Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Lý luận về vi phạm pháp luật và cho ví dụ về từng loại vi phạm pháp luật và phân tích.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.12 KB, 13 trang )

Lý luận về vi phạm pháp luật (khái niệm, dấu
hiệu, các loại), cho ví dụ về từng loại vi phạm
pháp luật và phân tích.
Mục lục: Lý luận về vi phạm pháp luận
1; Khái niệm vi phạm pháp luật
2 ; Dấu hiệu cơ bản của vi phạm phấp luật
3; Cấu thành vi phạm pháp luật
3.1; Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
3.2; Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
3.2.1: Lỗi
3.2.2 Động cơ vi phạm pháp luật
3.2.3 Mục đích của vi phạm pháp luật
3.3; chủ thể của vi phạm pháp luật
3.4; khách thể của vi phạm pháp luật
4; các loại vi phạm pháp luật
4.1; vi phạm hình sư
4.2 vi phạm hành chính
4.3 vi phạm dân sự
4.4 vi phạm kỷ luật
5; ví dụ về từng loại vi phạm pháp luật và phân tích.

5.1 hành vi vi phạm hình sự
5.1.1 tình huống
5.1.2 cấu thành vi phạm pháp luật


5.2 hành vi vi phạm hành chính
5.2.1 tình huống
5.2.2 cấu thành vi phạm pháp luật
5.3 hành vi vi phạm dân sự
5.3.1 tình huống


5.3.2 cấu thành vi phạm pháp luật
5.4 hành vi vi phạm kỉ luật
5.4.1 tình huống
5.4.2 cấu thành vi phạm pháp luật

Mở đầu
Trong xã hội ta, pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân, nên các quy định của pháp luật được đông đảo nhân dân tôn trọng và
tự giác thực hiện nghiêm minh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong xã hội vẫn còn nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi
ích vật chất và tinh thần của nhà nước, của xã hội và của nhân dân. Đó là một
hiện tượng nguy hiểm, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do
vậy. việc nghiên cứu về các vấn đền vi phạm pháp luật, đặc biệt là cấu thành vi
phạm pháp luật sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc góp phần đề ra những biện pháp
hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật trong xã hội. Tuy
nhiên, dấu hiệu của vi phạm pháp luật là gì?, bao gồm những loại vi phạm pháp
luật nào? Ta sẽ cho ví dụ về từng loại vi phạm pháp luật và phân tích để làm rõ
vấn đề này.

Nội dung
1; Khái niệm vi phạm pháp luật
( chép sách ) 1 mặt

2 ; Dấu hiệu cơ bản của vi phạm phấp luật ( chép sách)
Một hiện tương xã hội được coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản
sau:
– Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người


Hành vi thực tế của con người có thể được thể hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ

nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó.
Pháp luật đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người nhằm xác lập và duy trì trật
tự xã hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể hiện quan điểm của
mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một hành vi cụ thể nào đó. Do vậy
phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật
hay khơng.
– Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật
Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là
hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành vi vượt quá sự
cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt buộc của pháp luật hay
hành vi thực hiện không đúng cách thức mà pháp luật yêu cầu.
– Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ đạt đến độ tuổi do
pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách
nhiệm pháp lý khác nhau. Khả năng nhận thức ở đây được hiểu là, chủ thể hiểu rõ
hành vi của mình là đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội. Khả năng điều khiển
được hiểu là, trên cơ sở của nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm
thực hiện hành vi mà họ cho là phù hợp với chuẩn mực xã hội, kiềm chế không
thực hiện hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích xã hội.
– Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả
của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể trong khi có đủ điều
kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một cách xử sự khác phù hợp với các
quy định của pháp luật.

3; Cấu thành vi phạm pháp luật
Cấu thành của vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của mộtvi phạm
pháp luật cụ thể. Mỗi vi phạm pháp luật sẽ có cấu thành riêng , song trong cấu
thành của mọi vi phạm pháp luật đều có bốn yếu tố là mặt khách quan, mặt chủ

quan,chủ thể và khách thể.
3.1; Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những biểu hiện ra bên ngoài thế
giới khách quan, bao gồm các hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi đó và


