể
13
thấy rằng việc quản lý Nhà nớc phải đặt việc quản lý nguồn thu NSNN, trong
đó có nguồn thu thuế GTGT là một trong những mục tiêu quan trọng nhất.
Mà nh chúng ta đã biết, việc quản lý luôn luôn tồn tại cùng với việc kiểm tra,
kiểm soát. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT đóng vai trò rất quan
trọng trong quản lý Nhà nớc về kinh tế.
Có thể thấy vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT trên những
khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT có vai trò quan trọng
trong việc động viên nguồn thu thờng xuyên, ổn định cho NSNN vì nguồn
thu từ thuế GTGT chiếm tỷ trọng tơng đối lớn trong tổng nguồn thu NSNN
( Tù 20 đến 30%). ở mỗi quốc gia, trong chính sách vĩ mô luôn có một chiến
lợc phát triển nguồn thu Thuế GTGT. Tuy nhiên, khi các mục tiêu đợc đặt ra
và mặc dù đã có một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh thì các doanh
nghiệp, các tổ chức và cá nhân vẫn có thể không thực hiện đóng góp nghĩa vụ
tài chính cho Nhà nớc. Bản thân Nhà nớc cũng không chắc chắn các mục tiêu
kinh tế vĩ mô có thực hiện đợc không. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế
GTGT là vô cùng quan trọng. Nó giúp cho Nhà nớc nhận diện đầy đủ các đối
tợng nộp thuế và các khoản thu khác, đồng thời đem lại những thông tin về
thuế suất cũng nh mức đóng góp có phù hợp với thực trạng kinh doanh của
các doanh nghiệp hay không, để từ đó Nhà nớc có những điều chỉnh kịp thời
nhằm động viên một cách đầy đủ các nguồn thu vào NSNN.
Thứ hai, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT có vai trò quan trọng trong
thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nớc, giúp Nhà nớc can thiệp
có hiệu quả vào đời sống kinh tế - xã hội của đất nớc. Có thể thấy tác dụng
điều tiết kinh tế vĩ mô đợc thể hiện rõ nét nhất qua chính sách thuế GTGT.
Chính sách thuế GTGT có ảnh hởng tới giá cả nguyên vật liệu đầu vào, từ đó
tác động tới giá thành sản xuất. Chính sách thuế GTGT lại có thể ảnh hởng
đến giá bán đầu ra, quyết định đến sự chấp nhận của ngời tiêu dùng đối với
hàng hoá. Tóm lại, thông qua thuế suất và đối tợng đánh thuế, đối tợng nộp
14
thuế, Nhà nớc có thể tác động một cách mạnh mẽ vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy vậy sự can thiệp của Nhà nớc chỉ thực
sự có hiệu quả khi thực hiện tốt kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. Bởi ở góc
độ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các mục tiêu của Nhà nớc và lợi ích của từng
doanh nghiệp không phải bao giờ cũng thống nhất. Trong khi đó, Nhà nớc
với t cách đại diện cho ý chí toàn bộ xã hội luôn phải đợc đặt lên vị trí hàng
đầu.
Thứ ba, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT tạo điều kiện hình thành
thói quen tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp, các cá nhân trong hoạt
động kinh tế - xã hội. Đối với các doanh nghiệp, chính sách thuế GTGT của
Nhà nớc luôn là mối quan tâm sâu sắc nhất. Nền kinh tế thị trờng có thể phát
huy mọi tiềm năng, giải phóng sức sản xuất nhng cũng tạo ra những tiêu cực
nh trốn, lậu thuế,... Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT nếu đợc thực hiện tốt
sẽ buộc các doanh nghiệp, các cá nhân tuân thủ Luật thuế, từ đó tạo ra thói
quen tự giác chấp hành pháp luật của nhà nớc trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
Cuối cùng, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT góp phần tạo ra một môi
trờng kinh doanh ổn định, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong các hoạt
động kinh tế. Trên góc độ quản lý Nhà nớc, tất cả các doanh nghiệp phải bình
đẳng và có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ việc nộp thuế và các nguồn thu khác
cho NSNN. Tuy nhiên thực tế các doanh nghiệp có thể thực hiện rất khác
nhau về nghĩa vụ đóng góp, có doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh, song
cũng có doanh nghiệp không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ các
nghĩa vụ nộp thuế. Điều đó dẫn tới sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp. Trên nguyên tắc, Nhà nớc có vai trò là ngời trọng tài, không đ-
ợc thiên vị. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT khi đợc thực hiện đầy
đủ tới mọi đối tợng nộp thuế sẽ tạo ra sự công bằng bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh giữa các doanh nghiệp.
