Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn tập làm văn (2021)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.29 KB, 19 trang )

1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: cấp Trường năm học 20202021
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
“ Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn tập làm văn ”
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Môn Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn
4. Ngày sáng kiến được áp dụng thử:

10/10/2020

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Trong năm học này tôi được phân công dạy lớp 5, trong q trình giảng dạy,
tơi rất băn khoăn và lo lắng một điều là làm thế nào để giúp học sinh học tốt
phân môn Tập làm văn – một phân môn quan trọng trong môn Tiếng việt, đặc
biệt là giúp học sinh có thể làm tốt bài văn tả cảnh trong khi thực trạng việc học
phân môn này của học sinh có rất nhiều điều cần suy nghĩ : Câu văn chưa diễn
đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa. Cảnh tả thì sơ sài và có nhiều lỗi lặp ý,
chưa làm nổi bật nội dung cần miêu tả…
Để định hướng cho học sinh phát triển khả năng diễn đạt cần phải định
hướng cho học sinh học tư duy ngơn ngữ để phát triển, vì ngơn ngữ là sản phẩm
cuối cùng của tư duy. Có tư duy ngơn ngữ thì học sinh mới có thể nói viết trọn
vẹn câu ý được, ngơn ngữ phải là cái đích để đánh giá học sinh chứ không phải
những điểm số một cách chung chung. Vì vậy vấn đề căn bản nhất là giúp học
sinh phát triển tư duy ngôn ngữ để học sinh có thể biểu đạt thành câu trọn ý
được.
Với tầm quan trọng và thực tế trên, để khắc phục những hạn chế trong quá
trình làm văn, đồng thời giúp các em tiến bộ hơn khi viết văn có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, tơi tìm ra một số biện pháp rèn cho học sinh những
mặt còn hạn chế của lớp mình và tơi quyết định chọn đề tài “ Giúp học sinh lớp
5 học tốt phân môn tập làm văn” nhằm đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.


1


Trong sáng kiến này, tôi mạnh dạn đưa ra điểm mới là chú ý rèn kĩ năng
miêu tả cho học sinh. Từ đó học sinh mới có khả năng diễn đạt tốt , sáng tạo
trong làm văn, nói và viết.
5.2. Nội dung sáng kiến:
5.2.1.Thực trạng vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết:
Tập làm văn là một phân môn mang tính trừu tượng cao. Nó khác hồn
tồn với các mơn học khác như toán, tự nhiên xã hội ( nội dung học mang tính
cụ thể, dễ nhận biết ). Nó địi hỏi các em phải suy nghĩ, phân tích và cảm nhận.
Vì vậy các em rất chán học và ít u thích phân mơn này .
- Vốn từ của các em quá nghèo nàn nên các em chưa biết sử dụng câu từ cho
phù hợp khi miêu tả…
- Các em ít được tiếp xúc trực tiếp với đối tượng miêu tả nên nhiều em đã tả
cảnh không đúng với thực tế vốn có của nó.
- Các em viết bài văn miêu tả chưa đúng theo trình tự nhất định.
- Chưa biết cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong một
bài văn rời rạc, chưa logic.
- Chưa bộc lộ cảm xúc của mình qua bài viết.
- Một số em trên chuẩn thì đa số bài viết của các em bó hẹp vào khn khổ
của những bài văn mẫu. Tuy nhiên những từ ngữ, hình ảnh trong bài văn mẫu
không phù hợp với thực tế cuộc sống.
Bản thân giáo viên cũng cảm thấy rất ngại khi dạy Tập làm văn vì nó địi
hỏi người giáo viên phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị, nghiên cứu, xây dựng
nội dung, phương pháp dạy học thích hợp, trong khi các mơn học thì rất nhiều.
Qua việc tìm hiểu kết quả làm văn của học sinh các năm học trước, việc
thăm nắm tình hình học văn tả cảnh của các em qua các giáo viên đã dạy lớp 5,
cũng như kiểm tra trực tiếp học sinh lớp mình, tơi thấy chất lượng bài làm văn
của nhiều em chưa cao: Câu văn chưa diễn đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa.

Cảnh tả thì sơ sài và cịn nhiều lỗi lặp ý, chưa làm nổi bật nội dung cần miêu
tả… Đồng thời, tơi cũng rất ít gặp những hình ảnh nhân hố, so sánh trong bài
văn của các em, có chăng cũng chỉ là những hình ảnh rất khơ khan hoặc là liệt
2