những yếu tố như thời gian, địa điểm, cách thức, thủ đoạn, công cụ, phương tiện vi
phạm pháp luật...
Hành vi trái pháp luật có thể thể hiện dưới dạng những hành động như đâm, chém
người, trộm cắp tài sản, đi vào đường cấm, lạm quyền khi thi hành công vụ; có thể
được thể hiện dưới dạng khơng hành động như không tố giác tội phạm, trốn tránh
thực hiện nghĩa vụ quân sự...
Hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi hái pháp luật, đó là những thiệt hại xảy ra
cho xã hội. Bất cứ vi phạm pháp luật nào cũng có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra
những hậu quả nhất định. Hậu quả của vi phạm pháp luật được biểu hiện qua sự
biến đổi tình trạng bình thường của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Hậu quả của vi
phạm pháp luật có thể là những thiệt hại cụ thể, có thể định lượng được như thiệt
hại về của cải vật chất, về tính mạng, sức khỏe của con người. Nó cũng có thể là
những thiệt hại trừu tượng khó có thể lượng hố một cách chính xác như thiệt hại
về tinh thần của con người, tình trạng nguy hiểm cho đời sống... Hậu quả của vi
phạm là cơ sở quan trọng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm
pháp luật.
Thời gian xảy ra vi phạm là thời điểm hoặc khoảng thời gian vi phạm pháp luật
được thực hiện. Công cụ, phương tiện vi phạm pháp luật được hiểu là cái mà chủ
thể sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, chẳng hạn như dao để chém người, xe
máy để đi cưóp giật... Phương pháp, thủ đoạn là cách thức thực hiện hành vi vi
phạm, bao gồm cách thức tiến hành hành vi, cách thức sử dụng công cụ phương
tiện... Những yếu tố này cũng ít nhiều phản ánh tính chất nguy hiểm của vi phạm
pháp luật.
3.2; Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật

Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là tồn bộ diễn biến tâm lí của chủ thể khi vi
phạm pháp luật bao gồm lỗi, động cơ và mục đích.
3.2.1: Lỗi
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật được đặc trưng bởi yếu tố lỗi, có liên quan
đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật.Hành vi trái
pháp luật mà khơng có lỗi thì khơng phải là vi phạm pháp luật, tức là chủ thể của
hành vi đó khơng bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Đólà nguyên tắc của pháp luật


xã hội chủ nghĩa.Một con người bình thường ,khỏe mạnh về mặt tâm lý có lý trí và
tự do lý trí, hồn tồn có thể lựa chọn cho mình một phương án hành vi phù hợp
với lợi ích của xã hội, của cộng đồng và cầ phải thấy trước hậu quả hành vi của
mình.Nếu coi thường lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân khác, có thể nhận thấy
được hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng mong muốn
hoặc để mặc hay do sơ xuất để nó xảy ra thì đố là hành vi có lỗi.Hành vi trái pháp
luật , gây thiệt hại cho xã hội và có lỗi là căn cứ để áp dụng trách nhiệm pháp lý
:

Như vậy, Lỗi phản ảnh thái độ tâm lí bên trong của chủ thể đổi với hành vỉ trái
pháp luật và hậu quả của hành vỉ đổ, cho nên lỗi là yếu tố quan trọng phản ánh
mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật Có hai loại lỗi cơ bản là cố ý và vô ý; lỗi
cố ý gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin và vô ý
do cẩu thả.
+ Lỗi cổ ý trực tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong
muốn hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi cố ỷ gián tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng có
ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vơ ỷ vì q tự tin có đặc trưng là chủ thể vi phạm gây ra hậu quả nguy hại

cho xã hội trong trường hợp nhận thấy trước hậu quả đó nhưng tin tưởng hậu quả
đó khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
+ Lỗi vơ ỷ do cẩu thả có đặc trưng là chủ thể vi phạm đã gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội trong trường hợp không nhận thấy trước được hậu quả đó mặc dù càn
phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Yếu tố cần phải thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có nghĩa vụ phải tuân thủ
những quy tắc nhất định nhung do luộm thuộm, thiếu cẩn trọng, lơ đễnh, không tập
trung, lơ là, tắc trách... nên đã khơng thực hiện những nghĩa vụ đó. Yếu tố có thể
thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có đủ điều kiện khách quan và chủ quan
(trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, trình độ chuyên mơn, nghiệp vụ, thời gian,
địa điểm, điều kiện, hồn cảnh khách quan...) để có thể thấy trước khả năng xảy ra
hậu quả trong hành vi của mình.