15
Tóm lại, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là sự cần thiết khách quan
trong quản lý Nhà nớc. Thực hiện kiểm soát đợc các nguồn thu Thuế GTGT
vào NSNN đồng nghĩa với việc góp phần thực hiện thành công chính sách tài
chính, đồng thời Nhà nớc nâng cao tính pháp chế, tính quyền lực của mình
trong các hoạt động kinh tế. Mặc dù vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT
khi không đợc thực hiện tốt có thể đa đến những tác hại khôn lờng, gây thiệt
hại về kinh tế và tạo ra thói quen bỏ qua Luật pháp, lách Luật của các chủ thể
trong nền kinh tế.
1.2.2.2 - Những mục tiêu cơ bản của kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT:
Thứ nhất, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải
tập trung, huy động đầy đủ số thu cho NSNN. Đây là mục tiêu chủ yếu vì với
mục tiêu này, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT mới thể hiện đầy đủ vai trò
của nó trong việc quản lý nguồn thu NSNN từ các doanh nghiệp.
Thứ hai, tăng cờng ý thức nghiêm chỉnh chấp hành Luật thuế và nâng
cao ý thức pháp luật nói chung cho các doanh nghiệp. Mục tiêu này có tính
chất thờng xuyên, lâu dài và tác động tới ý thức, t tởng của các doanh nghiệp.
Để thực hiện đợc mục tiêu này thì Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải tuân
thủ một cách nghiêm chỉnh các quy định của quá trình kiểm tra, kiểm soát.
Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải
phát huy tốt nhất vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế. Đây không chỉ là
mục tiêu chung của chính sách thuế mà còn là mục tiêu cụ thể của Kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Bởi vì chất lợng của Kiểm soát
nguồn thu thuế GTGT tốt thì vai trò thực sự của thuế GTGT mới đợc phát
huy có hiệu quả trong nền kinh tế.
Để đạt đợc các mục tiêu trên, yêu cầu đặt ra với Kiểm soát nguồn thu
thuế GTGT từ các doanh nghiệp là:
Thứ nhất, phải chấp hành và thực hiện đúng Luật Thuế GTGT và pháp
luật có liên quan. Trong việc Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh
16
nghiệp, hệ thống Luật pháp vừa là căn cứ để thực hiện kiểm tra, đối chiếu,
vừa là công cụ trong việc điều chỉnh, xử lý vi phạm của các Doanh nghiệp .
Do vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bám sát vào các quy định
pháp luật và phải thực hiện đúng theo các quy định đó.
Thứ hai, phải tuân thủ quy trình quản lý thu thuế. Việc quản lý nguồn
thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp luôn đợc thực hiện theo quy trình cụ thể.
Kiểm soát là một chức năng của quản lý và tham gia vào tất cả các giai đoạn
của quản lý. Do đó kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh nghiệp
phải tuân thủ theo quy trình quản lý thu thuế.
Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bao quát hết tất cả các
nghiệp vụ phát sinh từ doanh nghiệp. Cụ thể là bao quát về số lợng các
Doanh nghiệp, các loại hoạt động, số Doanh nghiệp trong diện điều tiết của
thuế GTGT.
Thứ t, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bảo đảm tính công bằng
cho các Doanh nghiệp. Chúng ta đều hiểu rằng việc kiểm soát về thuế và các
nguồn thu đối với Doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc của pháp luật. Tuy vậy,
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không phải vì vậy mà kiểm soát chặt chẽ
Doanh nghiệp này, buông lỏng với Doanh nghiệp khác làm mất tính công
bằng của môi trờng pháp luật.
1.2.3 - Nội dung của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh
nghiệp.
Việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thực chất là kiểm tra kế toán
trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp dựa trên quy trình quản lý thu
thuế. Do đó, trớc hết chúng ta phải xuất phát từ quy trình quản lý thu thuế.
1.2.3.1. Quy trình quản lý nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh
nghiệp.
