Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Đề tài mặt trận dân tộc thống nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.43 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh khẳng định: muốn tiến hành cách mạng trước hết phải có lực lượng,
muốn có lực lượng thì phải đồn kết chặt chẽ với các giai tầng trong xã hội thành một
khối thống nhất, bền vững. Tuy nhiên, để đoàn kết lại phải có cách thức, hình thức, biện
pháp khác nhau phù hợp với từng điều kiện nhất định, nhằm đảm bảo được tính thống
nhất và tính tồn diện trong mục đích đồn kết. Trong đó, việc Hồ Chí Minh tiến hành
thành lập MTDTTN là một trong những sáng tạo tiêu biểu về mặt tổ chức lực lượng cách
mạng. Một mặt, tìm mọi khả năng để quy tụ tồn thể nhân dân thuộc mọi giai cấp, tầng
lớp trong xã hội có lòng yêu nước vào một mặt trận rộng lớn; phê phán quan điểm giai
cấp cực đoan, biệt phái, có hại cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; mặt khác, đề ra
phương thức giải quyết từng bước mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội Việt Nam.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh,
Mặt trận đã quy tụ được lực lượng cách mạng rộng lớn của toàn dân tộc, tạo nên sức
mạnh vô địch để giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại ở quan niệm, những
lời kêu gọi hiệu triệu, những khẩu hiệu đơn thuần, mà theo Người đoàn kết phải trở thành một
chiến lược cách mạng có tính chất lâu dài, ổn định, bền vững, rộng lớn trên phạm vi dân tộc và
quốc tế, mới có thể quy tụ, tập hợp được rộng rãi các lực lượng, nhằm thực hiện thắng lợi các mục
tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Theo Người, đại đoàn kết dân tộc phải là một chiến lược lâu dài
của cách mạng; bởi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng Việt
Nam cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy truyền thống yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc ta trong lịch
sử. ĐCSVN và Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần
chúng nhân dân là những người sáng tạo và làm nên lịch sử. Ngay khi Hồ Chí Minh cịn
hoạt động ở nước ngồi, Người đã khẳng định: “Ở Đơng Dương chúng ta có đủ tất cả
những cái mà một dân tộc có thể mong muốn. Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người
tổ chức” [27, tr.143]. Từ đó, Người xác định: “Đối với tơi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh
giành tự do, độc lập” [24, tr.209]. Bởi theo Người, Mặt trận dân tộc là một tổ chức quan
trọng hàng đầu, không thể thiếu để nhân dân ta tập hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp



1


trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, cũng
như sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: trong thời gian
tới tình trạng: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội
còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà
nước ta. Bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời
là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thòi gian tới. Các thế lực thù địch tiếp
tục thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” “bạo loạn lật đổ”, chúng tìm mọi cách chia rẽ
khối đại đồn kết dân tộc, kích động hằn thù dân tộc, nhằm làm giảm sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong hồn
cảnh đó, Đảng, Nhà nước ta khẳng định, cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, nhằm gắn chặt bền vững mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước và các tầng lớn trong xã hội, tạo thành một khối đoàn kết, thống nhất để thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.
Từ những vấn đề trên cho thấy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những sáng
tạo của Hồ Chí Minh về MTDTTN là rất cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và
thực tiễn, góp phần làm sâu sắc hơn di sản của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam; đồng thời, cung cấp thêm những cơ sở khoa học, những luận cứ trong phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vững mạnh trong thời kỳ mới. Với ý nghĩa đó, Ban
đề tài lựa chọn vấn đề: “Sáng tạo của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất và
vận dụng trong tình hình hiện nay” làm đề tài cấp Khoa năm 2021.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Nhóm cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về MTDTTN.

Cuốn Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội ở nước ta hiện nay, do TS Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên)
Nxb. CTQG, H. 2014 [65]. Cuốn sách đã đi sâu luận giải tính phổ biến và đặc thù của các tổ
chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của nước ta. Đồng thời, các tác giả cịn đề cập
khá sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị, vị trí, chức năng nhiệm vụ của Mặt trận Tổ

2


quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Từ đó, luận giải cơ sở lý luận - thực tiễn của việc đổi
mới tổ chức này trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Cuốn Hồ Chủ tịch và vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất, của tác giả Trịnh Gia
Ban, Nxb.Thông tin, H.1990 [2]. Cuốn sách khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là
người đặt nền tảng vững chắc cho vấn đề xây dựng MTDTTN, chỉ rõ mục đích, chức
năng, khả năng to lớn của MTDTTN trong suốt thời gian qua. Đồng thời, tác giả cũng
khẳng định: Hồ Chí Minh chính là linh hồn của MTDTTN, là biểu tượng sáng ngời, cao
đẹp nhất của chủ nghĩa Anh hung cách mạng. Bên cạnh đó, tác giả cịn khái qt những
đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với MTDTTN. Theo tác giả đây là tài sản
vô cùng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, kể cả trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù cuốn sách không trực
tiếp đề cập cụ thể những sáng tạo của Hồ Chí Minh về MTDTTN. Tuy nhiên qua nghiên
cứu vai trị, nội dung của MTDTTN có thể giúp chúng ta thấy được những đóng góp xuất
sắc của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đây chính là cơ sở quan trọng để
Ban đề tài đi sâu nghiên cứu những sáng tạo của Người đối với MTDTTN.
Cuốn Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb.CTQG, H.1972 [56]. Cơng trình gồm
tập hợp những bài nói, bài viết và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự đoàn kết, tập
hợp lực lượng trong MTDTTN. Theo Người, đồn kết là sức mạnh vơ địch, là một nhân
tố chủ yếu để chiến thắng kẻ thù của cách mạng Việt Nam. Về lực lượng đoàn kết, tác giả
cho rằng: khơng những đồn kết nhân dân trong nước, mà cịn phải đồn kết chặt chẽ với

anh em xã hội chủ nghĩa, đồn kết với giai cấp cơng nhân và các dân tộc bị áp bức trên
khắp năm châu bốn biển, đoàn kết với tất cả mọi lực lượng đấu tranh cho hịa bình và tiến
bộ nhân loại trên tồn thế giới, nhằm quy tụ và tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc và
toàn thế giới.
Bài viết Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại đồn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống
nhất, của tác giả Nguyễn Túc [71]. Bài viết đã khẳng định giá trị to lớn của đại đồn kết
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ, nó khơng chỉ dừng lại ở những quan niệm,
tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung chung, mà quan trọng đã trở thành một chiến lược
cách mạng lâu dài, xuyên suốt, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta trong suốt chiều dài lịch sử, với tinh thần: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;

3


thành công, thành công, đại thành công”. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định: đoàn kết
trong Mặt trận phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng lớn mạnh có tổ chức ở
xung quanh Đảng. Tổ chức đó chính là MTDTTN. Và tác giả cũng cho rằng: nhờ có
MTDTTN mới dẫn đến những thắng lợi to lớn ở các thời kỳ cách mạng: 1930 - 1931,
1936 - 1939, 1939 - 1945,...
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận
dân tộc thống nhất
Cuốn Công tác Mặt trận, tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc cơ sở, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2004 [4]. Cơng trình đã đi sâu phân tích, làm rõ những quan điểm của
Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác Mặt trận từ những ngày thành lập đến nay.
Trong đó, chủ yếu tập trung phân tích, luận giải, đánh giá thực trạng tình hình thực hiện
cơng tác Mặt trận trong những năm đất nước bắt đầu đổi mới đến hiện nay. Bên cạnh đó,
tác giả cịn tập trung, làm rõ các vấn đề về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động
của MTDTTN, nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn và công tác tham gia xây dựng Đảng
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.
Cuốn Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quá khứ và hiện tại , của tác giả

