Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Phát triển xuất khẩu gạo - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.62 KB, 81 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua ngành sản xuất nông nghiệp ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn cả về mặt sản xuất và xuất khẩu từ một nước có một nền nông
nghiệp lạc hậu sản xuất chủ yếu là tự cung, tự cấp, thì nay đã có những tiến bộ vượt
bậc, bảo đảm an ninh lương thực của quốc gia và đã vươn lên trở thành một nước
xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp lớn trên thế giới trong đó, có mặt hàng gạo chỉ
đứng sau Thái Lan
Trong thời gian sắp tới khi đất nước đang bước vào quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa ngành nông nghiệp nước ta phải tiếp tục giải quyết những vấn đề còn
tồng tại bức xúc trong thời gian qua và cải biến, phát triển sao cho phù hợp với tình
hình kinh tế xã hội hiện nay nhằm bảo đảm lợi ích của người nông dân và lợi ích của
toàn xã hội.
Trong các mặt hàng nông nghiệp có tác động lớn đến đời sống của người dân
thì mặt hàng gạo là mặt hàng có tác động mạnh mẽ nhất và nhạy cảm nhất tới người
dân. Việt Nam ta trước đây từ một nước còn lo về vấn đề lương thực, sản xuất ra chủ
yếu là tự cung, tự cấp thì nay đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu trong khu
vực và trên thế giới. Nhiều vấn đề cần phải giải quyết đối với vấn đề sản xuất và xuất
khẩu gạo đó là “ lúa cạo là ngành sản xuất có thế mạnh của nước ta không chỉ hiện
nay mà còn trong tương lai với hia vùng đồng bằng rộng lớn là đồng bằng Sông Cửu
Long với đất đai mầu mỡ và điều kiện tự nhiên thuận lợi là điều kiện để nước ta sản
xuất mặt hàng lúa gạo để đảm bảo an ninh lương thực trong nước và hướng ra xuất
khẩu, Sản xuất lúa gạo phải chủ yếu đưa thâm canh, sử dụng giống có chất lượng
cao, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu của thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Để
thực hiện được các mục tiêu đề ra cho xuất khẩu gạo trong thời gian tới thì chúng ta
phải có sự nhìn nhận lại về thực trạng sản xuất hàng hóa và việc xuất khẩu gạo những
năm vừa qua và đặt trong bối cảnh về vấn đề lương thực của thế giới hiện nay, từ đó
có những nghiên cứu, xem xét và so sánh về sản lượng gạo qua các giai đoạn, qua các
năm và giữa các quốc gia điển hình về xuất khẩu gạo trên thế giới như , Thái Lan,
Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ … Từ đó rút ra những giải pháp cho xuất khẩu và xuất gạo
trong thời gian tới.
1


Với sự hưỡng dẫn của GS .TS Đặng Đình Đàocùng các Cô Chú CBNV trong
công ty, cũng như sự nỗ lực tìm tòi nghiên cứu, học hỏi bản thân em đã chọn đề tài :
“Phát triển xuất khẩu gạo - Thực trạng và giải pháp”.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm có 3 chương:
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XUÂT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GẠO LÚA VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN QUA.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU GẠO TRONG
THỜI GIAN TỚI.
Trong chuyên đề thực tập này em đã cố gắng đưa ra và phân tích một số giải
pháp nhằm nâng cao khả năng xuất khẩu gạo của công ty. Tuy nhiên do trình độ còn
nhiều hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn, các nguồn tài liệu vẫn chưa được thu
thập đủ, hơn nữa thị trường trong tương lai là một lĩnh vực đầy biến động. Nên bài
viết của em đã không tránh khỏi những sai sót ngoài ý muốn. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo góp ý của các thầy cô giáo để đề tài của em được hoàn thiện hơn và
giúp em hoàn thiện hơn trong nhận thức của mình.
2
NỘI DỤNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XUÂT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU GẠO VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
GẠO ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
1. Khái niệm và sự cần thiết của hoạt của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia
khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể dùng là
ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia.
Thực tế cho thấy, đối với các quốc gia khác trên thế giới hoạt động xuất nhập
khẩu đóng vai trò không thể thiếu được do mục tiêu phát triển đất nước. Nếu mỗi
quốc gia chỉ đóng cửa phát triển, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao
giờ có cơ hội vươn lên củng cố thế lực của mình và nâng cao đời sống nhân dân.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao đổi hàng

hoá trong nước. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi thì các quốc gia
đều quan tâm đến việc mở rộng hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất
lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều
kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến hành hoá tư liệu sản xuất, từ
máy móc thiết bị cho đến công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm
mục tiêu là đem lại ngoại tệ cho các quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể
chỉ diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi
lãnh thổ một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu là một tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển
kinh tế. Do những điều kiện khác nhau mỗi quốc gia có thể mạnh về lĩnh vực này
nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Để có thể phát huy được các lợi thế, tạo sự cân bằng
trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau.
Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu không chỉ diễn ra giữa các quốc gia có lợi thế về
lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Các quốc gia thua thiệt hơn về tất cả các điều kiện
như: Nhân lực, tài chính, tài nguyên thiên nhiên…, thông qua hoạt động xuất khẩu
cũng sẽ có điều kiện phát triển kinh tế nội địa.
3
Hoạt động xuất khẩu cũng là cần thiết vì lí do cơ bản nó là khai thác được lợi
thế so sánh của nước xuất khẩu. Thực tế cho thấy mỗi quốc gia cũng như cá nhân
không thể sống riêng rẽ độc lập với bên ngoài. Thương mại quốc tế cho phép đa
dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn mức có
thể tiêu dùng với số lượng nhiều nhất, chất lượng cao hơn mức có thể tiêu dùng với
ranh giới và khả năng sản xuất trong nước (nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp
không buôn bán với nước ngoài).
Cùng với sự phát triển của tiến bộ khoa học kĩ thuật thi phạm vi chuyên môn
hoá càng cao. Số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một
dồi dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác,
chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu mậu dịch và ngược lại một quốc gia không thể

chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá với
nước khác. Chính chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của qui luật lợi thế
so sánh. Qui luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chìa khoá
của phương thức thương mại. Qui luật cũng khẳng định rằng nếu mỗi quốc gia
chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh (hoặc có hiệu quả
sản xuất cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích phần nào việc buôn bán giữa
các nước. Vì điều kiện sản xuất có thể khác nhau giữa nước nước nên sẽ có lợi khi
mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng thích hợp để xuất khẩu và nhập
khẩu những mặt hàng cần thiết từ nước khác. Mặt khác khi chuyên môn hoá với qui
mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng hiệu quả kinh tế và ngay cả khi hiệu quả
tuyệt đối của hai nước giống nhau, buôn bán có thể xảy ra do sở thích và nhu cầu.
Đối với nước ta, một quốc gia đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước thì hoạt động xuất khẩu được đặt ra là cần thiết và có ý nghĩa
quan trọng trong việc thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế xã hội. Không thể nào xây dựng
được nền kinh tế hoàn chỉnh nếu chỉ dựa vào nguyên tắc tự cung tự cấp, ngay cả đối
với một quốc gia phát triển nhất, vì nó đòi hỏi rất tốn kém về chất và thời gian. Vì
vậy phải đẩy mạnh nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng ngoại
thương trên cơ sở nguyên tắc “hợp tác bình đẳng khôn phân biệt thể chế chính trị và
4
đôi bên cùng có lợi” như nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII mà Đảng ta khẳng
định.
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, đông dân, lao động dồi dào, giá lao
động rẻ…bởi vậy, Việt Nam tập trung vào sản xuất những mặt hàng tận dụng sự ưu
đãi của thời tiết khí hậu, sử dụng nhiều lao động, ít vốn. Tận dụng tốt các lợi thế này
để xuất khẩu là hướng đi đúng đắn phù hợp với qui luật thương mại quốc tế.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của xuất khẩu
a. Mục tiêu của xuất khẩu
Mục tiêu của hoạt động xuất khẩu có thể giống với mục tiêu của hoạt động
doanh nghiệp hay mục tiêu cụ thể của từng thời kì cụ thể nào đó. Một doanh nghiệp