kê các hình ảnh, chi tiết của cảnh vật… Chính những điều đó đã làm cho chất
lượng học tập mơn tiếng việt của các em chưa cao.
Từ thực tế, tôi nhận thấy để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho
giờ học Tập làm văn “Nhẹ nhàng hơn, tự nhiên và chất lượng hơn”. Tơi nhận
thấy hiệu quả giờ học có chuyển biến tốt, học sinh hứng thú học Tập làm văn
hơn, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi. Đặc biệt mỗi học sinh đều cảm
thấy tự tin hơn khi đặt câu diễn đạt rõ được ý của mình, từ đó các em chắc
thêm vốn kiến thức làm hành trang với những năm học tiếp theo.
5.2.2. Các giải pháp thực hiện:
a. Vị trí, vai trị của giáo viên trong phương pháp dạy theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập
Giáo viên cần xác định rõ việc đổi mới sao cho phù hợp với tình hình,
năng lực của học sinh. Nghĩa là giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp
sao cho giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh bằng các câu hỏi gợi ý,
gợi mở. Song song đó, học sinh tích cực tham gia hoạt động học tập nhằm tiếp
thu bài học một cách chủ động và hiệu quả hơn. Muốn được như vậy, bản thân
giáo viên phải nỗ lực nhiều, phải kiên trì vận dụng đổi mới phương pháp nhằm
tạo cho học sinh sự hứng thú với phương pháp học tập chủ động một cách vừa
sức từ thấp đến cao.
Việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học mới có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc góp phần nâng cao chất lượng giờ học, một giờ Tập làm văn thường được
quy trình hố theo trình tự: “Hướng dẫn tìm hiểu thơng tin – Quan sát và xử lí
thơng tin – Trao đổi, tranh luận – Tự rút ra kết luận”- Tức là dạy cho học sinh

“cách học” chứ không phải là truyền đạt cái kiến thức có sẵn…
Trong đổi mới phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt
động dạy và học thì mới thành cơng.
Với chất lượng phân mơn tập làm văn như trên, bản thân tơi nhận thấy
mình cần phải làm gì đó, tìm ra một số biện pháp khả thi nào đó để giúp học

3


sinh lớp mình có được kĩ năng làm văn nhằm nâng cao chất lượng làm văn tả
cảnh nói riêng, phân mơn Tập làm văn nói chung.
b. Một số biện pháp.
b.1. Một số biện pháp đối với giáo viên:
b.1.1. Thường xuyên tự học trau dồi kiến thức về tập làm văn:
Trong q trình đứng lớp, tơi nhận thấy rằng: Để giúp học sinh làm tốt bài
văn tả cảnh thì bản thân giáo viên phải có vốn kiến thức sâu rộng về Tiếng việt.
Vì vậy tơi ln xây dựng kế hoạch cho mình phải tự học , tự bồi dưỡng kiến
thức về Tập làm văn bằng nhiều hình thức như đọc các bài văn tả cảnh mẫu , đọc
báo (báo giáo dục và thời đại, tạp chí giáo dục…) , đọc các tài liệu hướng dẫn
dạy Tập làm văn, Tiếng việt ...
b.1.2. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học:
Quan sát trực tiếp với đối tượng miêu tả là biện pháp hữu hiệu để giúp
học sinh làm bài văn tả cảnh hay. Nhưng trong thực tế không phải cảnh nào các
em cũng được quan sát khi tả. Đặc biệt hơn, mục tiêu của nội dung tả cảnh, là
dựa trên những gì các em được học , các em có thể vận dụng vào tả bất cứ một
cảnh nào trong thực tế. Ngồi ra, khi thuyết trình về một vấn đề nào đó, nếu có
đồ dùng trực quan, ta cảm nhận một cách thực tế, rõ ràng hơn về đối tượng được
nói tới. Cho nên trong quá trình dạy văn tả cảnh, tơi thường sử dụng tranh ảnh,
video, ..., có liên quan tới bài học và yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu phục vụ cho
bài học của mình.

+ Ví dụ : Khi dạy bài luyện tập tả cảnh tiết 2/ tuần 7. Đề bài yêu cầu các
em dựa vào dàn ý đã lập ở tiết trước để viết một đoạn văn tả cảnh sông nước.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài tôi đã kết hợp dùng tranh, video minh hoạ cảnh
sông, suối, biển, hoặc gợi ý cho các em nhớ lại cảnh đã từng gặp giúp học sinh
nhớ lại những chi tiết mình đã quan sát được để xác định đề tài miêu tả cho bài
văn của mình và phân biệt với những cảnh khác…(do ở địa phương khơng có
cảnh sơng nước hoặc nếu có thì cũng khá xa và một số em cũng chưa có điều
kiện tham quan...)
b.1.3. Tích hợp trong dạy- học các môn học khác:
4