Trần Hậu, Nxb.CTQG, H.2011 [22]. Cuốn sách chủ yếu đi sâu nghiên cứu giá trị lịch
sử truyền thống của MTDTTN Việt Nam, những thành tựu, kinh nghiệm của Mặt trận
dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và của tư tưởng Hồ Chí Minh ở các giai đoạn cách
mạng. Ngồi ra, cơng trình cịn đề cập một số vấn đề cần tập trung nghiên cứu trong
giai đoạn hiện nay, đề xuất một số ý kiến đóng góp vào việc đổi mới hoạt động của
MTDTTN trong thời gian tới.
Cuốn Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Mặt trận thống nhất trong đấu
tranh giành chính quyền 1930 -1945, của tác giả Trần Văn Dương Nxb.Thông tin, H.
2004 [5]. Cuốn sách chủ yếu đi phân tích những chủ trương và sự chỉ đạo tài tình của
Đảng trong xây dựng MTDTTN. Ngồi ra, tác giả cịn trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn
và một số kinh nghiệm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng ta thời kỳ 1930 - 1945. Từ đó,
vận dụng vào xây dựng khối đồn kết tồn dân trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên đây của các tập thể và cá nhân nghiên cứu
về MTDTTN đã góp phần làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
MTDTTN theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Một số công

4


trình đã đi sâu nghiên cứu vị trí, vai trị Mặt trận, nội dung, nhiệm vụ, phương thức hoạt động
MTDTTN, cơ chế, hình thức tổ chức, nguyên tắc hoạt động MTDTTN. Tuy nhiên, về tổng thể,
đến nay chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về những sáng tạo của Hồ Chí Minh về
MTDTTN một cách độc lập có tính chất hệ thống, chuyên sâu. Từ những nhận định, đánh giá
trên đây, Ban đề tài nhận thấy cần có một cơng trình nghiên cứu độc lập, chi tiết, tồn diện, hệ
thống, chuyên sâu về vấn đề này, góp phần làm rõ thêm những giá trị tiêu biểu của Người đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay và mai sau.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những sáng tạo, cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh về MTDTTN và đề
xuất những định hướng vận dụng trong tình hình hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan niệm, cơ sở hình thành những sáng tạo của Hồ Chí Minh về
MTDTTN.
- Làm rõ nội dung và giá trị những sáng tạo của Hồ Chí Minh về MTDTTN.
- Làm rõ một số định hướng vận dụng những sáng tạo của Hồ Chí Minh về
MTDTTN trong tình hình hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh về MTDTTN và vận dụng trong tình hình hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Từ năm 1920 đến nay.
- Về nội dung: Nghiên cứu những sáng tạo của Hồ Chí Minh về MTDTTN đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Về khơng gian: Các tác phẩm, bài nói, bài viết và thực tiễn hoạt động cách mạng
của Hồ Chí Minh liên quan đến đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng trong suốt q
trình cách mạng. Các cơng trình, tài liệu của các học giả, các tổ chức có liên quan về Hồ
Chí Minh đã được cơng bố.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử và kết hợp của hai
phương pháp đó là chủ yếu; đồng thời, sử dụng các phương pháp khác như: thống kê,

5


phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp chuyên gia,... nhằm làm rõ nội dung nghiên
cứu của đề tài đặt ra.
6. Cái mới của đề tài
Thành công của đề tài sẽ góp phần gia tăng tri thức về vấn đề đại đoàn kết dân tộc,
đặc biệt là những sáng tạo của Hồ Chí Minh về MTDTTN, cung cấp cho lãnh đạo, chỉ huy,
đội ngũ cán bộ, giảng viên những giá trị và cơ sở khoa học có tính thuyết phục.

7. Giá trị và hướng sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài
* Giá trị của đề tài
- Kết quả của đề tài góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đối
với hoạt động liên kết, tập hợp, đoàn kết các lực lượng của cách mạng, nhất là trong tình
hình hiện nay.
- Cung cấp những luận cứ khoa học xác đáng những phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh
về MTDTTN. Rút ra giá trị và ý nghĩa đối với công tác Mặt trận ở nước ta hiện nay.
- Đề tài còn sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, về MTDTTN theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Khoa và
Học viện trong thời gian tới.
* Hướng sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài
Sau khi nghiệm thu đề tài sẽ được chuyển giao cho phòng Khoa học quân sự,
phòng Thơng tin Khoa học qn sự, Khoa Hồ Chí Minh học làm cơ sở để Khoa Hồ
Chí Minh học ứng dụng trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy cho các đối tượng trong
và ngoài Học viện.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.

6


Chương 1
SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
1.1. Quan niệm và cơ sở hình thành sáng tạo của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân
tộc thống nhất
1.1.1. Một số quan niệm cơ bản
* Quan niệm về Mặt trận dân tộc thống nhất
MTDTTN Việt Nam là tổ chức do ĐCSVN và Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo,

được thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1930. Trải qua các thời kỳ cách mạng, MTDTTN
không ngừng phát huy truyền thống yêu nước, tự lực tự cường, đoàn kết thống nhất của
dân tộc Việt Nam. Mặc dù Mặt trận có nhiều lần thay đổi hình thức tên gọi khác nhau,
nhưng khơng làm thay đổi bản chất, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận, ngược
lại còn làm cho Mặt trận không ngừng lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng, quy mô cũng
như phương thức hoạt động. Nhằm động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện
thắng lợi các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đấu tranh thống nhất nước nhà;
cũng như sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới - XHCN hiện nay.
Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện
xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [23].
Từ khái niệm cho thấy, Mặt trận là tổ chức liên minh chính trị bao gồm:
Tổ chức chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các tổ chức chính trị xã hội: Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam, Hội Nơng dân
Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

7


Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam,
Hiệp hội các hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam,... Các tổ chức xã hội: Hội Chữ thập đỏ, Hội người cao tuổi,...
Các thành phần xã hội: Dân tộc, tôn giáo, các hiệp hội doanh nghiệp, các cá nhân

tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội; các nhân sĩ, trí thức, đại diện người Việt
Nam ở nước ngồi,...
Mặt trận có các đặc điểm:
Thứ nhất, Mặt trận thành lập để tổ chức, thực hiện thắng lợi các đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng. Mục đích là nhằm đảm bảo q trình lãnh đạo của Đảng
luôn dân chủ, khách quan, trung thực, đúng nguyên tắc, quy định, điều lệ. Điều này cho
thấy, Mặt trận có vai trị to lớn trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng; làm cho các chủ trương của Đảng nhanh chóng đi vào thực tiễn đời sống nhân dân
và mang lại hiệu quả thiết thực.
Thứ hai, Mặt trận thực hiện chính sách đồn kết dân tộc. Đặc điểm này thể hiện sứ
mệnh to lớn của dân tộc trao cho mặt trận, bởi vì, lịch sử Việt Nam đã từng trải qua các
cuộc chia cắt đất nước, từ thời phong kiến đến thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Vì vậy, thực hiện đồn kết dân tộc là đặc điểm nổi bật của mặt trận, đúng như Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân ta” [50, tr.622].
Thứ ba, MTTQVN được tổ chức rộng khắp theo cấp hành chính từ Trung ương
đến cơ sở.
Ở Trung ương có Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ở địa phương có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương (gọi
chung là cấp huyện); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn (gọi chung
là cấp xã). Ở mỗi cấp có Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Thứ tư, Mặt trận hoạt động chủ yếu trên cơ sở tài chính của Nhà nước, được Nhà
nước cung cấp các điều kiện cơ sở vật chất để làm việc và hoạt động.