phấn đấu xuất khẩu có thể không để nhập khẩu mà để thu ngoại tệ là hướng lợi do
việc chuyển đổi ngoại tệ thu được ra tiền Việt Nam. Ở một thời đểm nào đó xuất
khẩu có thể dùng để trả nợ, để mua vũ khí, để chi cho hoạt động ngoại giao…
Đó là mục tiêu của xuất khẩu, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu của xuất
khẩu là nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu rất đa dạng nền kinh tế, phục vụ cho công
nghiệp hoá đất nước, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo công ăn việc làm…
Xuất khẩu là để nhập khẩu do đó thị trường xuất khẩu phải xuất phát từ yêu cầu
của thị trường nhập khẩu để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng.
b. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
Để thực hiện các mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện
các nhiệm vụ sau đây:
- Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân
lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất….)
3. Vai trò của xuất khẩu gạo
a. Một số nét chính về gạo
Theo thống kê nông nghiệp của FAO, các loại lương thực truyền thống chủ yếu
được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm trước hết năm loại cụ thể: mỳ, ngô,
kê, lúa mạch. Trong số các loại lương thực cơ bản nhất dùng cho con người. Để sống
và làm việc con người tất yếu phải được cung cấp năng lượng từ khẩu phần ăn đa
dạng hằng ngày. Thực tế trong cơ cấu lương thực thế giới hiện nay riêng gạo đã cung
cấp tỷ lệ Calo rất cao cho dân số ở trong loạt nước.
5
* Cách phân loại gạo
Theo chủng loại giống lúa canh tác: bao gồm gạo Taponicoc, gạo chiêm, gạo
mùa, gạo tẻ, gạo nếp, gạo đài trà thông thường, gạo thơm đặc sản… theo Viện nghiên
cứu lúa Quốc tế có khoảng 7000 giống lúa khác nhau nhưng chỉ có một số giống
truyền thông đạt giá trị kinh tế cao.
+ Theo quy trình công nghệ chế biến và độ nẩy cao, có gạo lực, gạo còn phôi,
gạo xát trắng, gạo đồ hấp, gạo hồ tẩy, gạo bóng.
+ Theo hình dáng và kích cỡ: người ta có thể chia ra gạo hạt dài, gạo hạt tròn,

hạt gạo trung bình, gạo hạt ngắn….
+ Theo kích cỡ hạt vỡ và tỉ lệ lầm: mậu dịch gạo Quốc tế còn quy định cụ thể
độ vỡ ít và vỡ nhiều…gạo có độ vỡ ít (nếu phần còn lại lớn hơn 5/10 hạt nguyên vẹn)
và ngược lại loại hạt có độ vỡ nhiều (nếu kích thước phần còn lại chỉ bằng 5/10 ->
2/10 hạt nguyên vẹn), gạo có độ vỡ nhiều như vậy được gọi là tầm. Tỉ lệ lẫn phẩm là
một tiêu thức quan trọng để xác định phẩm cấp gạo và mức giá giao dịch.
+ Theo màu sắc: có gạo trắng, gạo trắng trong, gạo trắng đục, gạo đỏ, gạo nâu,
gạo bạc bụng, gạo hạt vàng…. Khi gạo xuất hiện bạc bụng, hạt vàng thì chất lượng sẽ
bị giảm rút, dù giá giảm nhưng vẫn khó tiêu thụ trong buôn bán quốc tế hiện nay.
Ngoài ra việc phân loại trong mậu dịch Quốc tế còn chú ý đến những tiêu thức
khác như tỉ lệ thuỷ phân không quá 14% tỉ lệ hạt vàng không quá 1%, tỉ lệ tạp chất
không (đá, sỏi, kim loại….) không quá 0,05%, tỉ lệ tạp chất thực vật (rơm, cỏ…)
không quá 1,5% cũng như tỉ lệ gạo lẫu, gạo bạc bụng biến mất.
b. Vai trò của xuất khẩu gạo
* Xuất khẩu gạo giải quyết vấn đề ngoại tệ cho quốc gia, có ngoại tệ để nhập
khẩu nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước.
Hiện nay gạo chiếm giá trị kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
đất nước. Trong khi đó cán cân thanh toán ngoại tệ của Việt Nam luôn bị thâm hụt,
do đó cần có một khoản ngoại tệ bổ sung sự thâm hụt đó.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá
đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc
thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến .
6
Nguồn vốn để nhập khẩu hình thành từ nhiều nguồn: đầu tư nước ngoài, đi vay,
viện trợ và xuất khẩu. Các nguồn đầu tư nước ngaòi, đi vay, viện trợ tuy quan trọng
nhưng cũng phải trả dù cách nay hay cách khác. Nguồn quan trọng nhất chỉ có thể
trông chờ vào là xuất khẩu mà trong đó xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng.
* Xuất khẩu gạo đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển.

Với quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất
và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển để thực hiện:
- Xuất khẩu gạo sẽ tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển.
- Xuất khẩu gạo tạo điều kiện, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần
ổn định sản xuất.
- Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất gạo mở rộng
khả năng tiêu dùng của một quốc gia.
Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này có tác
dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức, xem xét lại khâu
sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh nghiệp cũng cần phải
nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến động của thị
trường thế giới.
* Xuất khẩu gạo có tác dụng tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân
- Tác động của xuất khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể hiện trên nhiều
phương diện. Một mặt sản xuất gạo là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có thu
nhập khá ổn định. Mặt khác xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm
tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân dân.
- Giải pháp xuất khẩu là sự đòi hỏi nhất thiết của thực trạng kinh tế. Khi thực
hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng gạo dư thừa trong thị trường nội địa sẽ được giải
quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn. Nông dân không những bán được hàng mà còn
được giá. Từ những điều này mang lại cho nông dân thu nhập cao hơn và đây chính
là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
7
- Ngoài ra thông qua xuất khẩu gạo chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu
của thị trường đối với mặt hàng gạo. Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản
xuất trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là cách tốt nhất để nâng cao trình độ
và hiệu quả của nền công nghiệp.

II. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỘNG THÁI PHÁT TRIỂN
XUẤT KHẨU GẠO Ở NƯỚC TA
1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trường gạo xuất khẩu
* Thị phần của mặt hàng gạo xuất khẩu trên thị trường
Đây là chỉ tiêu phản ánh đúng đắn nhất sự phát triển của thị trường. Tất cả các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường đều muốn sản phẩm của mình
chiếm càng nhiều thị phần, điều này đồng nghĩa là doanh nghiệp có càng nhiều khách
hàng tiêu dùng trên thị trường đó. Thị phần được đánh giá dựa trên doanh thu về sản
phẩm của mình trên thị trường đó và tỷ lệ doanh thu so với các đối thủ cạnh tranh với
mình, hay căn cứ vào khối lượng sản phẩm gạo xuất khẩu vào một thị trường nào đó
so với đối thủ cạnh tranh.
Thị phần của doanh nghiệp trên một đoạn thị
trường so với đối thủ cạnh tranh
=
Khối lượng gạo xuất khẩu của doanh
nghiệp vào thị trường đo
Doanh thu gạo xuất khẩu của đối thủ
cạnh tranh vào thị trường đó.
Hoặc
Thị phần của doanh nghiệp
(đất nước)
=
Doanh thu của doanh nghiệp (đất nước)
Tổng doanh thu trên thị trường
Hoặc
Thị phần =
Lượng bán
Lượng tiêu thụ trên thị trường
x 100%
Thị phần càng lớn thì độ chi phối thị trường càng lớn. Nhưng chỉ tiêu này rất