3.2.2 Động cơ vi phạm pháp luật

Động cơ vi phạm là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vỉ vi phạm
pháp luật. Chỉ những vi phạm pháp luật với lỗi cố ý mới có yếu tố động cơ, bởi vì
người vi phạm pháp luật với lỗi vô ý, khi thực hiện hành vi họ không nhận thức
trước hành vi của minh là vi phạm pháp luật hoặc hồn tồn tin rằng hành vi của
mình là khơng vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật,
chủ thể có thể được thúc đẩy bởi động cơ như ghen tuông, đố kị, thù tức, tham lam,
vụ lợi, sĩ diện...
3.2.3 Mục đích của vi phạm pháp luật
Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả trong ỷ thức mà chủ thế vi phạm pháp luật
đặt ra và mong muốn đạt được khỉ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ những
vi phạm với lỗi cố ý trực tiếp mới có yếu tố mục đích, bởi vì chỉ trong trường hợp
này, người vi phạm mới mong muốn đạt được kết quả nào đó bằng việc thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật, cần phân biệt mục đích vi phạm với hậu quả của vi
phạm pháp luật. Hậu quả là kết quả xảy ra trên thực tế của hành vi vi phạm, cịn

mục đích là kết quả trong ý thức mà chủ thể mong muốn đạt được, nó nảy sinh
trước khi thực hiện hành vi. Hậu quả xảy ra có thể trùng hợp với mục đích nhưng
cũng có thể khác so với mục đích mà chủ thể mong muốn. Điều này là do những
yếu tố khách quan và chủ quan chi phối quá trình thực hiện hành vi của chủ thể.
3.3; chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là những cá nhân hay tổ chức có năng lực
trách nhiệm pháp lí đã có hành vi vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm
pháp lí của cá nhân được xác định trên cơ sở độ tuổi và khả năng nhận thức
và điều khiển hành vĩ của họ. Mọi tổ chức hợp pháp đều có năng lực trách
nhiệm pháp lí, năng lực trách nhiệm pháp lí của tổ chức được xác định trên
cơ sở địa vị pháp lí của tổ chức đó. Pháp luật của các nhà nước khác nhau có
thể có quy định khác nhau về năng lực trách nhiệm pháp lí cũng như cơ cấu
chủ thể vi phạm pháp luật. Ở một số vi phạm pháp luật, chủ thể phải có
những dấu hiệu hay điều kiện riêng. Trong những trường hợp này, chủ thể vi
phạm pháp luật được gọi là chủ thể đặc biệt. Nếu không thỏa mãn những dấu
hiệu hay điều kiện này thì chưa phải là vi phạm pháp luật trong trường hợp
đó.


3.4; khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ nhưng đã bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể là yếu tố
quan ưọng phản ánh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. Một
vi phạm pháp luật có thể xâm hại một hoặc nhiều khách thể, chẳng hạn hành
vi trộm cắp xâm phạm quyền sở hữu; hành vi cướp vừa xâm hại sức khoẻ,
tính mạng con người, vừa xâm hại quyền sở hữu. cần phân biệt khách thể
của vi phạm pháp luật với đối tượng tác động của vi phạm đó. Đối tượng tác
động của vi phạm pháp luật là những bộ phận của khách thể, có thể là con
người, các vật thể cụ thể, hoạt động của con người...
Tóm lại sự hiện diện của bốn yếu tố cấu thành và các dấu hiệu nói trên của

vi phạm pháp luật là căn cứ thực tế để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Tuy
vậy, trong nhiều trường hợp,người ta chỉ cần xác định ba dấu hiệu: hành vi,
tính chất trái pháp luật và có lỗi là đủ để khẳng định có vi phạm pháp luật
xảy ra,nghĩa là đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý.

4; các loại vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các
tiêu chí phân loại khác nhau.
Khoa học pháp lý Việt Nam chủ yếu phân loại vi phạm pháp luật căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật
được chia thành các loại như sau:
4.1; vi phạm hình sư
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vơ ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng,
an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.


4.2 vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm
hành chính trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm hoặc trái với các quy định của pháp luật về an ninh,
trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính.
4.3 vi phạm dân sự
Là hành vi trái pháp luật và có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm dân

sự xâm hại tới các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản.
4.4 vi phạm kỷ luật
Là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế, quy tắc xác lập trật tự
trong nội bộ cơ quan, tổ chức, tức là không thực hiện đúng kỷ luật lao động
được đề ra trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó.