8



Mặt trận ra đời nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng
trong các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, trong thời kỳ chưa có chính quyền, MTDTTN là
công cụ đắc lực của Đảng để vận động quần chúng, tập hợp, tổ chức quần chúng để tiến
hành các cuộc đấu tranh cách mạng, nhằm giành chính quyền về tay nhân dân. Khi Đảng
giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, MTDTTN tiếp tục phát huy vai trị
của mình trong vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng tham gia xây dựng Đảng; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Bằng những Cương lĩnh, chính sách và khẩu hiệu chính trị đúng đắn, với những chương
trình hành động thiết thực, cụ thể, đúng ý Đảng, hợp lịng dân, Mặt trận đã tập hợp ngày
càng đơng đảo các tầng lớp nhân dân và nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước, sức mạnh
đại đoàn kết của nhân dân, góp phần làm nên trang sử hào hùng nhất, vẻ vang nhất của
dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh.
* Quan niệm sáng tạo của Hồ Chí Minh
Sáng tạo của Hồ Chí Minh là sáng tạo trong hoạt động cách mạng Việt Nam, là quá
trình gắn liền với sự thay đổi về phương pháp, phương thức, cách thức và cách giải quyết
các vấn đề làm thay đổi tình hình cách mạng; nhằm đáp ứng được những nhu cầu của
thực tiễn xã hội Việt Nam, đồng thời bảo đảm tính tồn diện từ chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, quân sự,... Đó là việc đưa ra chiến lược và sách lược cách mạng mới, cách thức
biện giải hoàn toàn mới về phương thức, phương pháp cách mạng mới, thúc đẩy xã hội
phát triển ngày càng cao hơn, hiệu quả hơn, mà trước đó chưa có tổ chức, cá nhân nào
đưa ra.
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhà chính trị chuyên nghiệp, nhà cách mạng sáng
tạo về lý luận cách mạng. Bản chất của sự sáng tạo đó chính là việc phát hiện, tìm ra
những luận điểm, quan điểm mới có ích, mang lại giá trị lớn cho sự phát triển của cách
mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh ln nắm vững
bản chất cách mạng, thực tiễn Việt nam; các sự kiện và các mối liên hệ bên trong, bên
ngoài; trong nước, thế giới, từ đó đưa ra các chủ trương, giải pháp thích hợp, cách ứng xử
hiệu quả đầy tính sáng tạo, khoa học cho cách mạng theo chiều hướng phát triển. Theo
đó, Hồ Chí Minh có rất nhiều sáng tạo nổi bật như; sáng tạo về con đường giải phóng dân

tộc; sáng tạo về đoàn kết, tổ chức tập hợp lực lượng cách mạng; sáng tạo trong việc thành

9


lập ĐCSVN; sáng tạo trong chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn diện; sáng tạo trong xây dựng
Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam; sáng tạo về MTDTTN,… trong đó, sáng tạo về MTDTTN là
một trong những sáng tạo tiêu biểu của Hồ Chí Minh về vấn đề đồn kết, phát huy sức mạnh
tổng hợp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.
* Quan niệm sáng tạo của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất
Nhìn lại quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chúng ta thấy, Hồ Chí
Minh ln thể hiện tinh thần của một nhà cách mạng sáng tạo ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Dù ở đâu, thời điểm nào, Hồ Chí Minh cũng ln ln nắm vững bản chất các sự
kiện và các mối liên hệ bên trong và bên ngồi, từ đó đưa ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử
khoa học, sáng tạo và hiệu quả.
Sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về MTDTTN là sáng tạo về tổ chức và tập
hợp lực lượng cách mạng để tiến hành cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam; là sản phẩm
của quá trình vận dụng và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách
mạng Việt Nam, trên cơ sở đó Người bổ sung, phát triển những giá trị mới phù hợp với
thực tiễn đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Bao gồm một hệ thống những luận điểm mới
về: Sáng tạo trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của MTDTTN; Sáng tạo trong vận
dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng trong lịch sử, chỉ ra tính
tất yếu phải xây dựng MTDTTN ở Việt Nam; Sáng tạo về hình thức tổ chức MTDTTN;
Sáng tạo về giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong xây dựng MTDTTN;
Sáng tạo về giải quyết các mối quan hệ cơ bản giữa các thành viên trong MTDTTN.
Nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây dựng xã
hội mới - XHCN.
Từ cách tiếp cận trên đây, Ban đề tài đi đến thống nhất quan niệm sáng tạo của Hồ Chí
Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất là: một hệ thống những quan điểm tồn diện và sâu
sắc về cơng tác chuẩn bị các mặt, các lực lượng; sáng tạo về vận dụng những quan điểm

lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vận động quần chúng; sáng tạo về hình thức, tổ
chức, nguyên tắc của MTDTTN; sáng tạo về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; những
sáng tạo đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục là những định hướng quan trọng
trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

10


1.1.2. Cơ sở hình thành sáng tạo của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc
thống nhất
* Cơ sở tư tưởng, lý luận
Từ truyền thống dân tộc Việt Nam
Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Trải qua hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân ta đã xây dựng bề dày về truyền thống yêu
nước, đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống đó được phát triển theo thời gian, trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt
Nam, làm cho vận mệnh mỗi người dân, luôn gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng dân
tộc; lợi ích cá nhân ln thống nhất và hịa vào lợi ích dân tộc. Truyền thống q báu đó
đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh tại Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng (tháng 2/1951): “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [42, tr.38]. Truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường, bất
khuất, đồn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là cơ sở quan
trọng hàng đầu thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước, thành lập ĐCSVN và thành lập
MTDTTN, nhằm đấu tranh giành tự do, độc lập cho dân tộc.
Truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân, tương ái của dân tộc. Ngay từ buổi
đầu dựng nước, nhân dân ta đã đồn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, sống coi trọng tình
làng, nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, ln giúp nhau trong khó khăn hoạn nạn, với tư
tưởng luôn hiện lên trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam: “Bán anh em xa mua láng giềng

gần”. Tinh thần “đoàn kết, tương thân, tương ái” là giá trị nổi bật trong truyền thống dân tộc Việt
Nam. Phù Đổng Thiên Vương là một trong những truyền thuyết tiêu biểu được lưu giữ và thể hiện
sâu sắc tinh thần “tương thân, tương ái”, nhất là những lúc đất nước gặp nguy nan, khó khăn, hoạn
nạn. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh đã biết kế thừa, phát huy sức mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình,
đồng sức, đồng lịng, đồng minh). Người thường nhấn mạnh: nhân dân ta từ lâu sống với nhau có
tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy được Người nâng lên một trình độ mới cao đẹp hơn, trở thành tình
nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà, rộng hơn nữa là tình cảm dân
tộc, giai cấp và nhân loại.