khó xác định do rất khó biết được thông tin chính xác về lượng tiêu thụ của các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường.
* Quy mô và sự tăng trưởng
Quy mô của thị trường gạo xuất khẩu nó phản ánh qua quy mô của khách hàng,
số lượng các hợp đồng ngoại thương về nhập khẩu mặt hàng gạo của công ty. Bên
cạnh đó quy mô của thị trường gạo xuất khẩu còn thể hiện ở phạm vi địa lý mà sản
phẩm gạo của công ty, đất nước được đưa tới. Quy mô của thị trường gạo xuất khẩu
8
phải đủ lớn để bù đắp chi phí và lãi của công ty. Chỉ tiêu này không phản ánh hoàn
toàn chính xác tuyệt đối mức độ phát triển của thị trường.
Mức độ tăng trưởng của thị trường ảnh hưởng đến mức độ tiêu thụ, cạnh tranh
và khả năng sinh lời của doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
* Sức hấp dẫn của thị trường
Phản ánh khả năng sinh lời của thị trường. Thị trường nào có nhu cầu lớn về
hàng gạo xuất khẩu của doanh nghiệp, đất nước và hoạt động tiêu thụ trên thị trường
đó của công ty có thể đáp ứng tốt thì thị trường đó trở thành thị trường hấp dẫn. Có 5
yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hấp dẫn nội tại về lợi nhuận lâu dài của một thị trường.
Một là, số lượng doanh nghiệp trong một ngành: nếu thị trường có quá nhiều
đối thủ cạnh tranh thì thị trường đó không mấy hấp dẫn.
Hai là, số lượng các đối thủ tiềm ẩn: Một thị trường sẽ không hấp dẫn nếu có
thể thu hút nhiều đối thủ cạnh tranh mới. Việc tham gia vào thị trường của các đối
thủ cạnh tranh mới này phụ thuộc vào rào cản của ngành xuất khẩu.
Ba là, Mối đe doạ từ các nhà sản xuất, nhà cung ứng: một đoạn thị trường sẽ
không hấp dẫn nếu nhà sản xuất, cung ứng gây ép đối với sản phẩm kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong khi các sản phẩm nông sản như là gạo cạnh tranh được trên thị
trường đòi hỏi phải có chất lượng ngày càng cao và giá thành ngày càng hạ.
Bốn là, Mối đe dạo từ phía khách hàng: Một đoạn thị trường sẽ không hấp dẫn
nếu người mua có quyền thương lượng lớn hay ngày càng cao. Người mua sẽ gây sức
ép về sản phẩm đòi hỏi có chất lượng cao hơn, dịch vụ văn minh hơn nhưng không
muốn tăng giá thậm chí còn muốn giá giảm. Sản phẩm gạo xuất khẩu của Việt Nam

chủ yếu là sản phẩm thô, chất lượng thấp, hàm lượng chế biến không cao, nó gây khó
khăn cho việc vận chuyển trên chặng đường dài qua các quốc gia, châu lục. Vì vậy,
sản phẩm gạo của ta luôn bị ép giá so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh.
Năm là, Mối đe doạ về những sản phẩm thay thế: Thị trường sẽ không hấp dẫn
nếu có nhiều sản phẩm thay thế lực hay tiềm ẩn. Các sản phẩm thay thế sẽ tạo ra rào
cản cho nhu cầu tiêu dùng những sản phẩm được thay thế. Qua đó giảm lợi nhuận
của công ty trên thị trường đó.
* Mức độ tập trung hay phân tán của thị trường
9
Để đánh giá mức độ tập trung hay phân tán của các chiến lược lựa chọn thị
trường xuất khẩu gạo thì thay cho chỉ tiêu số lượng thị trường người ta có thể sử
dụng chỉ tiêu phần ngân sách của doanh nghiệp, đất nước, được phân phối cho các
khu vực thị trường khác nhau. Mức độ tập trung của việc phát triển thị trường gạo
xuất khẩu còn có thể tính bằng hệ số tập trung, được định nghĩa như tổng bình
phương của số phần trăm hàng hoá của doanh nghiệp, đất nước được tiêu thụ ở thị
trường nước ngoài.
Mức độ tập trung của thị trường : C
2
1
n
i
C S
=

Trong đó:
C: Là hệ số tập trung thị trường
S
i
: Tỷ lệ % hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ ở nước thứ i
n: Số nước

* Chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận
• Doanh thu = khối lượng hàng hoá bán ra x giá bán
• Doanh thu tăng có thể nói phát triển thị trường có hiệu quả. Tuy vậy, chỉ
doanh thu thì chưa đủ cơ sở để khẳng định chắc chắn điều đó, mà còn phải xem xét
đến khả năng doanh thu có bù đắp được chi phí không, vì vậy người ta sử dụng chỉ
tiêu lợi nhuận.
• Lợi nhuận do phát triển thị trường
Lợi nhuận do phát
triển thị trường
=
Doanh thu tăng thêm do
phát triển thị trường
-
Chi phí để phát triển
thị trường
• Tỷ suất doanh lợi: Chỉ tiêu này cho thấy có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận
từ hoạt động xuất khẩu nông sản khi bỏ ra 1 đồng chi phí.
Tỷ suất doanh lợi =
Lợi nhuận bán hàng
Chi phí cho hoạt động bán hàng
10
• Tỷ suất lợi nhuận: Cho biết một đồng vốn kinh doanh bỏ ra trong hoạt động
xuất khẩu gạo sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận =
Lợi nhuận
Vốn kinh doanh
• Tỷ suất ngoại tể xuất khẩu
Tỷ suất ngoại tệ
xuất khẩu nông sản
=

Số nội tệ bỏ ra để
xuất khẩu nông sản
Số ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất
khẩu nông sản
Nếu tỷ xuất ngoại tệ lớn hơn tỷ lệ giá hối đoái thì nên xuất khẩu và ngược lại.
2. Động thái phát triển
Trên bình diện quốc tế, những kết quả dự báo tính đến thời điểm này cho thấy,
thị trường lúa gạo nói riêng và lương thực nói chung đang diễn biến theo chiều hướng
có lợi cho những nước xuất khẩu.
Cụ thể, sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2003 – 2004 chỉ đạt 388,3 triệu tấn,
giảm 2,7 triệu tấn còn trong niên vụ này, tuy tổng sản lượng dự báo đạt 399,8 triệu
tấn, nhưng tiêu thụ gạo toàn cầu lại đạt 417,3 triệu tấn và tồn kho gạo thế giới giảm
rất mạnh từ 105,8 triệu tấn xuống chỉ còn 82,7 triệu tấn, giảm tới 21,8%.
Với tương quan cung cầu gạo trên thị trường thế giới, cơ hội vàng đang đến với
mặt hàng gạo xuất khẩu của nước ta. Quan sát giá gạo xuất khẩu của nước ta kể từ
sau sự kiện sốt nóng giá gạo thế giới vào năm “El nino thế kỷ” 1998, chúng ta sẽ thấy
rất rõ điều này. Đó là tính bình quân, giá gạo xuất khẩu từ kỷ lục 274,73 USD/tấn
năm 1998 chẳng những đã “rơi tự do” xuống 227,49 USD/tấn năm 1999 (giảm
47,24USD/tấn hay 17,19%), mà còn rơi liên tục trong hai năm sau đó: năm 2000 chỉ
đạt bình quân 191,93 USD/tấn, giảm 35,56 USD/tấn hay 15,63%; năm 2001 xuống
tới mức thấp kỷ lục 167,53USD/tấn, giảm 24,40 USD/tấn hay 12,71%. Tiếp theo, tuy
giá gạo xuất khẩu năm 2002 đã tăng vọt lên 223,86 USD/tấn (tăng 56,33 USD/tấn
hay 33,62%), nhưng trong năm 2003 vừa qua lại giảm mạnh xuống chỉ còn 188,97
USD/tấn (giảm 34,89 USD/tấn hay 15,59%).
11
Trong khi đó, giá gạo bình quân trong 7 tháng đầu năm nay ước đạt khoảng 231
USD/tấn, tức đã tăng khoảng 42 USD/tấn hay 23,3% so với giá bình quân cả năm
2003 và đây là mức giá cao nhất kể từ năm 1998. Không những vậy, do cán cân cung
cầu gạo hiện vẫn căng thẳng, cho nên giá gạo thế giới vẫn đang tăng mạnh. Chẳng
hạn, nếu như vào thời điểm tháng 6 vừa qua, giá gạo 25% tấn trung bình khoảng 208