5; ví dụ về từng loại vi phạm pháp luật và phân tích.
5.1 vi phạm pháp luật hình sự
5.1.1 Tình huống
D (20 tuổi) là cơng dân cư trú tại khu vực biên giới, lợi dụng việc này, ngày
21/05/2021 B đã mua ma túy với một người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên,
địa chỉ) với giá 8.000 nhân dân tệ và đem số ma túy về chia nhỏ bán cho các đối
tượng nghiện trong xã. Ngày 25/5/2021 lực lượng chức năng đã bắt quả tang đối
tượng về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 147,64 gam
hêrôin, 13,5 triệu đồng, 1 cân điện tử và 2 điên thoại di động.
5.1.2 Cấu thành vi phạm
Về mặt khách thể
Hành vi của D đã xâm phạm đến an ninh, trật tự, an tồn xã hội và tính mạng, sức
khỏe của con người. Đây là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ (Khoản 1
Điều 8 Bộ luật hình sự).
 Về mặt khách quan


Ma túy là chất tuyệt đối bị cấm sử dụng trong đời sống xã hội. Hành vi mua bán
ma túy của D là vi phạm pháp luật. Việc D mua ma túy từ một người Trung Quốc
và bán lại cho những người dân trong xã sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và tính mạng, sức khỏe của người dân.
 Về mặt chủ quan
D thực hiện hành phạm tội với lỗi cố ý. D nhận thức được hành vi của mình là vi
phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Theo đó, D đã lợi dung nhà mình ở khu vực

biên giới để mua ma túy với người Trung Quốc và đem về bán lại cho những người
trong xã.
 Về chủ thể

Chủ thể của tội phạm là cá nhân, cụ thể là D (20 tuổi).
Hành vi của D đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật
hình sự.
5.2 vi phạm pháp luật hành chính
5.2.1. Tình huống
– Tháng 9/2008, Bộ tài nguyên môi trường đã phát hiện ra vụ việc sai phạm của
công ty Bột ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam). Theo đó thì cơng ty
Vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa qua xử lý) trực tiếp ra sông Thị Vải
(Đồng Nai) suốt 14 năm qua kể từ khi đi vào hoạt động (1994): khoảng
45000m3/1tháng. – Hành động này gây ơ nhiễm nặng cho dịng sông Thị Vải, gây
chết các sinh vật sống ở sông này và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân
ven sông…
5.2.2 cấu thành vi phạm
Mặt khách quan
– Hành vi nguy hiểm: sả nước thải bẩn chưa qua xử lý ra sông Thi Vải:
45000m3/1tháng. Đây là hành vi trái pháp luật hành chính.
– Hậu quả: dịng sơng bị ơ nhiễm nặng, phá hủy môi trường sống và làm thủy sản
chết hàng loạt, gây thiệt hại cho các hộ nuôi thủy sản và ảnh hưởng trầm trọng đến
sức khỏe người dân sống ven sơng. Những thiệt hại đó do hành vi trái pháp luật
của công ty Vedan gây ra trực tiếp và gián tiếp


– Thời gian: 14 năm (từ năm 1994-2008).
– Địa điểm: sông Thị Vải (thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp.Hồ
Chí Minh).

– Phương tiện: sử dụng hệ thống ống sả ngầm.
Mặt khách thể
Việc làm của công ty Vedan đã xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước: vi phạm
trật tự quản lý nhà nước, làm tổn hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Mặt chủ quan
– Lỗi: là lỗi cố ý gián tiếp. Vì, Cơng ty Vedan khi thực hiện hành vi này thì nhận
thấy trước hậu quả, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn để hậu quả xảy ra.
– Mục đích: nhằm giảm bớt chi phí xử lý nước thải. Theo quy định thì cơng ty
Vedan phải đầu tư
khoảng 1 chục triệu để xử lý 1m3 dịch thải đậm đặc. Đáng ra phải chi từ 15%-20%
vốn đầu tư cho việc xử lý nước thải thì Cơng ty Vedan chỉ dành 1,5% vốn cho việc
đó.
Mặt chủ thể vi phạm
– Cơng ty Vedan (thuộc Công ty TNHH Vedan Việt Nam) là một công ty thực
phẩm với 100% vốn đầu tư Đài Loan.
– Được xây dựng từ năm 1991.
– Có giấy phép hoạt động từ năm 1994.
Dẫn đến, là một tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi trái
pháp luật này.
5.3 vi phạm pháp luật dân sự
5.3.1. Tình huống
– Nguyễn T Cường (25 tuổi, Bến Tre), là sinh viên năm 2 trường ĐH Tây Đô. – Năm
2006, quan Internet, Cường quen với anh Huy (Việt Kiều Úc) . Năm 2009, anh Huy về
thăm quê và trú tại huyện Chợ Lách, Bến Tre. Đúng lúc này, Cường khơng có tiền đóng
học phí, nhiều lần nhà trường nhắc nhở.1/2/2009, Cường đến nhà anh Huy chơi và ở
lại đêm. 2/2/2009, lợi dụng lúc anh Huy đi vắng, tủ khơng khóa, Cường đã lấy đi 1 chiếc