11


Truyền thống coi trọng nhân dân, lấy dân làm gốc. Ở nước ta, chủ nghĩa yêu nước
có trước chủ nghĩa cộng sản, phong trào yêu nước có trước phong trào cơng nhân, lịng
dân có trước ý Đảng. Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nhận
thức và đánh giá đúng đắn vai trị, vị trí, sức mạnh của nhân dân, Người xem nhân dân là
người chủ, là chủ thể tối cao của sự nghiệp cách mạng. Người nhắc nhở cán bộ, đảng
viên phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này, bởi dân ta “đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị
chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng,
nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất thành với Đảng” [ 50, tr.622]. Truyền thống
Nhân dân ta đã đúc rút nên chân lý đời đời bền vững đó là: “Khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc” là thượng sách giữ nước mà cha ông ta đã trao truyền lại.
Chính từ truyền thống đồn kết, coi trọng nhân dân, lấy dân làm hậu thuẫn của dân
tộc Việt Nam là cơ sở quan trọng tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh trong q
trình tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, góp phần hình thành tư tưởng sáng tạo
về xây dựng MTDTTN sau này của Người.
Từ các hình thức, tổ chức tập hợp lực lượng trong lịch sử dân tộc Việt Nam qua các
triều đại. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam ln có nhận thức đúng về vai trò, sức mạnh to

lớn của quần chúng nhân dân, chăm lo sức mạnh nhân dân. Người Anh hùng dân tộc Trần
Hưng Đạo đã khẳng định để giữ nước thì ý chí của dân chúng chính là thành trì vững
chắc nhất, thể hiện tư tưởng: “chúng chí thành thành”, ý chí nhân dân vững như thành
đồng để bảo vệ Tổ quốc. Từ sau thế kỷ X, triều Lý, Trần đã áp dụng hàng loạt các biện
pháp thúc đẩy nông nghiệp và thủ công nghiệp; quan tâm, chú trọng mở mang hệ thống
đê điều, thủy lợi và miễn, giảm thuế cho những địa phương bị thiên tai, hạn hán, mất
mùa,... Đặc biệt, với chính sách “Ngụ binh ư nơng”, giai cấp phong kiến thời kỳ này đã
bước đầu kết hợp kinh tế với quân sự, kinh tế với quốc phòng, an ninh,… vừa bảo đảm có
lực lượng sản xuất, vừa có lực lượng thường trực sẵn sàng chiến đấu, qua đó giảm bớt
gánh nặng thuế khóa cho nhân dân. Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa thế giới, nhà quân
sự lỗi lạc cũng từng tổng kết và đưa ra một chân lý có ý nghĩa gốc rễ về vai trị, sức mạnh của
nhân dân: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Tư tưởng này là nền tảng quan
trọng để Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi phát huy tốt sức mạnh của nhân dân, đưa cuộc khởi nghĩa

12


Lam Sơn vượt qua nhiều khó khăn, thử thách đi đến thắng lợi hoàn toàn, đánh bại quân Minh,
giành lại biên cương, bờ cõi cho dân tộc. Kế thừa tư tưởng tiến bộ đó, Nguyễn Huệ có chính
sách “khuyến nơng” nhằm kích thích sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân,…
Từ những quan điểm có ý nghĩa to lớn để động viên nhân dân, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, tăng cường sức mạnh toàn dân, toàn diện cả về nhân lực, vật lực góp
phần tạo dựng sức mạnh tổng hợp để giữ vững biên cương, bờ cõi nước nhà. Nói cách
khác, trên cơ sở quan tâm đến quyền lợi, lợi ích của nhân dân, các triều đại phong kiến
Việt Nam đã khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân để đánh bại các thế lực ngoại bang
xâm lược, bảo vệ được tôn miếu của dân tộc. Đây là một trong những cơ sở quan trọng
để Hồ Chí Minh nhận định, đánh giá, từ đó đi tới khẳng định lực lượng và sức mạnh của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Đó là phải thành lập MTDTTN,
để nhằm quy tụ, tập hợp, đoàn kết các lực lượng cả trong nước và quốc tế để cùng nhau
thực hiện mục tiêu chung của cách mạng.

Từ vị trí địa chính trị của Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có vị trí chiến lược rất
quan trọng, nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đơng Nam Châu Á. Phía Bắc
(bao gồm Đơng Bắc và Tây Bắc) giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía
Đơng giáp Biển Đơng. Có đường biên giới chung với 3 nước là 4.639 km. Biên giới phía
Bắc của Việt Nam giáp với Trung Quốc có chiều dài trên đất liền là 1.350 km. Từ những đặc
điểm đó đã tạo ra nhiều thuận lợi trong giao thương, buôn bán, hợp tác, phát triển với các
nước. Song về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cũng đặt ra khơng ít khó khăn, vướng mắc, phức
tạp, nhằm ổn định tình hình, bảo về bờ cõi, giang sơn, xã tác, cũng như sự bình yên cuộc
sống của nhân dân. Do đo, từ lâu để ổn định cuộc sống, chống lại thiên nhiên, cũng như giặc
ngoạn bang, nhân dân ta đã biết đoàn kết là sự mạnh, đồn kết là vơ địch để chiến thắng kẻ
thù hung bạo, với tinh thần lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo,
cùng nhau bảo vệ xóm làng, quốc gia, một dân tộc.
Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu, làm nên sức mạnh vô địch của dân tộc
Việt Nam, được hun đúc trong chiều dài lịch sử, trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước. Trong lịch sử, sức mạnh của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc với cơ sở đoàn kết
đã tạo cho cộng đồng người Việt sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm và chinh phục
thiên nhiên suốt quá trình dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh lịch sử. Thời kỳ
Bắc thuộc trên một ngàn năm, dù bị áp đặt ách thống trị và bóc lột tàn bạo nhưng nhân

13


dân ta đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh, đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt,
giành độc lập tự chủ cho dân tộc. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc về đặc
điểm của địa chính trị cũng như truyền thống quý báu của nhân dân ta trong lịch sử, để
tạo dựng, hình thành MTDTTN sau này.
Tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương Tây
Từ tư tưởng đại đồng trong nho giáo. Đại đồng là một tư tưởng từ thời cổ đại của
Trung Quốc nói đến một thế giới lý tưởng mà con người có thể đạt tới sự thống nhất cao về
mục tiêu, lợi ích; thể hiện cho ước muốn về một xã hội tốt đẹp trong tương lai của con người.