– 210 USD/tấn, thì hiện nay đã tăng lên 223 – 225 USD/tấn.
Tóm lại, sau hai năm giá gạo bị mất giá (1999-2000), nông dân nước ta đã
không còn mặn mà với cây lúa và sau hai năm thị trường gạo thế giới phập phù, năm
2004 này mới lại là năm chúng ta đứng trước cơ hội vàng được mùa, trúng giá.
Cũng từ thực tế đó, tuy khối lượng gạo xuất khẩu theo kế hoạch đã đạt 3,5 triệu
tấn, nhưng lượng lú trong nông dân từ nay đến cuối nằm tòn tương đối khá. Nhìn
những động thái của ngành nông nghiệp cho đến nay cho thấy, chúng ta còn có thể
đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng nông sản chiến lược này nữa. Đó là:
- Thứ nhất, về nguồn hàng, theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, tổng sản lượng lúa năm nay có thể đạt 35, 184 triệu tấn, tăng khoảng 800
nghìn tấn so với năm 2003, tương ứng khoảng 400 nghìn tấn gạo xuất khẩu.
Trong bối cảnh được mùa như vậy, cho dù hiện nay Bộ thương mại đã cho phép
“vượt rào” 3,5 triệu tấn gạo xuất khẩu bằng việc các doanh nghiệp có thể xuất khẩu
thêm 5.000 – 7.000 tấn/tháng đối với cả hai mặt hàng gạo nếp và gạo thơm, thì khối
lượng xuất khẩu có thể tăng thêm này vẫn không đủ lớn.
- Thứ hai, điều quan trọng hơn là cho tới tận thời điểm hiện tại, vụ hè thu chính
là vụ lúa đóng vai trò quyết định trong thành tích được mùa của một năm sản xuất
nông nghiệp đầy khó khăn hiện nay mới đang trong thời kỳ thu hoạch.
Cụ thể là, trong tổng sản lượng lúa ước tăng khoảng 8000 nghìn tấn của năm
nay so với năm 2003 vừa qua, con số đóng góp của vụ đông xuân chỉ là 173 nghìn
tấn, tức là tuyệt đại bộ phận lúa thực được mùa năm nay vẫn còn “năm ngoài dự
kiến”.
Do vậy, nếu không đẩy mạnh xuất khẩu gạo ngay trong năm nay, chẳng những
chúng ta có thể để “vượt” khỏi tầm tay cơ hội thắng lợi “kép”, mà rất có thể tình
trạng “chờ giáng xuống” mới đẩy mạnh xuất khẩu trong nhiều năm liên tục lại một
lần nữa lập lại. Có lẽ, trước việc Bộ thương mại “rung chuông cảnh báo” các doanh
12
nghiệp không được “vượt rào” ,5 triệu tấn gạo hồi giữa tháng 7 vừa qua, giá lương
thực từ đầu năm đến nay lần đầu tiên giảm trong tháng 7, mặc dù chỉ giảm ở mức độ
rất nhẹ 0,3%, nhưng cũng đủ là một tiếng chuông cảnh báo về việc giá lương thực

trong nước những tháng cuối năm sẽ tiếp tục giảm nếu đầu ra xuất khẩu không được
khai thông.
Nói cách khác, nếu chúng ta không đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong năm nay,
chúng ta sẽ chỉ thu được một nửa thắng lợi “kép”: được mùa trong điều kiện cực kỳ
khó khăn, còn nửa trúng giá thì để “vượt” khỏi tầm tay giống hệt như năm 1998.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT
NAM
1. Về điều kiện tự nhiên
- Việt Nam có diện tích 330.363km2 (thuộc loại có diện tích trung bình trên thế
giới). Đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho ngành nông nghiệp.
- Bờ biển nước ta rất thuận lợi cho giao thông đường biển
- Vị trí lãnh thổ đã cho nước ta một nền khí hậu đặc biệt, nhiệt độ cao (trung
bình từ 22
0
C đến 27
0
C) và lượng mưa hàng năm lớn (trên 1500m), độ ẩm không khí
luôn luôn trên 80% vì vậy quanh năm cây cối có điều kiện phát triển tốt, mùa màng
có thể thu hoạch được từ 2 đến 4 vụ. Với nền khí hậu nhiệt đới gió mùa sẽ cho phép
Việt Nam phát triển một nền nông nghiệp phong phú đa dạng bao gồm các loại cây
lương thực và vây công nghiệp, cây ngắn ngày và dài ngày, ôn đới hay nhiệt đới;
trong đó lúa là cây lương thực truyền thống đóng vai trò chủ đạo.
2. Về lao động
Việt Nam là một nước có lao động trong nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao xấp xỉ
70% lực lượng lao động trong cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp hay nói
cách khác giá nhân công rẻ. Với lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ tạo
ra sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với giá thành
thấp, làm tăng sức cạnh tranh về giá của mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.
Dù rằng chúng ta có nhiều khó khăn bất lợi trong việc sản xuất lúa như: giống
lúa có năng suất chưa cao, thuỷ lợi chưa được đầu tư, công nghệ chế biến thấp và

thiên tai xảy ra bất kì nhưng các nguồn lực sản xuất mà Việt Nam có lợi thế trên đây
đã mở ra cho nước ta một con đường phát triển mới hướng ra xuất khẩu. Theo quan
13
điểm về lợi thế so sánh: Việt Nam có thể tận dụng ưu thế về điều kiện tự nhiên đất
đai, khí hậu và lao động để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu chứa hàm lượng
tài nguyên và lao động cao, vốn và kĩ thuật thấp hơn, hiện nay Việt Nam vẫn là một
nước chậm phát triển thì sản xuất lúa gạo giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân. Sản xuất lúa gạo với đặc tính của sản xuất nông nghiệp: thứ nhất là thực hiện
sản xuất thực hiện trên diện rộng và phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên về đất đai,
nguồn nước….., thứ hai là thực hiện sản xuất cần nhiều lao động do tính chất phân bố
rộng của sản xuất và đòi hỏi bắt buộc khi thực hiện công việc. Vì vậy, sản xuất lúa
cho phép tận dụng được tốt thuận lợi về lao động tài nguyên thiên nhiên đồng thời
hạn chế bớt nhứng khó khăn về vốn, kĩ thuật – công nghệ, bởi sự đòi hỏi đầu tư về
vốn trong trồng trọt không lớn và kĩ thuật máy móc phục vụ cho sản xuất lúa ở khâu
trồng và chế biến không quá phức tạp, giá thành không cao lắm so với các loại công
nghệ tinh vi. Chính vì vậy, phát triển sản xuất lúa ở Việt Nam để xuất khẩu là rất
đúng đắn nó phù hợp với đặc điểm của nguồn lực sản xuất, cho phép tận dụng lợi thế
so sánh của nước trên thị trường quốc tế về mặt sản xuất mặt hàng gạo xuất khẩu.
3. Về chính sách
* Các yếu tố vĩ mô
Việt Nam mới ra nhập nền kinh tế thị trường nhưng đã nhanh chóng hoà nhập
vào vòng xoáy của nó. Để hạn chế tối đa những rủi ro mà nền kinh tế thị trường gây
ra Việt Nam đã chọn cho mình hướng đi riêng, đó là: “nềnkinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của nhà nước”. Nhà nước sử dụng những
công cụ vĩ mô để quản lý, định hướng hoạt động xuất khẩu.
- Công cụ chính sách thương mại về thuế quan
Thuế xuất khẩu được dùng làm công cụ để điều tiết và quản lý xuất khẩu. Thuế
này được đánh vào hàng hoá xuất khẩu nhằm hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu.
Những mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được Nhà nước khuyến khíc (trừ
một số mặt hàng hạn chế hoạch cấm xuất khẩu như gỗ quý, động vật quý hiếm….) và