Để giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh, chỉ nội dung, thời gian dành cho
những tiết Tập làm văn tả cảnh khơng là chưa đủ, mà nó địi hỏi cả một q trình
dạy học, là sự tích hợp của tất cả các mơn học khác, nó hỗ trợ cho nhau và
không thể thiếu. Đặc biệt phải kể đến phân môn tập đọc và luyện từ và câu sẽ
giúp học sinh sở hữu vốn từ ngữ rất phong phú và đa dạng.
+ Ví dụ : Ngay trong tuần học đầu tiên của lớp 5 với bài tập đọc: “Quang
cảnh làng mạc ngày mùa”. Học sinh tích luỹ cho mình rất nhiều kiến thức có
liên quan đến bài văn tả cảnh, nhất là với bài “tả cảnh cánh đồng, nương rẫy…”
Điều đó thể hiện ở chỗ, học sinh được biết thêm rất nhiều các từ , các hình ảnh
miêu tả như : để tả màu vàng, học sinh có thể dùng từ vàng xọng, vàng xuộm,
vàng hoe, vàng ối … sao cho phù hợp với đối tượng miêu tả trong bài văn của
mình. Cũng với bài tập đọc trên, học sinh cịn tìm được ở đó cấu tạo của bài văn
tả cảnh gồm 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài .
* Vì vậy khi dạy bài Tập đọc trên, trong phần tìm hiểu bài: Ở câu 2: Hãy
chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi cho em cảm giác gì ?
Trả lời được câu hỏi này tức là học sinh đã nắm được các từ chỉ màu vàng và
hiểu được nghĩa của nó khi sử dụng trong bài văn tả cảnh. Vì vậy, tôi hướng dẫn
kĩ hơn ở câu hỏi này. Cụ thể như sau:

- Bước 1: Đọc từ và lời giải (vàng xọng – màu vàng gợi cảm giác như có nước)
- Bước 2: Phân tích nghĩa của từ:
+Giúp học sinh hiểu: Tại sao “vàng xọng là màu vàng gợi cảm giác như có
nước”bằng các câu hỏi phụ:
Từ vàng xọng trong bài văn miêu tả màu vàng của sự vật nào?(Màu vàng
của bụi mía)
Em nào đã từng được quan sát bụi mía, theo em từ vàng xọng tả cây mía
ở thời kì nào (thời kì mới trồng, đang phát triển hay đã đến độ thu hoạch) ?(Tả
cây mía khi đã đến độ thu hoạch. Khi đó thân cây có màu vàng bóng, đó là dấu
hiệu để chúng ta biết mía đã có nhiều nước ngọt thơm. Từ vàng xọng gợi cảm
giác như có nước là vì vậy)

5


Sau đó tơi cho học sinh trực tiếp quan sát một khúc mía có màu vàng
xọng mà tơi đã chuẩn bị.
- Với các từ ‘vàng xuộm, vàng lịm, vàng tươi, vàng ối..”hướng dẫn tương tự.
- Các bài mở rộng vốn từ trong phân mơn luyện từ và câu là món ăn
chính giúp học sinh có nguồn vốn từ dồi dào và sinh động.
Ngồi ra, nó cịn giúp học sinh biết cách liên kết các câu trong bài bằng
nhiều hình thức như: lặp từ ngữ, thay thế từ, dùng từ nối... nhằm tạo ra cho học
sinh một bài văn trôi chảy, khơng lủng củng, khơng rườm rà…
Cũng chính từ phân mơn luyện từ và câu, Học sinh còn được thực hành
viết những đoạn văn tả cảnh có liên quan như: Bài “Luyện tập về từ đồng
nghĩa” tuần 3/TV 5 – Tập 1/32, sau khi học sinh nắm được như thế nào về từ
đồng nghĩa học sinh được vận dụng kiến thức vừa học để viết đoạn văn miêu tả
màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích dựa vào bài tập đọc “Sắc màu
em yêu” .
+ Hay trong bài “Mở rộng vốn từ : Thiên nhiên”– tuần 9/Trang 87, ngồi

mục đích giúp học sinh nắm được vốn từ về thiên nhiên, tơi cịn xốy sâu vào
cách sử dụng hình ảnh so sánh, nhân hố trong bài từ đó học sinh của tôi cũng
vận dụng một cách sáng tạo vào bài văn tả cảnh của mình .
- Chính vì sự gắn bó chặt chẽ nói trên mà trong q trình xây dựng kế
hoạch giảng dạy ở mỗi bài, mỗi phân mơn, tơi thường chú ý tích hợp giữa các
bài, các phân môn với nhau nhằm tận dụng triệt để sự gắn bó giữa các mơn học
này trong dạy học tập làm văn tả cảnh.
b.1.4. Khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của học sinh:
- Qua việc kiểm tra thực tế với 2 nhóm đối tượng học sinh lớp tôi, tôi thấy
rằng: Cùng viết một bài văn tả cảnh, một nhóm học sinh đã được quan sát trực
tiếp đối tượng miêu tả và một nhóm học sinh khơng được trực tiếp quan sát đối
tượng đó thì chất lượng bài viết, cách miêu tả của 2 bài văn có sự khác biệt rõ
rệt. Với bài của học sinh được quan sát đối tượng miêu tả , cách dùng hình ảnh
của các em rất phong phú, đa dạng nhưng không làm mất đi nét riêng, chân thực
của đối tượng miêu tả. Cịn với bài văn của học sinh khơng được quan sát trực
6