Xã hội đó được thể hiện bằng việc mọi người luôn yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, an cư
lạc nghiệp, khơng có sự phân biệt lớn, khơng có chiến tranh, đặt yếu tố cơng bằng, bình
đẳng lên vị trí hàng đầu. Thế giới như vậy được gọi là “thế giới đại đồng”. Hồ Chí Minh
sinh ra và trưởng thành trong một gia đình nhà nho yêu nước, Người rất am hiểu và
nghiên cứu sâu sắc về các học thuyết nho giáo ngay từ những năm 10 tuổi. Và sau này,
chính Người đã khẳng định: “Tơi xuất thân từ một gia đình nhà nho Việt Nam trong đó
các thanh niên đều theo học Đạo Khổng”.
Để cổ vũ cho phong trào dân chủ, đấu tranh cho tự do, bình đẳng, bác ái, Người
đã viết bài: “Phong trào cộng sản quốc tế ở Đông Dương” đăng trên tạp chí Laruvue
Communiste số 15 tháng 5/1921. Trong bài viết Người chỉ rõ: “Khổng Tử vĩ đại (551TCN) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản và quyền lợi
của con người. Theo Người, Khổng Tử cũng đã từng dạy: “thiên hạ sẽ thái bình khi
thế giới đại đồng”,... Mặt khác, nếu gạt đi những hạn chế nhất định về xã hội lúc bây
giờ, thì quả thật nho giáo đã trình bày tương đối hồn chỉnh, có hệ thống về thuyết đại
đồng: “Thiên hạ vi công” (Thiên hạ là của công), “Tuyển hiền nhiệm năng” (Lựa chọn người
hiền, sử dụng người tài), “Các tận kỳ năng” (Ai nấy dốc hết năng lực của mình), “Giảng tín tu
mục” (Trọng điều tín, chăm lo sự hịa mục), “Các tận kỳ sở” (Ai nấy đều được nhận những gì
thích hợp với mình). Từ đây, có thể khẳng định tư tưởng về thế giới đại đồng trong nho giáo có
ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc hình thành những sáng tạo về MTDTTN của Hồ Chí Minh.
Sau này, trong nhiều bài nói và viết, Người thường dẫn chứng những luận điểm của
Khổng Tử rất nổi tiếng để khẳng định về sự đoàn kết theo mục tiêu, tư tưởng thế giới đại
đồng của nho giáo như: “tứ hải giai huynh đệ” hay trong tác phẩm: “Đường Kách mệnh”,
Người nhấn mạnh: “Làm cho thiên hạ đại đồng, ấy là thế giới kách mệnh” [29, tr.287].

14


Tư tưởng đoàn kết nhân dân trong phật giáo. Nghiên cứu về phật giáo, Hồ Chí
Minh cho rằng: phật giáo là một tơn giáo lớn, có nhiều tiến bộ phù hợp với đời sống, văn
hóa và con người Việt Nam. Đặc biệt, trong phật giáo khơng có sự phân biệt lớn về thái
độ phân biệt đẳng cấp. Phật giáo chỉ rõ: “Khơng có đẳng cấp trong dịng máu cùng đỏ

như nhau, khơng có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài ra, phật giáo cũng
thể hiện tinh thần đoàn kết và khơng có sự phân biệt đối xử giữa người tu hành và tín đồ,
quan điểm của đạo phật giáo là: “Tứ chúng đồng tu”, đó là tăng ni, phật tử nam và phật tử
nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có kết quả. Theo Hồ Chí Minh, đây là
một tư tưởng tiến bộ trong phật giáo cần được tiếp thu, vận dụng, phát triển sáng tạo trong
việc tập hợp xây dựng lực lượng cho cách mạng. Thực tiễn, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ của dân tộc, nhiều tăng ni, cư sĩ, phật tử phật giáo Việt Nam đã tham gia cách mạng
và nhiều người đã anh dũng hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Nhiều ngơi chùa phật giáo Việt Nam
đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, dự trữ lương thảo, quân nhu, đạn dược,... phục vụ
Quân đội trong suốt những năm tháng chiến tranh. Theo Người, quan điểm, lập trường của phật
giáo là hướng tới lý tưởng giác ngộ chân lý, hòa hợp chúng sinh, hịa bình dân tộc và cơng bằng xã
hội, nhằm phục vụ dân tộc, Tổ quốc và nhân loại.
Tư tưởng của Tơn Trung Sơn về MTDTTN. Hồ Chí Minh nghiên cứu các chủ trương
và chính sách của Tơn Trung Sơn, Người nhận thấy có rất nhiều điểm tiến bộ, mới mẻ về
cách mạng giải phóng dân tộc. Do sớm giác ngộ tư tưởng dân tộc - dân chủ, nên sau khi
tốt nghiệp trường Y khoa Bác Tế (Quảng Châu), Tôn Trung Sơn đã dẫn thân vào con đường
hoạt động cách mạng đầy sôi nổi, nhiệt huyết. Đơn cử, năm 1894, ông thành lập Hưng Trung
Hội ở Honolulu (Hawai), đề ra cương lĩnh “Đánh đuổi Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa”;
sau đó, ơng cho thành lập “Chính phủ liên hiệp”, thu hút nhiều nhân sĩ và thanh niên Trung
Quốc yêu nước tham gia, qun góp kinh phí, mua sắm vũ khí chuẩn bị các cuộc khởi nghĩa ở
Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898). Ơng cịn dự định kết hợp với phong trào phản đế của
Nghĩa Hoa Đoàn ở miền Bắc, nhưng không thành công, ông lại phải lưu vong ra nước ngoài
để chờ thời cơ tập hợp lực lượng tham gia cách mạng.
Năm 1905, Hưng Trung Hội của Tôn Trung Sơn, Hoa Hưng Hội của Hoàng Hưng
(tức Hoàng Khắc Cường) cùng với các hội đảng cách mạng khác họp tại Tokyo (Nhật
Bản) lập ra một chính đảng cách mạng thống nhất lấy tên là Trung Quốc Cách mạng

15



Đồng minh Hội, gọi tắt là Đồng minh Hội, đề ra cương lĩnh hành động là “Đánh đuổi
Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, bình quân địa quyền”.
Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng rất lớn đến Tôn Trung Sơn, rồi
Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập tạo nên bước ngoặt trong tư tưởng đấu tranh cách mạng
của ông. Tôn Trung Sơn kết hợp với Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ trương lập Mặt trận
thống nhất cách mạng, đề ra ba chính sách lớn “Liên Nga, Liên Cộng, ủng hộ Nông Công” Tam đại chính sách, đồng thời triệu tập Đại hội Đại biểu Trung Hoa Quốc dân Đảng (1924)
xác định lại nội dung mới của Tam dân chủ nghĩa, đề ra cương lĩnh chính trị “phản đế phản
phong”, xố bỏ các “Điều ước bất bình đẳng”, triệu tập “Quốc dân hội nghị”.
Hồ Chí Minh, chủ trương của Tôn Trung Sơn về thành lập Mặt trận thống nhất cách
mạng có nội dung hết sức tiến bộ trong đoàn kết, tập hợp lực lượng phục vụ cho cách
mạng Trung Quốc, tạo điền đề to lớn cho cách mạng Trung Quốc sau này. Thể hiện. Một
là, chống đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ ràng; Hai là, tuyên bố đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa và giai cấp vơ sản quốc tế; Ba là, đồng tình
với cách mạng Nga. Đây chính là tình thần của “chủ nghĩa Tam dân mới”, được Tôn
Trung Sơn bổ sung trong thời kỳ hoạt động ở Quảng Châu nhằm cải tổ Quốc dân Đảng
dưới sự giúp đỡ của Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc” [62, tr.279-280].
Lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân đối với
sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về
những sáng tạo MTDTTN nói riêng được hình thành và phát triển thực sự khi Người đọc
được Luận cương V.I.Lênin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa. Từ đó, Hồ Chí Minh
dần dần nhận thức đúng bản chất quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai
trò quyết định của quần chúng trong lịch sử đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô
sản. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, khơng ai khác chính nhân dân là những người quyết định và làm nên lịch sử và cũng
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Thực tiễn đã minh chứng, quần chúng nhân dân là chủ thể
tạo ra mọi của cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Trong tác phẩm: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (1843), C.Mác đã
chỉ rõ: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua,
mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân,… [3, tr.347];