cho áp dụng mức thuế suất khẩu hoặc bằng không. Tuy nhiên khi vào một thị trường
nước khác lại phải chịu một mức thuế nhập khẩu nhất định của nước sở tại. Nếu gạo
của ta không nhận được những ưu đãi của nước sở tại thì phải chịu mức thuế tương
đối cao do vấp phải sự bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Và đây cũng là khó khăn
14
cho việc cạnh tranh của gạo Việt Nam, gây ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển thị
trường cho gạo.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nếu chính sách thuế quan để làm công cụ
cho chính sách khuyến khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu sẽ dẫn đến tình trạng
duy trì một ngành sản xuất kém hiệu quả, kém khả năng cạnh tranh và do đó người
tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hội nhập với việc buôn bán tự
do giữa các nước có sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng hàng hoá thì việc
sử dụng thuế như một công cụ quản lý xuất khẩu sẽ không còn hữu hiệu bởi thếu xuất
khẩu luônn làm cho giá cả hàng hoá tăng cao so với khi không đánh thuế hoặc thuế
xuất hàng thấp.
- Các công cụ chnhs sách thương mại phi thuế quan
Ngày nay, khi sự phát triển kinh tế của thế giới đã bước đến tầm cao mới thì xu
hướng toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại là một tất yếu. Điều này làm cho việc sử
dụng chính sách thuế quan không phải là công cụ duy nhất ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu và nó dần có xu hướng giảm dần ảnh hưởng và chuyển
các ảnh hưởng đó sang các công cụ chính sách thương mại phi thuế quan. Một số
chính sách phi thuế quan ngày càng có ảnh hưởng lớn đó là:
+ Quan hệ chính trị ngoại giao
Một quốc gia muốn phát triển thị trường xuất khẩu nói chung và thị trường gạo
xuất khẩu nói riêng thì trước hết phải có đường lối chính trị mở cửa hội nhập với thế
giới một cách nhất quán và ổn định lâu dài. Sự thiết lập quan hệ ngoại giao, ngoại
thương giữa các nước đóng một vai trò quan trọng trong công việc thúc đẩy xuất
khẩu. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và tìm đối tác.
Điều này được khẳng định rất rõ qua quá trình đổi mới ở nước ta năm 1986.
Việt Nam chỉ có quan hệ ngoại giao với các nước XHCN nên thị trường buôn bán chỉ

có một số nước XHCN. Nhưng sau khi đổi mới ta mở rộng quan hệ với tất cả nước
và thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng ra ngày cả với Mỹ.
+ Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Đối với nhiều nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp
(FDI) là một phần quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp
FDI có ảnh hưởng đến nền kinh tế sở tại thông qua: Bổ sung nguồn vốn cho nền kinh
15
tế, ảnh hưởng chuyển giao công nghệ, năng lực quản lý, tạo việc làm cho người lao
động, đóng góp vào xuất khẩu. Tuy nhiên thực tế thu hút và sử dụng FDI ở nhiều
quốc gia cho thấy khả năng FDI có đóng góp tích cực như thế nào đối với xuất khẩu
còn phụ thuộc vào chính sách thu hút và sử dụng FDI của quốc gia sở tại có hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư hay không? Trong nhiều trường hợp, những ưu đãi của chính
phủ đối với các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào xuất khẩu là không thoả đáng,
các doanh nghiệp FDI sẽ có xu hướng chỉ tập trung khai thác thị trường nội địa trên
cơ sở sử dụng các nguồn lực chi phí thấp, đặc biệt là lao động quốc gia.
Như vậy, chính sách thu hút, sử dụng FDI sẽ có tác dụng tích cực đối với phát
triển thị trường xuất khẩu hàng hoá nếu có những biện pháp khuyến khích về tài
chính (miễn giảm thuế, thưởng xuất khẩu….) những ưu đãi về thủ tục đối với doanh
nghiệp FDI có đóng góp tích cực vào xuất khẩu.
+ Quy định hải quan
Hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm
thô như Việt Nam phải được thông qua một cách nhanh chóng. Nếu hoạt động hải
quan phức tạp gây nhiều phiền hà cho người xuất khẩu thì sẽ làm giảm khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu đồng thời sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh
nghiệp, ảnh hưởng đến phát triển thị trường cho hàng xuất khẩu. Cho nên phải hoàn
thiện quy trình nghiệp vụ hải quan, áp dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phân
loại hàng hoá theo mức độ quan trọng để từ đó thông qua nhanh những hàng hoá
thông thường.
+ Hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
Nhà nước đầu tư tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, thành lập các cơ quan có

nhiệm vụ thu thập thông tin về thị trường thế giới, định hướng xâm nhập thị trường
quốc tế, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp giao lưu với các
đối tác nước ngoài để tìm kiếm thị trường và cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu hàng hoá như tham gia hội chợ quốc tế gặp gỡ trao đổi thông tin thương
mại với các doanh nghiệp nước ngoài.
Khi tham gia vào thị trường thế giới buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải tuân
theo các quy định của thế giới, của nước nhập khẩu mặt hàng gạo. Vì vậy, các yếu tố
quy định, chính sách của thế giới ảnh hưởng rất lớn đến thị trường xuất khẩu.
16
* Các yếu tố thuộc về môi trường thương mại
- Các nguyên tắc điều chỉnh thương mại Quốc tế
+ Nguyên tắc hỗ trợ
Theo nguyên tắc này các nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau nhưng
ưu đãi và nhân nhượng tương xứng trong quan hệ buôn bán dựa trên cơ sở tiềm lực
của các bên tham gia. Nhưng trong nhiều trường hợp các nước yếu hơn thường phải
buộc chấp nhận các điều kiện do bên mạnh hơn đưa ra. Trong trường hợp được tham
gia tổ chức WTO thì nước ta phải tranh thủ đến mức tối da hiệp định thương mại
song phương để giành cho nhau những ưu đãi trong hoạt động xuất khẩu làm như vậy
cả hai bên đều tạo được thị trường cho nhau và cùng có lợi nếu như quan hệ đó bền
vững, ổn định lâu dài.
+ Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nguyên tắc được thể hiện dưới hai dạng, quy chế tối huệ quốc và dãi ngộ Quốc
gia. Quy chế tối huệ quốc (MSN) là chế độ mà các nước dành cho nhau trong quan hệ
kinh tế và buôn bán về mặt thuế quan, mặt hàng trao đổi, phương tiện chuyên trở,
quyền lợi pháp nhân và tư nhân nước này trên lãnh thổ nước kia, đây là mối quan hệ
thương mại về kinh tế giữa các nước trên cơ sở hiệp định, hiệp ước giữa các nước
một cách bình đẳng có đi có lại. Nếu nhận được quy chế tối huệ quốc hàng hoá của
nước nhận sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn trên thị trường nước cấp. Quy chế tối huệ
quốc này thường do nước phát triển áp dụng để gây áp lực kinh tế cũng như chính trị
đối với những được và muốn được hưởng chúng. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT)