tiếp đối tượng miêu tả, đơi khi cách dùng hình ảnh của các em mang tính chiếu
lệ, khơng đúng với thực tế vốn có của nó…
+ Ví dụ: Có một em khi miêu tả cảnh buổi sáng trong công viên, em viết :
“Trong công viên, vào buổi sáng xe cộ đi lại tấp nập…”
- Vì thế tơi cho rằng muốn học sinh viết được bài văn tả cảnh hay, điều
thứ nhất khơng kém phần quan trọng đó là việc học sinh được quan sát đối
tượng miêu tả trực tiếp bằng tất cả các giác quan. Cho nên trong phần hướng dẫn
xác định yêu cầu, tôi luôn dẫn dắt để khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của
học sinh phù hợp với điều kiện quan sát của các em.
+ Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết một bài văn tả cảnh sông nước, tôi
hỏi học sinh đã đươc ngắm cảnh sông nước chưa ? ở đâu ? Em quan sát vào
những thời gian nào? Có kỉ niệm nào gắn bó giữa em với cảnh đó khơng ? ( Do

khu vực các em ở khơng có cảnh sơng nước). Từ đó giúp các em tự nhớ lại
những gì mà mình đã quan sát được về cảnh sơng nước khi miêu tả…
+ Hay với đề bài tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây
(hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy): Dựa vào thực
tế địa phương nơi trường tơi đóng, các em có điều kiện được đi công viên, trên
đường phố hoặc đa số nhà các em có vườn cây nên vì vậy tôi đã hướng học sinh
chọn đề tài phù hợp với điều kiện quan sát của mình đó là vườn cây, công viên,
đường phố – những cảnh gần gũi , quen thuộc và gắn bó với các em.
b.1.5. Thường xuyên động viên, khích lệ, sử dụng hình thức thi đua, khen
thưởng cũng như đôn đốc việc học của học sinh:
- Như chúng ta đã biết, tập làm văn là một phân mơn khơng mấy hứng thú
của cả thầy lẫn trị. Đối với thầy, muốn dạy tốt tiết học này cần có kiến thức, kĩ
năng, có sự chuẩn bị cơng phu và tốn nhiều thời gian. Đối với trị, đó là áp lực
về tư duy và khả năng diễn đạt. Vậy muốn cho tiết học khơng nặng nề, nhàm
chán, tạo khơng khí thoải mái khi học, thì những lời động viên, khích lệ của giáo
viên là khơng thể thiếu. Nó là liều thuốc bổ tinh thần q giá với các em. Chính
vì vậy, trong q trình dạy tập làm văn, tơi thường xuyên động viên, khen ngợi
các em.
7


- Bên cạnh việc động viên khen ngợi, dựa vào đặc điểm tâm lí hiếu thắng
của các em, tơi cịn sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng trong dạy – học tập
làm văn và cảm thấy nó đem lại kết quả rất tốt.
+ Ví dụ: Khi làm bài tả cảnh kiểm tra viết cũng gần tới ngày Đại hội Liên
đội của trường, mỗi lớp được cử 5 em đi dự, trong số đó có một số em sàn sàn
nhau khơng biết chọn em nào, tơi đã khuyến khích các em, nếu em nào làm văn
được điểm cao sẽ được đi dự, và kết quả thật bất ngờ, mặc dù khơng có nhiều
bài xuất sắc, nhưng tơi thấy ở bài văn của tất cả các em đều có sự cố gắng và
tiến bộ hơn hẳn so với trước.

Tiếp tục biện pháp trên, trong đợt thi giữa kì 1, trong khi ôn tập chuẩn bị thi,
tôi và tập thể lớp đã đề ra chỉ tiêu là : nếu bạn nào làm văn được điểm tốt trong
đợt thi này sẽ được nhận phần thưởng của cả lớp. Và khơng ngồi tầm dự đốn
của tơi, kết quả đợt kiểm tra của các em đạt chất lượng khá cao. Điều đó chứng
tỏ rằng, việc động viên khen ngợi hay dùng hình thức thi đua khen thưởng có ý
nghĩa quan trọng đối trong dạy học nói chung và dạy tập làm văn nói riêng. Nó
kích thích hứng thú , tạo niềm say mê học tập ở các em .
b.1.6. Kết hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã hội.
Để đảm bảo chất lượng học tập và giáo dục toàn diện cho học sinh việc
kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội là hết sức quan trọng. Trong
đó chất lượng bài văn tả cảnh của học sinh cũng cần rất nhiều đến việc quan tâm
của các tập thể trên.
- Đối với gia đình, cha mẹ ln là nguồn an ủi động viên các em trong
quá trình học tập, là nơi tạo điều kiện về vật chất cũng như thời gian cho các em.
Việc cho các em đi nghỉ mát , tắm biển, tham quan những khu du lịch, danh lam,
thắng cảnh … tạo cơ hội cho các em tiếp xúc trực tiếp với đối tượng miêu tả
trong bài văn của các em, giúp các em được mở mang kiến thức và hứng khởi
khi học tập. Cha mẹ còn là người thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc học và
chuẩn bị bài ở nhà của các em.
- Đối với nhà trường, đặc biệt là Liên đội, không chỉ là nơi các em được
trau dồi kiến thức Đội mà việc tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ, đi tham
8