16


“không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” [3,
tr.350]. Đặc biệt, trong tác phẩm: Gia đình thần thánh (1844), C.Mác và Ph.Ăngghen
nhận xét vai trò của quần chúng nhân dân đặc biệt thể hiện rõ trong thời kỳ cách mạng:
“Hoạt động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự
nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo” [3, tr.123]. Phát triển tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong điều kiện mới. Trong tác phẩm: Chào mừng những người cộng sản Ý,
Pháp và Đức (1919), VI.Lênin đã khẳng định: “Khơng có sự đồng tình ủng hộ của đại đa
số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vơ sản, thì
cách mạng vơ sản không thể thực hiện được,…” [72, tr.251].
Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Dễ mười lần khơng dân chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đặc biệt, suốt cả
cuộc đời hoạt động cách mạng, Người ln có niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh nhân
dân, chăm lo cho nhân dân và lấy dân làm gốc. Tuy nhiên, theo Người để phát huy
được sức mạnh của quần chúng nhân dân, Đảng, Nhà nước cần phải có những cách
thức, hình thức sáng tạo, thích hợp để tập hợp, giáo dục, giác ngộ cho họ đưa học ra
đấu tranh để giành tự do, độc lập.
Từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp trong cách mạng vô
sản. Theo các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen và sau này là V.I.Lênin; cũng như từ lý
luận và thực tiễn của phong trào công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX, trực tiếp nhất là
cách mạng tư sản Đức năm 1848 và Công xã Pari năm 1871 đã khẳng định: cuộc cách
mạng vô sản hay phong trào công nhân ở các nước không thể giành thắng lợi trọn vẹn
trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản nếu khơng có khối liên minh giữa giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân. Trong đó, giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo và giai cấp
nông dân là lực lượng tham gia chủ yếu của cuộc cách mạng vơ sản. Hồ Chí Minh, Cách
mạng Tháng Mười Nga 1917, phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên
minh công - nông và trong điều kiện nước Nga lúc đó đang tham gia chiến tranh thế giới

lần thứ nhất, V.I.Lênin đã nói đến liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
với binh lính, vận động thành lập các xơ viết cơng nhân, nơng dân và binh lính. Theo lập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như xuất phát từ thực tiễn của xã hội
Việt Nam và từ yêu cầu, khả năng tập hợp lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương

17


trong mọi giai đoạn cách mạng cơng, nơng, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối
thống nhất để cùng nhau thực hiện các mục tiêu chung của cuộc cách mạng.
Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thức tập hợp lực lượng cách mạng vô
sản. Ra đi tìm đường cứu nước, trở thành nhà hoạt động cách mạng qua nhiều nước trên
thế giới; từ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, cán bộ của Quốc tế Cộng sản, và sau này trên
cương vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước. Hồ Chí Minh ln kết hợp hài hịa sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện các mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam. Đặc
biệt, ngay từ rất sớm, Người đã có ý thức sâu sắc về việc: phải đặt cách mạng Việt Nam
là bộ phận của cách mạng thế giới, tham gia cùng dòng chảy và xu hướng của cách mạng
vô sản thế giới. Trong đó, việc sáng lập “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” là một
minh chứng điển hình cho chủ trương liên minh giai cấp, tập hợp lực lượng cách mạng
của giai cấp vô sản, nhằm gắn kết các lực lượng cách mạng thuộc địa trên phạm vi toàn
thế giới thành một khối thống nhất chống chủ nghĩa thực dân,...
Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin về mục tiêu chung của giai cấp vơ sản trên tồn
thế giới. Trong tác phẩm: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăngghen
thay mặt Liên đoàn những người cộng sản viết (3/1848) đã có lời kêu gọi và cũng là
mệnh lệnh hành động của tất cả những người vô sản trên phạm vi tồn thế giới
rằng: “Cơng nhân tồn thế giới hãy liên hiệp lại”. Đây là luận điểm mà những người
nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đều thống nhất khi đề cập đến nội dung của chủ nghĩa quốc
tế vô sản trong đó Hồ Chí Minh là một điển hình về tiếp thu, học tập quan điểm của các
nhà kinh điển. Theo Hồ Chí Minh: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát
và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham khơng

đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người
anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn” [25, tr.48]. V.I.Lênin
đã khẳng định: Khơng có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất
của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao,... thì khơng thể
chiến thắng hồn tồn CNTB.
* Cơ sở thực tiễn
Từ sự mâu thuẫn gay gắt giữa chủ nghĩa thực dân với các nước thuộc địa trong đó
có Việt Nam. Từ cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược thống trị nước ta, đã biến nước ta

18


từ chế độ phong kiến lạc hậu thành một chế độ thuộc địa và nửa phong kiến với hai tầng áp
bức cai trị. Về chính trị, chúng áp đặt chế độ cai trị thực dân chuyên chế, hà khắc và tàn bạo về
mọi mặt, không cho dân ta một chút tự do, dân chủ nào. Về kinh tế, chúng tiến hành các
chương trình khai thác thuộc địa, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh
tế độc lập của nước ta, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nặng nề về thuế khóa, biến nước
ta thành thị trường tiêu thụ hàng hố của chính quốc. Về văn hố, thực dân Pháp thực hiện
chính sách ngu dân để dễ bề nơ dịch, xây dựng nền văn hóa phản động, lạc hậu. Các quyền tự
do, dân chủ đều bị cấm đốn. Chúng bưng bít, ngăn chặn ảnh hưởng các tư tưởng tiến bộ trên
thế giới vào nước ta. Sự thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã làm cho mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng gay gắt đỉnh điểm, đặt ra yêu cầu
cấp thiết cần có cách giải quyết.
Với truyền thống yêu nước và đoàn kết, nhân dân ta đã liên tục nổi dậy đấu tranh kiên
cường chống lại bọn thực dân Pháp đô hộ và tay sai, nhưng đều không mang lại kết quả. Sự
thất bại của phong trào Cần Vương với khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (1896) đã chấm dứt
phong trào chống Pháp theo hệ tư tưởng phong kiến. Sang thế kỷ XX phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu đầy nhiệt huyết như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh

đạo cũng dần thất bại,... Cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân ta rơi vào tình cảnh
khủng hoảng về đường lối cứu nước và thiếu giai cấp có khả năng tổ chức, đoàn kết, tập hợp
lực lượng và lãnh đạo cách mạng nên khó có khả năng để giành được thắng lợi hồn tồn. Hồ
Chí Minh đã nhận định: “Việc lớn chưa thành khơng phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ
hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm” [32, tr.230].
Nhận thức được sâu sắc nguyên nhân của sự thất bại các phong trào trong nước. Khác
với các nhận định, đánh giá của các nhà yêu nước tiền bối, người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành là người Việt Nam đầu tiên quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước mới. Người đã
bôn ba qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ La tinh, để xem người ta làm thế nào rồi
trở về giúp đồng bào mình. Q trình đó, Người đã phát hiện ra chân lý có tính chất khai phá
cách mạng: CNTB, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc địa, giai cấp vô sản và người lao
động ở đâu cũng bị chà đạp, áp bức, bóc lột. Từ đó, Người khẳng định: muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có cách thức nào khác là phải lấy sức ta để giải phóng cho