là nguyên tắc đòi hỏi các nước thành viên của WTO đối xử với hàng nhập khẩu đã
hoàn thành nghĩa vụ cửa khẩu không kém phần thuận lợi so với nước hàng được sản
xuất trong nước. Cụ thể hàng hoá khi đã trả song thuế quan và được nhập khẩu thì
hàng hoá được đối xử như với hàng hoá tương tự được sản xuất trong nước.
+ Nguyên tắc ngang bằng dân tộc
Nguyên tắc đòi hỏi một nước dành cho tư nhân và pháp nhân nước ngoài trên
lãnh thổ nước mình một sự đối xử ngang bằng như tư nhân và pháp nhân của nước
mình trong những vấn đề kinh doanh, thuế quan, hàng hải, cư trú, sự bảo vệ của
pháp luật….ngoại trừ quyền bầu cử, ứng cử, nghĩa vụ quân sự. Nguyên tắc này
17
thường được quy định trong hiệp định kinh tế - thương mại đã được ký kết giữa hai
nước.
- Tình hình chính trị quân sự
Sự biến động của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới có tác động mạnh mẽ
đến tình hình cung và cầu của các nước. Do vậy, trong hoạt động phát triển thị trường
gạo xuất khẩu, việc nghiên cứu, phân tích thường xuyên tình hình chính trị này giữ
một vai trò quan trọng, phục vụ cho việc tìm hiểu rõ ràng về các thông tin liên quan
tới hoạt động nhập khẩu của các nước. Ví dụ như chiến tranh của Irap vừa xảy ra đã
làm ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam, làm cho hoạt động xuất
khẩu gạo, vào Irap bị ngưng trệ gây tổn thất lớn cho ngành xuất khẩu gạo của Việt
Nam.
- Hàng rào kỹ thuật và vệ sinh kiểm dịch động thực vật
Đây cũng là một công cụ phi thuế quan có ảnh hưởng rất lớn đến việc thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu gạo và phát triển thị trường cho nó. Nó là công cụ của WTO cho
phép các nước được sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp vệ sinh
kiểm dịch mà nước đó cho là thích hợp và phù hợp với việc bảo vệ môi trường, sức
khoẻ của người tiêu dùng với điều kiện biện pháp này không tạo ra sự phân biệt đối
xử tuỳ tiện hoặc hạn chế vô lý thương mại quốc tế với bất kỳ nước nào. Các cường
quốc phát triển áp dụng nhiều nhất công cụ này để bảo hộ mậu dịch.
* Các yếu tố vi mô

Nếu như người ta nói các yếu tố vĩ mô dùng để quản lý, điều tiết, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu thì các yếu tố vi mô lại có ảnh
hưởng trực tiếp và có tính chất quyết định đến hoạt động phát triển thị trường gạo
xuất khẩu. Các yếu tô vi nói ở đây được hiểu là các yếu tố thuộc về các doanh nghiệp
là những người trực tiếp kinh doanh hoạt động xuất khẩu gạo, trực tiếp tìm kiếm thị
trường, phát triển nó dựa trên những định hướng của Nhà nước và chiến lược mục
tiêu của doanh nghiệp mình. Nếu muốn tồn tại được buộc doanh nghiệp không ngừng
tìm kiếm cơ hội và phát triển thị trường xuất khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động phát triển thị trường gạo xuất khẩu là:
- Chiến lược, mục tiêu phát triển thị trường của doanh nghiệp
18
Chiến lược, mục tiêu phát triển thị trường xuất khẩu là một bộ phận cấu thành
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có vai trò quan trọng trong việc phát
triển và tồn tại của doanh nghiệp. Nếu như chiến lược phát triển thị trường đúng đắn
nó sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của doanh nghiệp có khả năng xâm nhập và chiếm
lĩnh được thị trường đề ra. Ngược lại, nó không phù hợp thì sẽ làm cho hoạt động
kinh doanh bị đình trệ, gặp khó khăn và có thể dẫn đến phá sản.
Tuỳ vào doanh nghiệp khác nhau, điều kiện nhập khẩu doanh nghiệp, mặt hàng
kinh doanh và tiềm lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp lựa chọn cho mình chiến
lược và mục tiêu phát triển thị trường khác nhau. Có doanh nghiệp lựa chọn chiến
lược phát triển các thị trường truyền thống nhằm tăng thị phần của mình trên thị
trường đó, có doanh nghiệp lại có chiến lược xâm nhập vào khu vực đoạn thị trường
mới mà chưa ai khai thác hoặc rất ít người khai thác, có doanh nghiệp lựa chọn chiến
lược xâm nhập thị trường có lợi nhuận cao nhưng rủi ro cao, ngược lại có doanh
nghiệp lựa chọn thị trường có lợi nhuận thấp và rủi ro ít…nhưng dù có lựa chọn
chiến lược mục tiêu nào đi chăng nữa, nếu đó là chiến lược đúng đắn thì nó đều
quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Việc lựa chọn chiến lược sao cho phù hợp và có hiệu quả phụ thuộc lớn vào
tiềm lực và mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi chiến lược có hay đến đâu,

tốt đến đâu đi nữa nhưng mà doanh nghiệp không có khả năng thực hiện thì chiến
lược đó cũng trở thành vô nghĩa.
* Tiềm lực của doanh nghiệp
Tiềm lực của doanh nghiệp không phải là bất biến nó có thể phát triển theo
hướng mạnh lên hay yếu đi, có thể thay đổi toàn bộ hay bộ phận, thông thường sức
mạnh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
+ Tiềm lực tài chính
Đây là yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối
lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối có
hiệu quả nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh. Khi
doanh nghiệp có khả năng và nguồn tài chính mạnh mẽ thì daonh nghiệp sẽ đạt lợi
nhuận cao trong việc tiến hành kinh doanh. Một doanh nghiệp có quy mô lớn về vốn
19
sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển mạnh thị trường và có được khả năng cạnh tranh
lâu dài hơn.Việc đánh giá tốt, chính xác về vốn, có cơ cấu vốn, khả năng huy động
vốn…là một tiền đề cho doanh nghiệp xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược kinh
doanh của mình.
Các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực chính của doanh nghiệp là:
• Vốn chủ sở hữu: Là khối lượng tiền của chủ sở hữu hoặc của các cổ đông
tham gia góp vốn vào doanh nghiệp, đây là yếu tố chủ chốt quyết định đến quy mô
của doanh nghiệp và quy mô cơ hội có thể khai thác.
• Vốn huy động: Đây là loại vốn huy động từ các nguồn như vốn vay, trái phiếu
doanh nghiệp…. nó phản ánh khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nền kinh
tế vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận: Phản ánh khả năng tăng trưởng vốn tiềm năng
và quy mô kinh doanh mới, được tính theo % từ lợi nhuận để bổ sung nguồn vốn tự
có.
• Giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường: Phản ánh xu thế phát triển của
doanh nghiệp và sự đánh giá của thị trường đối với doanh nghiệp.
• Khả năng tài trợ ngắn hạn và dài hạn: Thể hiện qua vòng quay vốn lưu động,