Quy trình quản lý thu thuế GTGT của Doanh nghiệp đợc tiến hành
theo những bớc cơ bản sau:
* Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
17
Hàng năm trên cơ sở khai đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp,
Cơ quan Thuế tiến hành cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp. Việc quản lý
đối tợng nộp thuế đợc thực hiện trên cơ sở mạng máy vi tính thống nhất trong
cả nớc. Mỗi doanh nghiệp đợc gắn một mã số duy nhất. Tất cả các thông tin
về doanh nghiệp nh ngành nghề kinh doanh, tính chất và quy mô kinh doanh,
địa chỉ, trụ sở... đợc lu vào máy tính với file dữ liệu riêng biệt. Khi cần kiểm
tra một doanh nghiệp nào đó thì chỉ cần mở file theo mã số của doanh
nghiệp.
Đây là phơng thức hiện đại đợc áp dụng ở nhiều nớc trên thế giới. Nó
cho phép Cơ quan Thuế tiết kiệm đợc thời gian, công sức trong công tác quản
lý thuế mà vẫn bảo đảm tính chính xác ngay cả trong điều kiện số lợng các
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hàng năm tăng rất nhanh. Phơng thức này
còn giúp Cơ quan Thuế dễ dàng phát hiện ra những gian lận trong công tác
thu nộp thuế, đặc biệt là thuế GTGT.
* Tính thuế và kê khai thuế
Hiện nay ở nớc ta việc tính thuế và kê khai thuế do các doanh nghiệp
tự giác thực hiện, có sự kiểm tra, thanh tra của Cơ quan Thuế. Trên cơ sở các
quy định cụ thể của Luật thuế và các văn bản hớng dẫn thi hành, doanh
nghiệp tự áp thuế suất và tự tính doanh thu, thu nhập chịu thuế, từ đó lập ra tờ
khai thuế phải nộp. Cơ quan Thuế quy định cụ thể các chỉ tiêu trong nội dung
của tờ khai tơng ứng với loại thuế. Đối với mỗi loại thuế cũng quy định cụ
thể kỳ tính thuế, thời hạn lập tờ khai thuế. Đến thời hạn quy định, doanh
nghiệp phải nộp tờ khai cho Cơ quan Thuế.
* Xử lý miễn thuế, giảm thuế và tạm giảm thuế
Đối với các doanh nghiệp thuộc đối tợng đợc miễn, giảm, tạm giảm
thuế theo Luật thuế, Cơ quan Thuế thực hiện miễn, giảm, tạm giảm thuế cho
doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã lập đủ hồ sơ và gửi cho Cơ quan Thuế.
Quyết định miễn, giảm, tạm giảm thuế phải có đầy đủ nội dung nh thuế suất
đợc giảm, tạm giảm, thời hạn miễn, giảm, tạm giảm thuế
18
* Tổ chức thu nộp tiền thuế
Trên cơ sở tờ khai đã lập ra, doanh nghiệp phải tự giức nộp thuế vào
Kho bạc Nhà nớc hoặc ngân hàng. Đối với khâu này, Cơ quan Thuế phối hợp
chặt chẽ, thờng xuyên với Kho bạc, ngân hàng trong đó đặt ra quy chế cho
việc luân chuyển chứng từ, sau khi thu thuế giữa ba cơ quan này. Để tăng
hiệu lực của việc nộp thuế, Cơ quan Thuế cũng đa ra biện pháp khá mạnh mẽ
về kinh tế và hành chính xử lý vi phạm trong trờng hợp doanh nghiệp chậm
nộp tiền thuế. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải chịu phạt 0,1% trên số tiền thuế
chậm nộp trong 1 ngày.
* Hoàn thuế, quyết toán thuế
Việc hoàn thuế đợc thực hiện với thuế GTGT, doanh nghiệp lập hồ sơ
hoàn thuế theo quy định của Luật thuế gửi kèm với các hoá đơn chứng từ đến
Cơ quan Thuế. Cơ quan Thuế sẽ kiểm tra hồ sơ hoàn thuế và thực hiện hoàn
thuế cho doanh nghiệp.
Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dơng lịch, doanh
nghiệp phải lập và gửi quyết toán thuế cho Cơ quan Thuế. Quyết toán thuế
phải có đầy đủ nội dung về số thuế phải nộp, số thuế đợc hoàn trả, số thuế đã
nộp, số thuế đợc khấu trừ trong kỳ tới v.v....
Cơ quan Thuế kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của quyết toán thuế và
quyết định số thuế đợc khấu trừ, số thuế còn phải nộp cho doanh nghiệp.