lắc 2 lượng vàng 18K.. Sau khi bán được hơn 22 triệu đồng, Cường mua một chiếc xe
máy và gởi tiền cho mẹ trả nợ, cho bà nội.

5.3.2. Cấu thành vi phạm pháp luật
Mặt khách quan

– Hành vi: việc làm của anh Cường (lấy cắp 2 lượng vàng 18K, bán lấy tiền để sử dụng
theo mục đích riêng) là hành vi vi phạm pháp luật dân sự được quy định tại Bộ luật dân
sự. – Hậu quả: gây thiệt hại về mặt vật chất đối với anh Huy
– Thời gian: nhà anh Huy (huyện Chợ Lách, Bến Tre)
– Thủ đoạn: lợi dụng lúc anh Huy vắng nhà và tủ không khóa.
Mặt khách thể

Anh Cường đã xâm phạm đến quan hệ tài sản được pháp luật bảo vệ.
Mặt chủ quan

– Lỗi: là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi vì Cường nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại do mình gây
ra, nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
– Động cơ: khơng có tiền nộp học phí, nhận thấy anh Huy là người giàu có nên Cường
đã nổi lịng tham.
– Mục đích:trả tiền học phí, giúp mẹ trả nợ và sử dụng vào mục đích cá nhân (mua xe
máy)
Mặt chủ thể:
Anh Cường (25 tuổi, sinh viên, không mắc phải bệnh về thần kinh) là người có đủ năng
lực trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi phạm pháp.

5.4 vi phạm kỉ luật
5.4.1.tình huống
– Lê Văn An (sinh viên năm 2, trường Đại học X, Cần Thơ) nhiều lần bỏ học, quay cóp
trong giờ kiểm tra nên bị giáo viên nhắc nhở nhiều lần. An hiện trú ở ký túc xá trường,
lại còn thường xuyên uống rượu bia.Anh đã liên tục vi phạm từ cuối năm 2006 đến
tháng 6/2007 và vượt quá giới hạn chấp nhận của nhà trường.
5.4.2. Cấu thành vi phạm pháp luật

Mặt khách quan

– Hành vi: việc làm của An (nhiều lần bỏ học, quay cóp, uống rượu bia) là hành vi vi
phạm kỷ luật nhà trường, ký túc xá.


– Hậu quả: gây ảnh hưởng xấu đến các sinh viên khác, cũng như tương lại của An và
xâm phạm đến quy tắc quản lý của nhà trường.
– Thời gian: từ cuối năm 2006 đến tháng 6/2007.
– Địa điểm: trường ĐH X, Cần Thơ, khu ký túc xá nhà trường.
Mặt khách thể

Lê Văn An đã vi phạm, và xem thường quy tắc quản lý của nhà trường, ký túc xá. Đó là
các quy tắc mà An buộc phải thực hiện khi theo học tại trường và lưu trú tại ký tỳc
xỏ. Ô Mt ch quan:
Li: l li c ý trực tiếp. Bởi vì, An đã nhìn thấy trước hậu quả xã hội do hành vi của
mình gây ra, nhưng vẫn mong muốn hành vi ấy xảy ra.
– Nguyên nhân: tính vơ kỷ luật và sự xem thường kỷ luật nhà trường của An, thiếu tinh
thần học tập và sự cầu tiến đáng có của một sinh viên.
Mặt chủ thể

Lê Văn An (sinh viên năm 2 trường ĐH X, Cần Thơ) là người có đủ năng lực trách
nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi vi phạm này.

kết luận
Quả thực, qua việc xác định, và phân tích những yếu tố làm cơ sở đánh giá mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm pháp luật giúp cho chúng ta định hướng
phần nào để giảm mức độ nguy hiểm của cho xã hội. Đồng thời, qua việc phân tích
này giúp cho sinh viên chúng ta có những nhận thức đúng đắn và cần thiết.
Xem nội dung đầy đủ tại: />

Tài Liệu Tham Khảo


/> /> />
/> /> /> />


×