vòng quay dự trữ hàng hoá, vòng quay tài khoản thu/chi.
• Các tỷ lệ về khả năng sinh lợi phản ánh hiệu quả đầu tư và kinh doanh của
doanh nghiệp….
+ Trình độ kỹ thuật công nghệ, trang thiết bị, bí quyết công nghệ của doanh
nghiệp
Trình độ kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp được thể hiện ở công nghệ đang
sử dụng, ở mức độ trang bị máy móc. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí,
giá thành và chất lượng hàng hoá. Phát triển thị trường xuất khẩu còn đồng nghĩa với
phát triển sản phẩm, sản phẩm luôn được đổi mới về mẫu mã chất lượng để thể đáp
ứng nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng.
+ Tiềm lực vô hình
Ngày nay tiềm lực vô hình ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình
trong việc phát triển thị trường, chinh phục khách hàng Tiềm lực vô hình được thể
hiện thông qua một số vấn đề sau:
20
• Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp. Trên thương trường uy tín của doanh
nghiệp là thứ vũ khí giúp nhà kinh doanh bán hàng tốt hơn. Với chữ tín tốt đẹp về
doanh nghiệp, về sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tạo ra ưu thế lòng tin của khách hàng
và sự ưu ái khi lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng với doanh nghiệp. Đặc biệt
khi mà hàng hoá có chất lượng, giá cả, dịch vụ ngang bằng nhau như hiện nay.
• Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá, chất lượng sản phẩm. Có 5 mức độ
cấp bậc trong nhãn hiệu hàng hoá: nhãn hiệu bị loại bỏ, nhãn hiệu không được chấp
nhận, nhãn hiệu được chấp nhận, nhãn hiệu ưa thích, nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu
của sản phẩm càng ở thứ bậc cao thì càng dễ bán. Bởi sự nổi tiếng của nhãn hiệu tức
là nó đã được người tiêu dùng đánh giá và lựa chọn…
+ Trình độ và kỹ năng của người nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng, vừa là người tạo ra sản phẩm,
đồng thời là người trực tiếp kinh doanh và bán sản phẩm. Ngày nay khi lượng lao
động dư thừa và có xu hướng tay nghề càng cao. Vì vậy, mà đòi hỏi người lao động
không ngừng học tập nâng cao trình độ, tay nghề cho phù hợp với yêu cầu của sản

xuất kinh doanh.
+ Trình độ quản lý
Đòi hỏi nhà kinh doanh phải có trình độ tổ chức quản lý để đưa hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Trong hoạt động phát triển thị trường đòi hỏi người quản lý phải
biết tổ chức kết hợp chặt chẽ giữa các khâu, ngay từ khâu đầu tiên là nghiên cứu thị
trường, phân tích phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường trọng điểm đến việc đánh
giá, kết luận việc phát triển thị trường.
Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng chịu ảnh
hưởng của rất nhiều yếu tố. Và việc phát triển thị trường xuất khẩu nó cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Có những yếu tố mà không thể kiểm soát được nhưng có yếu
tố có thể kiểm soát được nếu như doanh nghiệp, Nhà nước có chiến lược, chính sách
đúng đắn.
Vậy, làm thế nào để đánh giá được việc phát triển thị trường có hiệu quả và
mức độ đến đâu? Điều này giải thích thông qua nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá mực
độ phát triển của thị trường xuất khẩu.
4. Tình hình thị trường lúa gạo thế giới
21
a. An ninh lương thực thế giới
Nhu cầu về lương thực và thực phẩm là một nhu cầu cơ bản, thiết yếu. Mặc dù
mức sống của con người đã có những bước phát triển nhảy vọt, các nhu cầu cao cấp
đã nảy sinh, đặc biệt là tại các nước đang phát triển nhưng nhu cầu về lương thực
thực phẩm không những không giảm đi mà còn tăng rất nhanh cả về số lượng và chất
lượng. Tuy nhiên, vấn đề về lương thực, thực phẩm lại dường như trở thành thứ yếu
trong dư luận quốc tế. Sở dĩ có tình trạng như vậy bởi vì trên thế giới có sự phân cách
quá lớn về mức thu nhập. Khoảng 20% dân số thế giới chiếm 80% tổng thu nhập toàn
cầu và đối với nhóm người này lương thực, thực phẩm rõ ràng là thứ yếu. Mặt khác
nhóm người này cũng là nhóm khách hàng tiêu dùng nhiều nhất nên hầu hết các
doanh nghiệp, các nhà sản xuất đổ xô vào phục vụ các nhu cầu nhóm của khách hàng
này nên vấn đề lương thực, thực phẩm ít được để ý và chúng ta bị ru ngủ bởi quan
điểm: tình hình lương thực thế giới không có gì đáng lo ngại. Tổ chức lương thực thế

giới FAO đã rung hồi chuông báo động về an ninh lương thực. Trong giai đoạn tới
đây nó sẽ là vấn đề thời sự nóng bỏng bởi nhu cầu về lương thực, thực phẩm sẽ tăng
rất nhanh trong khi sản xuất lương thực, thực phẩm đã có những dấu hiệu chạm trần,
điều này là mối đe doạ chủ yếu đối với an ninh lương thực thế giới.
Nguyên nhân đầu tiên làm cho nhu cầu lương thực của thế giới trở nên nóng
bỏng là gia tăng dân số nhanh chóng. Theo đánh giá của Quỹ dân số LHQ (UNPFA)
hành tinh của chúng ta dường như hướng sự lo ngại sang một vấn đề khác đó là “quả
bom dân số”. Thời báo Washington ngày 21/7/2000 cũng cho rằng Y6B “Year 6
bilions” mới thực sự là quả bom đáng sợ. Theo UNPFA đà gia tăng này sẽ dẫn tới
dân số thế giới là 27 tỷ người vào năm 2050 và sẽ tiếp tục tăng nữa. Dân số thế giới
tăng nhanh dẫn tới nhiều bi kịch và bất lợi, mà đầu tiên là nhu cầu lương thực sẽ tăng
lên đáng sợ.
Bên cạnh đó, sự bùng nổ của dân số thế giới cũng là một tác nhân quan trọng
gây ra “hiệu ứng nhà kính” mà hệ quả là sự gia tăng cả về mật độ cũng như cường độ
của động đất, cháy rừng, mưa bão, lũ lụt….Theo báo cáo của tổ chức Chữ thập đỏ và
trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, trong thập kỷ 90 nhân loại đã phải gánh chịu những thảm
hoạ tự nhiên cao gấp 9 lần so với thập kỷ 60. Hậu quả của nó rất lớn và ngành chịu
thiệt hại đầu tiên, nặng nề nhất là nông nghiệp, bởi đặc trưng của sản xuất nông
22
nghiệp là phụ thuộc nhiều vào tình hình khí hậu. Bởi những khó khăn nêu trên khiến
cho việc cung ứng lương thực, thực phẩm ngày càng khó theo kịp nhu cầu.
Ngay trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu lương thực vẫn chưa được đáp ứng đầy
đủ. Theop FAO hiện có khoảng 38 quốc gia thiếu lương thực trong đó có 24 quốc gia
ở Châu Phi. Tại Châu Á, các nước Indoneesia, CHDCND Triều tiên, Apganisstan…
cũng thiếu lương thực, cần viện trợ khoảng 5 triệu tấn/năm.
Như vậy lương thực thế giới đang đối diện với mối đe doạ lớn:
Tại kỳ họp hàng năm lần thứ 33 diễn ra tại Rome. Italia từ ngày 7-10/5/2007,
Uỷ ban an ninh lương thực thế giới (CFS) đã đưa ra một bản đánh giá mới về tình
hình an ninh lương thực thế giới. Theo đó, CFS đã nêu ra những phân tích của Tổ
chức Nông lương Liên hiệp quốc (FAO) về ảnh hưởng của các nhân tố như giá lương