* Thanh tra thuế
Thanh tra thuế là một trong những nội dung quan trọng của quá trình
kiểm soát nguồn thu thuế. Thanh tra thuế đợc tiến hành sau những bớc cơ
bản trong quá trình thu thuế từ doanh nghiệp nh đã trình bày ở trên. Thực
chất thanh tra thuế là kiểm tra việc nộp thuế của doanh nghiệp và kèm theo
việc xử lý vi phạm. Mục đích của thanh tra thuế là:
- Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trờng hợp vi phạm
Luật thuế nh khai man thuế, nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế, hạn chế
mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nớc.
19
- Bảo đảm nâng cao ý thức chấp hành Luật thuế cho các doanh nghiệp
và cho ngời thi hành công vụ trong ngành Thuế.
- Phát hiện những nội dung không phù hợp của Luật thuế với thực tiễn
đời sống kinh tế, xã hội của đất nớc, các vấn đề nghiệp vụ trong công tác thu
thuế, những điều không hợp lý của công tác tổ chức hệ thống bộ máy kiểm
tra thuế, đề từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời
nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát thuế một cách chặt chẽ.
Nội dung của thanh tra thuế:
Công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp tập trung vào những vấn
đề cơ bản sau:
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký, kê khai nộp
thuế mà cụ thể là:
+ Kê khai về địa điểm, tính chất hành nghề, mặt hàng kinh doanh.
+ Kê khai tình hình vốn và tài sản, doanh thu, chi phí và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Kê khai việc sử dụng hình thức sổ sách kế toán, phơng pháp hạch
toán.
+ Kê khai về tài khoản giao dịch.
- Thanh tra việc chấp hành thống kê - kế toán, hoá đơn, chứng từ theo
pháp luật hiện hành.
- Thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nớc.
Với những quốc gia thực hiện quy trình quản lý thu thuế trên cơ sở tự
nguyện, tự giác của các doanh nghiệp thì thanh tra thuế đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong kiểm soát nguồn thu từ thuế. Có thể nói rằng công tác thanh
tra thuế là một hoạt động rất đặc trng của công tác kiểm soát nguồn thu
ngân sách Nhà nớc từ các doanh nghiệp.
1.2.3.2 Tổ chức bộ máy kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ doanh
nghiệp
20
Gắn liền với quy trình quản lý thu thuế là việc tổ chức một bộ máy
chuyên trách thực hiện kiểm soát nguồn thu thuế GTGT mà chủ yếu là bộ
máy ngành Thuế. Bên cạnh đó, do việc thu thuế đợc thực hiện trên nhiều mặt
hàng khác nhau, nhiều đối tợng khác nhau nên có liên quan đến nhiều bộ,
ngành khác nhau. Đó là các cơ quan sau:
- Bộ chủ quản của doanh nghiệp.
- Cơ quan Hải quan (liên quan đến việc thu thuế đối với hàng hoá nhập
khẩu)
- Kho bạc và ngân hàng: là những cơ quan trực tiếp thu nộp tiền thuế
của doanh nghiệp.
Để kiểm soát các nguồn thu thuế GTGT một cách chặt chẽ, các cơ
quan trên phải có sự phối hợp đồng bộ với ngành thuế theo chức năng nhiệm
vụ và quyền hạn của mình, tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho các doanh
nghiệp. Riêng đối với bộ máy ngành thuế phải đợc tổ chức gọn nhẹ phải bao
quát hết các đối tợng nộp thuế cũng nh các nguồn thu khác nhau từ doanh
nghiệp. Để thực hiện đợc yêu cầu này, Nhà nớc cần phải có một hệ thống
pháp luật về thuế có hiệu lực, dễ thực hiện và Nhà nớc cần đầu t cơ sở vật
chất hiện đại, nhất là công nghệ thông tin.
Hiện nay ở nớc ta, bộ máy quản lý thu thuế đợc tổ chức theo mô hình
sau:
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp quốc doanh.
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu nớc ngoài.
- Bộ phận tính thuế và thông báo thuế.
1.2.3.3- Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thông qua kiểm tra thực
trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT quan tâm đến doanh thu bán hàng
(liên quan đến thuế đầu ra) và chi phí mua hàng (liên quan đến thuế đầu vào).