quan, du lịch về nguồn cũng góp phần tạo nên thành công trong học tập ở các
em.
- Đối với thư viện trường, việc mua những quyển sách báo, tài liệu tham
khảo phù hợp giúp các em có thêm cơ hội để học hỏi, trau dồi kiến thức, kĩ năng
(Đặc biệt là với những em có hồn cảnh khó khăn, khơng có tiền để mua chúng).
Việc tổ chức các hội thi cũng tạo cho các em một sân chơi bổ ích …

b.2. Biện pháp tổ chức giảng dạy, hướng dẫn cho học sinh học văn tả cảnh:
Đối với học sinh tôi trực tiếp giảng dạy, vốn ngôn ngữ của các em còn rất
nhiều hạn chế, đặc biệt là các em chưa biết cách trau chuốt, gọt giũa lời văn, câu
văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ thuật”, mà đa số các em “nghĩ sao thì viết
vậy”; cộng với việc ít đọc sách báo, ít tham khảo các bài văn hay, câu chuyện
hay, bổ ích ở sách báo, làm cho các em gặp nhiều khó khăn khi làm bài văn miêu
tả. Cho nên việc trước tiên là giáo viên cần kết hợp với các phân môn trong môn
Tiếng Việt – nhất là phân môn luyện từ và câu - cung cấp vốn từ ngữ cho học
sinh, uốn nắn cho các em cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ
tự nhiên” thành “ngôn ngữ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm
văn là hiệu quả của những bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về
nội dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên
cần thực hiện tốt các yêu cầu này. Đối với phân môn tập làm văn ở lớp 5, để viết
bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là:
- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn.
- Phân tích các văn bản mẫu.
- Quan sát, lập dàn ý chi tiết.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên và
học sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên.
b.2.1. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh:

9


- Cho học sinh đọc văn bản mẫu ở sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh xác
định phần mở bài, thân bài, kết bài.
- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh.
b.2.2. Phân tích các văn bản mẫu:

Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, phân tích để hiểu và thấy
được nghệ thuật quan sát và miêu tả, đồng thời thấy được cách chọn lọc chi tiết,
cách sử dụng những hình ảnh đẹp trong bài văn miêu tả.
Ví dụ:
1/ Bài: “Luyện tập tả cảnh”- Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 14.
- Cho học sinh đọc bài văn “Buổi sớm trên cánh đồng”.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi:
+ Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu ?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào ?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.
* Đối với bài này, tôi cho các em xem 1 vài đoạn video cảnh mùa thu, nêu
vài đặc điểm tiêu biểu của mùa thu vì ở địa phương tôi chỉ đặc trưng 2 mùa
mưa và nắng.
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy
nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn.
2/ Bài: “Luyện tập tả cảnh”- sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 21.
- Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích 2 văn bản “Rừng trưa” và
“Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn.
- Cách tiến hành bài này là:
+ Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn.
+ Giáo viên giới thiệu tranh, ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát.
+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài văn
? Có thể u cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.

10


- Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi những
em tìm được những hình ảnh đẹp và giải thích được lí do vì sao mình thích hình
ảnh đó ( u cầu khơng bắt buộc ).

* Tôi lưu ý HS : Sự khác biệt về thời gian ( sáng, trưa, chiều, tối ... ) cũng
làm thay đổi cảnh vật dù là trực tiếp hay gián tiếp.
+ Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở từng bài văn và hướng
cho học sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
b.2.3. Quan sát, lập dàn ý chi tiết:
a/ Quan sát:
Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh có sự
chuẩn bị bài trước khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kĩ cảnh vật, sự vật
hoặc một người nào đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên nhắc nhở
các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ rằng với cảnh
vật quen thuộc hằng ngày thì khơng cần phải quan sát lại, điều này là hoàn toàn
sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta những nhận biết hời hợt, chung chung,
chưa toàn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt, bằng nhiều giác quan thì
mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trực tiếp cịn
cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ nhạt.
Giáo viên cần rèn kĩ năng quan sát cho HS:
+ Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi,…để
nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm, …nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm
thanh, mùi vị…
+ Quan sát nhằm nhận ra những nét độc đáo đặc biệt của đối tượng chứ
không phải thống kê tỉ mỉ trung thực mọi chi tiết về sự vật.
+ Trong khi quan sát cịn ln gắn với cảm xúc, với kỉ niệm, với cuộc
sống cá nhân của người quan sát. Từ đó gắn chặt với các hoạt động liên tưởng so
sánh, tưởng tượng , hồi tưởng…của từng cá nhân.
+ Từ việc quan sát HS tìm được từ ngữ diễn tả đúng và sinh động những
điều quan sát được .
11