thực, nhu cầu sản xuất năng lượng sinh học, chi phí thức ăn chăn nuôi, giá dầu lửa và
sự biến đổi khí hậu đến tình hình an ninh lương thực thế giới.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng, trong số 34 quốc gia hiện vẫn đang phải đối mặt với
tình trạng khẩn cấp về lương thực thì có tới hơn một nửa số nước (18) với nguyên
nhân chủ yếu là do xung đột, nội chiến. xung đột và nội chiến đã ảnh hưởng trực tiếp
tới sự ổn định của các nguồn cung cấp lương thực, tới sức khoẻ cộng đồng trên quy
mô rộng. Báo cáo đưa các nguồn cung cấp lương thực, tới sức khoẻ cộng đồng trên
quy mô rộng. báo cáo đưa ra những xem xét, đánh giá về tình hình an ninh lương
thực thế giới hiện nay theo 3 khía cạnh chính của an ninh lương thực, đó là: tính sẵn
có, tính tiếp cận và tính ổn định.
Những thách thức, cơ hội đi kèm với trợ cấp lương thực và một số giải pháp hỗ
trợ để đảm bảo an ninh lương thực một cách bền vững cũng được đề cập trong báo
cáo này.
- Bối cảnh chung
Theo ước tính FAO hiện có khoảng 854 triệu người trên thế giới đang sống
trong tình trạng nghèo đói, trong đó có 9 triệu người có các nước công nghiệp, 25
triệu người có các nước đang trong thời kỳ quá độ và 820 triệu người ở các vùng
thuộc Châu Á - Đại Tây Dương, Mỹ La tinh – Carribê, biểu hiện cả về số lượng cũng
như tỷ lệ số người thiếu đói so với giai đoạn trước đây. Nhìn chung, tốc độ giảm đói
23
nghèo chưa đạt mục tiêu đặt ra đến năm 2015 do Hội nghị thượng đỉnh thế giới về an
ninh lương thực tổ chức năm 1996.
- Đánh giá chỉ tiêu về an ninh lương thực
Theo dự kiến của FAO, sản lượng thực có hạt (sản lượng lương thực bao gồm
lúa gạo, ngô, cao lương, kê, mỳ, mạch…) thế giới năm 2006 là dưới 2 tỷ tấn, giảm
2,7% so với năm trước nhưng vẫn ở mức trung bình. Về cơ cấu, sản lượng lúa mỳ
giảm nhiều nhất, sau đó là ngũ cốc thô, trong khi sản lượng lúa gạo chỉ giảm nhẹ. Sản
lượng ngũ cốc giảm trong năm 2006 chủ yếu ở những nước sản xuất và xuất khẩu
chính.
Một số chỉ số FAO sử dụng để đánh giá tình hình an ninh lương thực thế giới.

Chỉ tiêu đầu tiên là tỷ lệ dự trữ lương thực cuối vụ dành cho tiêu dùng của thế
giới trong vụ sau. Tỷ lệ của niên vụ 2006/07 dự kiến giảm còn 19,4% so với gần 23%
của vụ trước và vẫn thấp hơn 28% so với đầu thập niên.
Chỉ số thứ hai là khả năng đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thế giới về lúa mỳ và
ngũ cốc thô, nhằm đáp ứng nhu cầu bình thường của thị trường. Chỉ số này phản ánh
nguồn cung về lương thực, bằng sản lượng sản xuất cộng dự trữ đầu vụ và nhập
khẩu.
Chỉ số thứ ba là tỷ lệ dự trữ cuối vụ của các nhà khẩu chính, quy lương thực,
trên tổng số tiêu thụ (tiêu dùng nội địa cộng xuất khẩu).
Chỉ số thứ tư, một chỉ số quan trọng thể hiện sự biến đổi theo năm của tình hình
cung hay là sự thay đổi trong sản lượng, cho biết quy mô thay đổi trên toàn cầu và
đối với tất cả các loại cây thương thực (năm 2006, sản lượng lương thực (năm 2006,
sản lượng lương thực thế giới giảm 2,7%, thấp hơn 1% so với năm trước).
Thực tế cho thấy, nhóm các nước có thu nhập thấp (LIFDC) còn nhiều bất ổn
trong thay đổi cung và mức sản lượng đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình an
ninh lương thực thế giới.
Nhóm 3 chỉ số đầu dùng để phản ánh tỷ lệ dự tữ và nguồn cung cho xuất khẩu.
Theo đó, các chỉ số này cho thấy tình hình chung là thị trường lương thực vẫn trong
tình trạng khan hiếm, đặc biệt là khi so sánh với vụ trước. Trong khi đó, triển vọng có
thể sáng sủa hơn ở chỉ số nguồn cung cấp thông qua kết quả sản xuất. Tuy nhiên, trên
24
quy mô quốc tế, giá cả lương thực và những thay đổi của nó được xem là phong vũ
tốt nhất cho biết chiều hướng phát triển của quan hệ cung cầu.
b. Khái quát về tình hình lúa gạo thế giới.
Xuất khẩu gạo năm 2007 và dự báo sản lượng gạo thế giới năm 2008
Vinanet, 14/02/2008
Năm 2007 là một năm thành công rực rỡ của ngành sản xuất và xuất khẩu lúa
gạo, bởi giá liên tục tăng. Chỉ trong vòng một năm qua, giá tăng khoảng 50-85
USD/tấn. Trong hai năm qua, giá gạo toàn cầu đã tăng gấp đôi, hiện đạt mức cao nhất
của 10 năm.

Gạo đồ và gạo chất lượng thấp của Thái Lan có giá tăng mạnh nhất, bởi đây là
nguồn cung duy nhất loại gạo này trong suốt nhiều tháng cuối năm. Giá gạo 100% đồ
của Thái Lan đã tăng từ 315 USD/tấn hồi đầu năm 2007 lên 390 USD/tấn vào cuối
năm, từ chỗ thường thấp hơn giá gạo 5 % tấn chất lượng cao, vươn lên cao hơn tới 40
USD/tấn. Giá gạo tăng mạnh không chỉ ở các thị trường nhập khẩu lớn như
Indonexia, Pakistan hay Trung Quốc, mà cả ở những nước sản xuất lớn như Ấn Độ
hay Việt Nam, góp phần đẩy lạm phát giá tiêu dùng tăng vọt.
Đầu tháng 8/2007, Chính phủ Việt Nam quyết định tạm dùng ký hợp đồng xuất
nhập khẩu gạo, chỉ cho phép thực hiện những hợp đồng đã ký, để đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Tiếp đến, ngày 9/10, Ấn Độ cũng tuyên bố cấm xuất khẩu gạo
phí – basmati để kiềm chế sốt giá nội địa. Sau đó, cuối tháng 10, Ấn Độ nới lỏng lệnh
cấm xuất khẩu, cho phép xuất gạo phi-basmati chất lượng cao có giá trên 425
USD/tấn, để tận dụng cơ hội giá gạo tăng cao trên thị trường thế giới. Việc Ấn Độ
và Việt Nam hạn chế xuất khẩu gạo đã tác động mạnh tới giá trị gạo thế giới, bởi cả
Ấn ĐỘ và Việt Nam đều là những nước xuất khẩu gạo lớn. Kết quả là khách hàng đổ
dồn vào gạo Thái Lan, đẩy nhu cầu gạo nước này tăng vọt, đặc biệt là gạo đồ. Xuất
khẩu gạo đồ Thái Lan sang Châu Phi năm 2007 ước tăng tới 3,5-4 triệu tấn, và sẽ tiếp
tục tăng vào năm 2008, sơ với chỉ 1,8 triệu tấn/năm gần đây.
Năm 2007, các nước xuất khẩu gạo chủ chốt nhìn chung đếu đối mặt với sự hạn
hẹp về nguồn cung. ước tính mậu dịch thế giới năm 2007 đạt mức cao kỷ lục, 30,2
triệu tấn , tăng 3,4% (1triệu tấn) so với năm 2006. Nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh
được coi là động lực chính dẫn đến sự gia tăng khối lượng mậu dịch gạo của thế giới
25

×