19


ta, đặc biệt là phải có lực lượng để tiến hành đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên, muốn có
lực lượng, trước hết phải có tổ chức phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của đại đa số
quần chúng nhân dân lao động, hoạt động vì tơn chỉ mục đích chung; cùng nhau đồng
lòng, đồng tâm hiệp lực để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng.
Về các hoạt động thực tiễn, năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp.
Cuối năm 1920 Người gia nhập Quốc tế Cộng sản. Từ năm 1924 đến 1930 Nguyễn Ái Quốc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, đặt nền móng cho sự ra đời MTDTTN ngay sau khi Đảng ta
ra đời. Sáng tạo về MTDTTN mà cốt lõi là tư tưởng đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở
thành một bộ phận vô cùng quan trọng của con đường cách mạng Hồ Chí Minh. Đi đơi với
việc chuẩn bị về đường lối chính trị, Nguyễn Ái Quốc cịn gấp rút chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ như: Thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước, Hội liên hiệp thuộc địa, Hội liên hiệp các

dân tộc bị áp bức ở Á Đơng. Người cịn sáng lập ra “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội”,
tổ chức tiền thân của Đảng và đào tạo nhiều cán bộ tiêu biểu trong các lớp huấn luyện cách mạng mở
tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi đi học ở Liên Xô, làm tiền đề cho việc thành lập MTDTTN
sau khi Đảng ra đời.
Ngày 3/2/1930 dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng
sản tại Hương Cảng, Trung Quốc thành một đảng thống nhất là ĐCSVN. Sự ra đời của Đảng
là nhân tố quan trọng góp phần hình thành MTDTTN, trong đó khơng thể khơng kể đến vai
trị của Nguyễn Ái Quốc trong cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các hoạt động. Theo
Người, cuộc cách mạng đó phải được tiến hành bằng lực lượng cách mạng rộng lớn của tồn
dân, lấy cơng - nơng làm động lực chính của cách mạng, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo và là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ngồi cơng - nơng, Đảng phải đoàn kết tất cả
các giai cấp và tầng lớp có tinh thần u nước; phân hố, cơ lập những phần tử chống đối cách
mạng. Đó chính là cơ sở để Người đề ra các nguyên tắc, sách lược và chiến lược xây dựng
MTDTTN sau khi ra đời.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, một cao trào cách mạng diễn ra trên qui mô cả
nước với đỉnh cao là cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Qua đấu tranh, Đảng ta càng nhận thức rõ
hơn tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc xây dựng những hình thức của MTDTTN sao
cho phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng, truyền thống, tập quán, văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Tháng 10/1930, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thơng qua Luận cương chính

20


trị, đồng thời còn ra “Án nghị quyết về vấn đề phản đế”. Bản nghị quyết chỉ rõ: “Ở Đông
Dương hiện nay có nhiều lực lượng phản đế cần phải liên hiệp lại thành một phong trào thống
nhất để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mưu giải phóng cho xứ Đơng Dương. Theo Hồ Chí Minh,
việc tổ chức Hội phản đế là một nhiệm vụ cần kíp của Đảng”. Do đó, chỉ sau hơn 1 tháng khi
có Án nghị quyết về vấn đề phản đế, ngày 18/11/1930, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh - tổ chức
tiền thân của MTDTTN.

Bản Chỉ thị đã đề ra những nội dung cơ bản về tính chất, nhiệm vụ và những biện pháp
xây dựng MTDTTN trên cơ sở phân tích hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng đặc biệt là
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Bản Chỉ thị đã xác định: Hội phản đế đồng minh phải
bảo đảm tính cơng nơng, đồng thời phải mở rộng tới các thành phần trong dân tộc để Mặt trận
thực sự là của toàn dân. Bên cạnh đó, Bản chỉ thị cịn nhấn mạnh: giai cấp vơ sản lãnh đạo
cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đơng Dương mà khơng tổ chức được tồn dân lại thành một
lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó có thể thành cơng được. Từ đó, Bản Chỉ
thị đã phân tích và đánh giá đúng sự chuyển biến về thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp
xã hội đã được thử thách qua các cao trào cách mạng. Đó là kết quả của q trình chuẩn bị cơng
phu trong một thập kỷ và là cống hiến vĩ đại về lý luận, thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc trong việc
gắn phong trào yêu nước Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản.
Từ nhu cầu, nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức,
bóc lột. Việc tổng kết các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam trước khi có Đảng,
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: vận mệnh của đất nước đòi hỏi cần có một lực lượng cách
mạng mới, có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù
hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại, có đủ sức quy tụ,
tập hợp lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa thực dân, đế
quốc, phong kiến, tay sai và xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững, lâu dài,
thân ái, cùng phát triển.
Từ thực tiễn việc nghiên cứu, tổng kết các cuộc cách mạng trên thế giới, Hồ Chí
Minh rút ra kết luận: Cách mạng Mỹ, cũng như cách mạng Pháp, đều là những cuộc cách
mạng “chưa đến nơi”, nên nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột và nghèo nàn. Ngược lại chỉ
có cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là cuộc cách mạng thành công, tiến hành

21


triệt để, mang lại độc lập, tự do thực sự cho nhân dân. Cuộc cách mạng đó đã để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý giá về huy động, tập hợp lực lượng của quần chúng vào cuộc

đấu tranh giành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới. Bên cạnh
đó, Người cịn học tập kinh nghiệm về tập hợp lực lượng cách mạng của các nước khác
như: Trung Quốc, Ấn Độ, làm cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc thành lập một tổ chức ở
Việt Nam khi thời cơ đến.
Từ thực tiễn các hoạt động của Hội liên hiệp thuộc địa. Dưới ánh sáng của những
nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp,
Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt động cách mạng các nước thuộc địa của Pháp
như: Angiêri, Marốc, Tuynidi, Mađagátxca,... đã thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa
(1922). Mục đích của Hội là nhằm đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc
địa trên phạm vi toàn thế giới. Hoạt động của Hội chủ yếu là sử dụng phương pháp tuyên
truyền để đấu tranh. Hội ra Tuyên ngôn và cho xuất bản tờ Le Peria (Người cùng khổ).
Ngay khi mới thành lập, Hội đã có gần 100 hội viên là những người yêu nước của các
dân tộc thuộc địa sống trên đất Pháp. Phương châm của Hội là khơng phân biệt tơn giáo,
chính kiến hay chủng tộc.
Nguyễn Ái Quốc tham gia Ban Chấp hành và đóng một vai trị quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Hội. Điều lệ Hội xác định đồn kết là sức mạnh; và mục tiêu của
nó là sử dụng các hình thức đấu tranh cơng khai như: báo chí, nghị trường để lên án chủ
nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc.
Tun ngơn của Hội nhấn mạnh: “Đứng trước CNTB và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi
của chúng ta là thống nhất. Các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của C.Mác: “Vô sản tất cả các
nước đoàn kết lại”. Sự ra đời của Hội Liên hiệp thuộc địa là một sự kiện chính trị quan
trọng hàng đầu đối với các dân tộc bị áp bức, trong đó có Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc
là một cá nhân tiêu biểu trong các hoạt động của Hội.
Tuy chỉ hoạt động được 5 năm (1922 - 1926), nhưng Hội Liên hiệp thuộc địa đã góp
phần quan trọng vào việc xây dựng tình đồn kết chiến đấu giữa nhân dân các nước thuộc
địa của Pháp với giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp; xây dựng tình đồn kết
chiến đấu giữa nhân dân các nước thuộc địa trong một mặt trận chung chống chủ nghĩa
đế quốc; thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, đào tạo cán bộ cho phong trào giải phóng dân