+ Hướng dẫn HS lựa chọn trình tự quan sát:

* Trình tự khơng gian: quan sát tồn bộ đến quan sát từng phần, từ trái sang
phải, từ trên xuống dưới,ngoài vào trong hoặc ngược lại.
* Trình tự tâm lí: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho
bản thân hứng thú thì quan sát trước, các phần khác quan sát sau. Phần trọng tâm
bài thì quan sát kĩ lưỡng hơn.
+Tổ chức quan sát và tìm ý:
* Học sinh phải được quan sát trực tiếp cảnh vật và người.
* HS phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
* Sự quan sát của HS phải được hướng dẫn cụ thể bằng hệ thống câu hỏi gợi
ý.
Ví dụ: Trong bài “ Tả cơn mưa”, để phát huy sự quan sát và khả năng sáng
tạo của HS, tôi yêu cầu các em tả cơn mưa đang diễn ra trên sân trường qua cửa
sổ lớp học. Kết quả ngoài mong đợi, các em đều tả được cơn mưa với những nét
chung nhưng mỗi em đều mang sắc thái biểu cảm riêng, kể cả những em vốn rất
ngại mơn Tập làm văn cũng có được bài văn cho riêng mình dù lời văn chưa bay
bổng nhưng dùng từ chính xác, trọng tâm nổi bật, đặc biệt có cảm xúc và quan
trọng hơn là các em có sự tự tin như thấy được “ làm văn khơng khó”.
b/ Lập dàn ý:
- Khi vào học bài mới, giáo viên ln nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần
có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên
của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài.
+ Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ?
- Giáo viên hướng dẫn xác định trong tâm để tập trung sự chú ý của HS,
tránh tình trạng quan sát một cách mờ nhạt, chung chung dẫn đến miêu tả không
nổi bật trọng tâm bài.
- Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh thì giáo
viên cần giới thiệu một số tranh ảnh, video minh họa cho học sinh quan sát.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được.
12



Ví dụ:
* Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài
văn miêu tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ).
- Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý:
+ Có thể tả ngôi trường vào một thời điểm nhất định ( sáng – trưa chiều; mùa đông - mùa hè…); Cũng có thể tả ngơi trường với cảnh sắc thay đổi
theo thời gian ( Từ sáng đến chiều; từ mùa xuân đến mùa hè…).
+ Nên tả theo trình tự quan sát sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong…
hoặc ngược lại, tả gần đến xa, từ trong ra ngoài…
+ Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò. Tuy nhiên
chỉ nên tả lướt qua hoạt động này để không biến bài văn tả cảnh thành bài văn
tả cảnh sinh hoạt.
Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn học
sinh cách lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.
- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao qt:
+ Vị trí của ngơi trường: Ngơi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về hướng
nào?
+ Đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
- Phần thân bài gồm các ý:
+ Tả từng phần của cảnh trường:
Cổng trường ( cổng như thế nào ? bản tên trường ra sao ? ).
Sân trường ( sân trường ra sao ? cột cờ, cây cối như thế nào? ).
Lớp học ( các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao?...).
Trường em có điểm gì nổi bật ?
- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.

13



Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý
chính.
b.2.4. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ
thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “ Chuyển một phần dàn ý thành
đoạn văn”, “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một
phần của thân bài.
a/ Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng một
câu nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách
rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà
giáo viên góp ý, khơng nên gị bó, áp đặt.
Ví dụ:
Đề bài: “…..Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con sông,
một con suối hay một hồ nước ) ( TV 5 tập 1/62)
- Có em mở bài thẳng ln vào đề: “Làng em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Con suối chảy qua làng em, suối chảy ven
theo chân đồi, men theo cánh đồng lúa xanh mượt. Nhìn từ xa, con suối như một
con trăn uốn mình trên tấm tấm thảm màu xanh biếc của cánh đồng làng. Con
suối này gắn liền với tuổi thơ của chúng em và con suối đã trở nên thân thiết”.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác
nhau mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có
tính nghệ thuật.
b/ Phần thân bài:
- Một số em học sinh chưa biết cách sử dụng từ ngữ cho đúng trong văn
viết cũng như văn nói. Ví dụ khi tả về hình ảnh của những ơ cửa kính lớp học,
các em hay viết: “Các lớp học có những ơ cửa kính sáng long lanh”; Hoặc khi tả
hình dáng một người thân trong gia đình, các em viết: “Bố em có dáng người
cao chót vót”…