Đối với doanh thu và chi phí, phải kiểm soát cả thực trạng hoạt động tài
21
chính và kiểm soát tài liêụ kế toán của doanh nghiệp. Đối với thực trạng hoạt
động tài chính, việc kiểm soát tập trung vào việc phản ánh các giao dịch mua,
bán trên các tài liệu kế toán , chủ yếu là các hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch
vụ. Quan tâm một cách đầy dủ đến thực trạng hoạt động tài chính của các
doanh nghiệp, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không những phát hiện các
hiện tợng trốn thuế (không phản ánh vào tài liệu kế toán), những nhầm lẫn,
những sai phạm không cố ý của Doanh nghiệp trong việc phản ánh doanh
thu, lãi, lỗ và số thuế phải nộp, để thực hiện thu đúng, thu đủ mà còn cung
cấp thông tin cho việc quản lý nguồn thu ngân sách nhà nớc để từ đó Nhà nớc
có chính sách thực tế hơn trong việc nuôi dỡng, phát triển các nguồn thu,
tránh tình trạng các doanh nghiệp phải gánh chịu những khoản thuế nặng nề
ảnh hởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong việc kiểm soát tài liệu kế toán, các tài liệu cần thiết đối với kiểm
soát nguồn thu Thuế GTGT là:
- Các tài liệu hoạch toán ban đầu, hay còn gọi là chứng từ gốc. Đó là
các hoá đơn mua bán hàng hoá, dịch vụ.
- Các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ kế toán.
- Các sổ tổng hợp và chi tiết kế toán.
- Các bảng cân đối, tổng hợp kế toán.
- Các biên bản xử lý, thanh lý tài sản, vốn, vật t, hàng hoá v.v...
Trong việc kiểm soát thu thuế đối với doanh nghiệp, các tài liệu kế
toán đóng vai trò rất quan trọng. Đối với thuế GTGT, các chứng từ hạch toán
ban đầu là quan trọng nhất vì nó chỉ ra số thuế doanh nghiệp phải nộp cũng
nh số thuế đợc khấu trừ. Do vậy, nội dung việc kiểm tra tập trung vào tính
hiện thực của tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm tra tính hợp pháp của các
biểu mẫu, trình tự lập và luân chuyển chứng từ, kiểm tra tính hợp lý của các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh sẽ cho biết chất lợng của công tác kế toán và việc
chấp hành các quy định, thể lệ của pháp luật về kế toán tài chính. Việc vi
22
phạm hai nội dung này sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát việc
tính thuế, kê khai của doanh nghiệp.
Các phơng pháp kiểm soát nguồn thu thuế GTGT.
Với những đối tợng kiểm soát khá rộng, việc kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT có nhiều phơng pháp khác nhau, trong đó sử dụng cả hai phơng pháp
là phơng pháp kiểm soát trên chứng từ và phơng pháp kiểm soát ngoài chứng
từ.
Đối với các phơng pháp kiểm soát chứng từ, phơng pháp cân đối rất
hay đợc sử dụng trong kiểm tra tính thuế và kê khai thuế của các doanh
nghiệp khi kiểm tra doanh thu, thu nhập và tính toán kết quả kinh doanh. Ph-
ơng pháp đối chiếu trực tiếp đợc sử dụng tơng đối phổ biến trong kiểm tra
chứng từ để tính thuế, để đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa
các kỳ về các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, thuế phải nộp để phát hiện sự biến
động bất thờng trong các chỉ tiêu đó. Phơng pháp đối chiếu logic cũng đợc sử
dụng để phát hiện những mâu thuẫn trong việc tính thuế, kê khai thuế của
doanh nghiệp.
Bên cạnh phơng pháp kiểm soát chứng từ, kiểm soát nguồn thu thuế
GTGT còn sử dụng các phơng pháp kiểm soát ngoài chứng từ. Phơng pháp
kiểm kê đợc sử dụng để phát hiện các chứng từ khống, hoặc doanh thu bán
hàng cha lập chứng từ, hoá đơn đầy đủ. Do vậy, nó đợc sử dụng trong việc
kiểm soát kê khai thuế GTGT của doanh nghiệp. Ngoài ra, phơng pháp điều
tra cũng đợc sử dụng khi có những biểu hiện bất thờng của các chỉ tiêu kê
khai thuế của doanh nghiệp, hoặc khi có các đơn từ tố cáo.
Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, chúng ta
có thể sử dụng nhiều phơng pháp khác nhau và trong quá trình kiểm tra,
kiểm soát cần vận dụng kết hợp giữa các phơng pháp một cách linh hoạt.
1.3/ Những nhân tố ảnh hởng đến kiểm soát thuế GTGT
từ các doanh nghiệp.
23
Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là một hoạt
động quản lý Nhà nớc về kinh tế. Do vậy, nó mang ý nghĩa áp đặt t tởng, ý
chí của giai cấp thống trị mà đại diện là nhà nớc. Ngợc lại, doanh nghiệp lại
có những mục tiêu hoạt động riêng, đó là lợi nhuận, sự an toàn để tồn tại và
phát triển.
Giải quyết mâu thuẫn giữa những mục tiêu khác nhau đó là một nội
dung vô cùng quan trọng của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Để đạt đợc
mục tiêu đã đặt ra, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải đợc thực hiện trong
những điều kiện nhất định.
1.3.1 - Tác động của ý thức xã hội đối với việc chấp hành Luật pháp
Nhà nớc.
ý thức xã hội là một điều kiện rất quan trọng đối với việc thực thi pháp
luật nói chung và với kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà nớc nói riêng.
Trong một xã hội có nhiều hiện tợng tiêu cực, pháp luật không có hiệu lực thì
việc chấp hành các Luật thuế của Nhà nớc không thể đầy đủ và nghiêm túc.
Ngợc lại, khi công chúng tự giác chấp hành pháp luật thì các doanh nghiệp sẽ
có ý thức hơn khi đóng góp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác cho Nhà nớc.
ý thức xã hội có tác động mạnh nhất đến t tởng cán bộ công vụ thực hiện
kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, đó chính là yếu tố
con ngời. Trong đó kiểm soát thu thuế là vấn đề rất nhạy cảm và không thể
có vấn đề tuyệt đối hoá vấn đề con ngời trong công vụ ngay cả ở những nớc
phát triển. Để khắc phục hiện tợng này, chỉ có tính chặt chẽ của hệ thống
Luật pháp, một quy trình quản lý thu thuế hiện đại và sự tiến bộ trong công
nghệ thông tin mới có thể giải quyết đợc.
1.3.2 - Tác động của hệ thống Luật pháp
Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, tính chặt
chẽ, hợp lý của hệ thống Luật pháp có vai trò vô cùng quan trọng. Một hệ
thống Luật lý tởng là một hệ thống Luật bao quát mọi vấn đề, mọi quan hệ
24
kinh tế phát sinh trong nền kinh tế, thực hiện các quy Luật kinh tế và bảo
đảm để thực hiện. Nếu không đáp ứng các yêu cầu trên sẽ gây khó khăn cho
các doanh nghiệp và cho cả ngời thực hiện công vụ. Chính vì vậy, không
những thực thi Luật pháp mà kiểm soát nguồn thu thuế GTGT còn phải cung
cấp thông tin về thực trạng các doanh nghiệp để Nhà nớc hoàn thiện hơn nữa
hệ thống Luật thuế.
1.3.3 - ảnh hởng của hệ thống kiểm toán nội bộ
Theo khái niệm về kiểm toán nội bộ trong cuốn Kiểm toán nội bộ
hiện đại của V. Brink và H.Witt thì :
Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập đợc thiết lập
bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức
đó, với t cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó.
Trong doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm xem
xét lại một cách định kỳ các biện pháp mà Ban giám đốc và các cơ quan quản
lý Nhà nớc áp dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp. Các mục tiêu
chính của kiểm toán nội bộ trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm tra các
thủ tục có đủ độ an toàn và các thông tin có trung thực, tin cậy hay không,
các nghiệp vụ có hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu có rõ ràng
và thích hợp với hoạt động kinh doanh, với chế độ kế toán hay không. Kiểm
toán nội bộ có ba chức năng: kiểm tra, xác nhận và đánh giá. Phạm vi kiểm
tra, xác nhận và đánh giá của kiểm toán nội bộ bao gồm:
- Độ tin cậy của thông tin tài chính kế toán do kế toán tổng hợp, xử lý
và trình bày.
- Tính tuân thủ Luật pháp và các quy chế, các quy định của Nhà nớc,
các quy định của bản thân doanh nghiệp.
- Tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp.
- Tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các nguồn
lực, lựa chọn các phơng án, các quyết định kinh tế.
25