22


tộc ở các thuộc địa Pháp và thông qua những hoạt động của Hội, lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin đã được truyền bá đến các nước thuộc địa. Trong Tuyên ngôn, Nguyễn Ái Quốc khẳng
định: “Vận dụng công thức của C.Mác, chúng tơi xin nói với anh em rằng, cơng cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội Liên hiệp
thuộc địa thành lập chính là giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy” [29, tr.138].
1.2. Nội dung sáng tạo của Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất
1.2.1. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong vận dụng lý luận Chủ
nghĩa Mác - Lênin về đồn kết giai cấp vơ sản, chỉ ra tính tất yếu
phải xây dựng MTDTTN ở Việt Nam
Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đề cập đến vấn
đề đại đoàn kết dân tộc trong MTDTTN
Bởi, do đặc điểm của thời đại mình, C.Mác và Ăngghen mới chỉ kêu gọi đồn kết
giai cấp vơ sản tồn thế giới và thực hiện liên minh cơng - nông trong đấu tranh lật đổ
chế độ tư bản chủ nghĩa. Tới V.I.Lênin, trong điều kiện CNTB đã chuyển sang chủ nghĩa
đế quốc, ách áp bức giai cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tư tưởng liên
minh công - nông của C.Mác được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra trên quy
mơ tồn thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại”. Song, do chưa đánh giá đầy đủ vấn đề dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ
thuộc, do vậy, tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong MTDTTN vẫn chưa được V.I.Lênin và
Quốc tế Cộng sản đặt ra.
Hồ Chí Minh sinh ra khi đất nước đang trong cảnh đêm đen nô lệ, chứng kiến sự
thất bại của các quan điểm, tư tưởng cứu nước đương thời. Người nhận thức đầy đủ sức
mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong truyền
thống dựng nước và giữ nước. Nhưng, làm thế nào để có thể phát huy được sức mạnh to
lớn đó vào cơng cuộc giải phóng dân tộc lại khơng đơn giản, không thể thực hiện được
bằng những chủ trương hô hào, khuấy động thuần túy, nhất thời, thiếu tính tổ chức. Bởi,
thực tế lịch sử đã chứng minh tất cả những tư tưởng theo đường lối chủ trương đó đều
khơng phát huy được sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, không tạo thành sức mạnh

vô địch để chiến thắng kẻ thù xâm lược, thậm chí đưa phong trào cách mạng đến thất bại.
Vượt qua sự hạn chế về quan điểm tập hợp, tổ chức, xây dựng lực lượng trong
khối đại đoàn kết dân tộc của thế hệ đương thời; đồng thời, vận dụng sáng tạo, bổ sung

23


phát triển lý luận Mác - Lênin vào điều kiện thực tế phương Đông, ở một nước thuộc địa,
nửa phong kiến như Việt Nam - yếu tố thời đại mà ở thời C.Mác, P.Ăngghen, V.I.Lênin
chưa có điều kiện nghiên cứu. Hồ Chí Minh đã sáng tạo, phát triển tư tưởng về đại đồn
kết dân tộc. Khơng chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, hiệu triệu mà phải trở
thành một chiến lược cách mạng, phải trở thành phương châm hành động của tồn Đảng,
tồn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ
chức, tổ chức đó chính là MTDTTN.
Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ (1924) gửi Ban Chấp hành Đại
hội V Quốc tế Cộng sản, để trình bày nhiều vấn đề về thuộc địa ở Việt Nam, Người đã
phân tích: “cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông Dương không diễn ra giống như ở phương
Tây”, và “chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam là động lực lớn của đất nước”. Nhờ
động lực đó mà đã thức tỉnh tinh thần đấu tranh cho độc lập dân tộc của các tầng lớp
nhân dân Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc chứng minh điều đó bằng những cuộc đấu tranh
yêu nước cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở Việt Nam lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân
tham gia và tất cả đều được thúc đẩy bởi chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Người
khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” [26, tr.511]. “Giờ đây,
người ta sẽ khơng thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ
đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ” [26, tr.513].
Đây là một luận điểm mới mẻ và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc, vì Người đã sớm
đề cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ở trung tâm của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, khi chủ nghĩa dân tộc còn bị phân biệt và bị xem là thuộc phạm trù của hệ
tư tưởng tư sản, nhận thức của nhiều Đảng Cộng sản và công nhân về vấn đề dân tộc và
chủ nghĩa dân tộc còn hạn chế.

Ở đây, điểm then chốt có ý nghĩa quyết định và cũng là sự sáng tạo về lý luận và
thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa,
nửa phong kiến, mà ở đó mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh tính bức thiết cần phải có một
MTDTTN để lãnh đạo khối đại đồn kết tồn dân tộc.

24


Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức
mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào
Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái
và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần
“người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong
biển máu, khơng giành được thắng lợi vì chưa biết phát huy sức mạnh khối ĐĐKDT.
Cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân ta bị khủng hoảng về đường lối cứu
nước. Để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc đó cần phải có đường
lối cứu nước đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và xu thế của thời đại,
cần phải có tổ chức cách mạng thích hợp để có thể tập hợp tồn dân trong cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, nhu cầu lập ra một tổ chức tập hợp mọi lực lượng yêu nước rộng rãi
được đặt ra bức thiết. Ở đây, muốn nói: Để cách mạng giành thắng lợi thì phải thực hiện
được ĐĐKDT, nhưng muốn ĐĐKDT thì phải tổ chức quần chúng thành MTDTTN rộng
rãi. Sự hình thành khối ĐĐKDT là một tất yếu và sự ra đời của tổ chức Mặt trận cũng là
một tất yếu lịch sử. Quan điểm này khẳng định Mặt trận ra đời, phát triển ở Việt Nam là
một sáng tạo nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tồn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to
lớn, có sức mạnh vơ địch trong đấu tranh giành độc lập, tự do, bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu

chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, đó là MTDTTN.
Nếu khơng được như vậy thì quần chúng nhân dân dù có đơng tới hàng triệu, hàng trăm
triệu con người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức mạnh.
Việc thành lập MTDTTN ở Việt Nam ngay từ rất sớm rõ ràng là kết quả tất yếu từ
thực tiễn phát triển của cách mạng, thể hiện công lao to lớn, sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Ðó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng phải là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Ðó là
việc phát huy tư tưởng “dân là gốc” của các bậc tiền nhân cùng với truyền thống u
nước, thương nịi, đồn kết, anh dũng của dân tộc ta đã được hun đúc qua lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước. MTDTTN ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của mọi
tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo - những người Việt Nam

25


×