14


- Đôi khi các em hay viết “ rập khuôn, máy móc” theo những câu văn,
đoạn văn mà giáo viên sử dụng để hướng dẫn mẫu. Ví dụ khi hướng dẫn cách tả
về hình dáng của người, tơi đưa ra ví dụ mẫu:
+ “ Chị em có hàm răng trắng đều như hạt bắp”.
+ “ Đơi mắt của cu Tí trịn như hai hịn bi ve”.
Đến khi làm bài, có em viết: “ Em trai của em năm nay vừa trịn một tuổi.
Mắt của nó trịn như hai hịn bi ve, răng của nó trắng đều như hạt bắp”.
Hoặc “Đơi mắt của bà em tròn như hai hòn bi ve”…(!)
- Bên cạnh, giáo viên cần hướng cho học sinh tả một cách chân thực,
khơng “bắt chước” theo những hình ảnh trong các bài văn mẫu vì vậy, trong các
tiết học, giáo viên cần tăng cường cung cấp vốn từ ngữ cho các em, hướng cho
các em biết cách sử dụng từ ngữ cho phù hợp với đối tượng miêu tả, phù hợp với
văn cảnh cụ thể và phù hợp với thực tế cuộc sống.
- Hoặc chỉ với 1 một chi tiết, yêu cầu học sinh tả lại theo ý của mình, dùng
lời văn của mình, từ đó giúp các em chỉnh sửa để có câu văn sinh động, giàu
cảm xúc và quan trọng là ý tả có cái riêng, cái mới, thu hút nguời đọc
Ví dụ: “ vườn cây vui vẻ lao xao trong gió sớm.” Hay “ vườn cây im
ắng, tư lự trong buổi trưa hè, có lẽ nó nhớ tiếng chim....” Hay tả bác nông dân
cày ruộng, cảnh các cô gặt lúa, làng quê với mái nhà tranh .... có phù hợp với
tình hình đất nước ta hiện nay ?
c/ Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: Kết bài mở rộng, kết bài không mở
rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính.
Vì vậy, giáo viên cần giúp các em nêu cảm xúc hoặc thâu tóm lại vấn đề
như thế nào cho hay.
Có thể chỉ liệt kê sự việc, cảm xúc như:
“Em rất thích cảnh ở cơng viên”.

Tơi u cầu các em nêu kết luận khác, có học sinh đã nêu:
“ Cơng viên làm cho tâm hồn em thoải mái và thư thái sau những giờ học
căng thẳng. Em rất thích cảnh ở công viên”.
15


Tương tự như vậy, dưới sự hướng dẫn của tôi, học sinh có rất nhiều kết
bài khác nhau khi tả về quang cảnh trường mình:
+ “ Ngơi trường như mái nhà thứ hai của em, hình ảnh về ngơi trường
tiểu học thân yêu sẽ theo mãi trong tâm trí em trong những năm tháng tới đây”.
+ “ Sau này, dù khơng cịn được học dưới mái trường thân u này, em
vẫn giữ mãi hình ảnh ngơi trường, nơi đã dạy em những bài học đầu tiên”.
Trong việc hướng dẫn học sinh diễn đạt thì biện pháp duy nhất là chia
thành câu, ý nhỏ cho nhiều em phát biểu, sau đó chắt lọc, hướng dẫn học sinh
thấy cách nào được, cách nào chưa được để phát huy hay sửa chữa.
b.2.5: Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
Để giúp học sinh viết một bài văn hồn chỉnh, tơi tiến hành các bước:
a/ Tập diễn đạt và sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng câu văn
có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân hóa…
trong các kiểu bài tập làm văn.
Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa- đơi khi học
sinh dùng những hình ảnh chưa chính xác.
- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh bổ
sung, sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật.
b/ Bộc lộ cảm xúc trong bài văn :
- Ngoài việc giúp HS sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn,
giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một bài văn
hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộ ở

phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn của bài văn. Điều
này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ:
- Mỗi buổi sáng tới trường, em thấy con đường như thế nào ?
( Con đường như là một người bạn cùng em đến trường).
+ Được tham gia cùng các bạn trồng cây trước lớp em nghĩ gì ?
16


(Em thấy thân yêu thêm ngôi trường và lớp học này. Bản thân em phải có
trách nhiệm là cho trường lớp của mình ngày càng đẹp hơn) …
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc
nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ. Bài văn của học sinh tránh
được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc của người
viết.
b.2.6: Trả bài viết:
Để có thể làm tốt một bài tập làm văn ngoài những kỹ năng quan sát lập
dàn ý, HS còn được sửa chữa, rút kinh nghiệm, nhằm đạt kết quả ngày một cao
hơn. Tập nhận xét bạn trong giờ tập làm văn trước, tự rà sốt và sửa chữa bài
viết chính thức ở lớp, rút kinh nghiệm và tự sửa chữa trong giờ trả bài, tất cả
điều giúp học sinh luyện tập hình thành kỹ năng và thói quen “ tự điều chỉnh”,
tự học tập để luôn tiến bộ. Tiết “ trả bài viết” có ý nghĩa quan trọng đối với rèn
kỹ năng làm bài tập làm văn. So với các tiết khác ( lập dàn bài, viết đoạn văn,
làm đơn, làm biên bản, …) tiết trả bài cần được giáo viên chuẩn bị công phu từ
lúc chấm bài, thống kê lỗi, nhận xét khái quát về bài làm, chuẩn bị dẫn chứng
minh hoạ … đến khi soạn giáo án cụ thể cho tiết trả bài. Việc hướng đẫn học
sinh chuẩn bị trên lớp cũng như đòi hỏi sự gợi mở, dẫn dắt và ứng xử linh hoạt
của giáo viên nhằm giúp các em nhận thức được ưu, khuyết điểm trong bài viết
của mình. Qua đó, HS có ý thức viết bài ngày càng tiến bộ và có kết quả cao
hơn.

Sau các tiết này, tôi thường nhắc HS về làm lại và tôi xem lại cẩn thận cho
các em. Cách làm này làm cho HS tăng thêm hứng thú khi học môn này.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến này có khả năng áp dụng cho việc dạy Tiếng Việt, phân
môn Tập làm văn ở khối lớp 5 ở trường Tiểu học An Lộc A và học sinh khối 5
trong toàn địa bàn thị xã Bình Long.
6. Những thơng tin cần được bảo mật : Không
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Không
17


8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
a. Kết quả đạt được:
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên, đến nay tơi
nhận thấy các em có nhiều tiến bộ so với đầu năm học. Những học sinh yếu về
kĩ năng viết văn miêu tả nay đã mạnh dạn, tự tin và có hứng thú hơn trong giờ
học Tập làm văn. Tuy những bài văn, đoạn văn đó có thể chưa hay, chưa sinh
động nhưng các em đã tự viết bằng chính tư duy của mình: Khơng cịn những
bài văn chưa biết cách trình bày. Khơng cịn những câu văn rườm rà và chưa
diễn đạt trọn vẹn một ý. Các em đã biết sử dụng những từ ngữ (gợi tả hình dáng,
âm thanh..), hình ảnh (so sánh, đối lập, nhân hố…) thích hợp để làm rõ đặc
điểm của cảnh. Ngoài ra, các em còn biết thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của mình
trong mỗi cảnh đó. Tơi thấy kết quả có nhiều khả quan, đặc biệt nhiều học sinh
hứng thú học tập hơn trước. Do vậy kết quả thu được cũng cao hơn. Điều đó thể
hiện rõ qua bảng so sánh sau ( HKI năm học 2020 – 2021) :

Trước khi áp dụng phương pháp
TSHS


33

HTT
6

HT

18,2% 25 75,8%

CHT
2

6%

Sau khi áp dụng phương pháp
HTT

HT

12 36,4% 21 63,6%

CHT
0

0%

Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đánh dấu
bước thành công là làm cho học sinh có kĩ năng làm văn miêu tả tốt hơn, giúp
các em tự tin hơn trong phân mơn Tập làm văn nói riêng, mơn Tiếng Việt nói
chung. Do vậy, từ nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, tìm tịi và

vận dụng phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn.
b. Bài học kinh nghiệm:

18


Để có được kết quả cao trong học tập của học sinh thì sự giảng dạy nhiệt
tình của giáo viên thôi chưa đủ. Mỗi một môn học, mỗi một bài học, mỗi một
tiết học đều có một sắc thái, một đặc điểm riêng, đòi hỏi một phương pháp riêng
phù hợp với nó. Vì vậy, ngồi những phương pháp chung, mỗi giáo viên cần xây
dựng cho mình một phương pháp dạy học riêng với những kiến thức đã có và
những kiến thức, những kinh nghiệm được đúc kết qua những năm tháng giảng
dạy. Vì vậy, hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp cũng là một
công việc không thể thiếu nhằm thúc đẩy và nâng cao kết quả học tập của học
sinh.
- Giáo viên cũng cần quan tâm đến nhu cầu tiếp thu của học sinh. Mỗi học
sinh có một khả năng nhận thức khác nhau. Vì vậy, chúng ta phải dựa vào tình
hình thực tế để điều chỉnh cách dạy sao cho phù hợp nhất. Chỉ có như vậy, cơng
sức lao động của chúng ta bỏ ra mới khơng bị uổng phí. Kết quả thu được mới
thể hiện đúng giá trị đích thực của nó. Bằng những kinh nghiệm của bản thân,
bằng những nỗ lực và đam mê với nghề, chúng ta hãy tạo ra những con đường
bằng phẳng nhất để các em dễ dàng tiếp nhận, phát huy kiến thức.
Trên đây là một số ý giúp học sinh khắc phục những khó khăn khi viết
bài Tập làm văn miêu tả mà tôi đã áp dụng vào thực tế từ năm học trước, đến
nay có bổ sung hàng năm cho hoàn chỉnh. Tuy nhiên đề tài của tơi khơng thể
tránh những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của q
cấp lãnh đạo, các thầy cô đồng nghiệp để đề tài này của tơi được hồn thiện hơn
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

19




×