Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Mục tiêu quan điểm phương hướng cải cách tư pháp ở việt nam thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.54 KB, 18 trang )

A. MỞ ĐẦU
Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị về
“Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”, những kết quả đạt được về nhiều mặt đã tạo
nên một số tiền đề và điều kiện cần thiết cho những cải cách cơ bản, sâu rộng hơn trong thời
gian tới. Cùng với việc đổi mới nhận thức về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, công cuộc cải cách tư pháp nói chung cũng như cải cách tư pháp hình sự
nói riêng cũng bước sang giai đoạn nước rút, địi hỏi phải có sự cải cách quyết liệt và đột
phá, nhằm tạo ra những biến đổi về chất trên tất cả các phương diện nhận thức lý luận, thể
chế, tổ chức và hoạt động của hệ thốngtư pháp. Mục tiêu cải cách tư pháp nói chung và tư
pháp hình sự nói riêng trong thời kỳ thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
là: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong
đó cải cách tịa án và hoạt động xét xử là trung tâm của cải cách tư pháp với khâu đột phá là
mở rộng tranh tụng dân chủ trong xét xử.
Song, so với yêu cầu đẩy mạnh quá trình cải cách tư pháp, chúng ta còn rất nhiều việc
đòi hỏi phải được tăng cường, nghiên cứu và đẩy nhanh tiến độ hơn nữa trên nhiều lĩnh vực
cả trong việc đổi mới, hoàn thiện đồng bộ hệ thống các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp,
đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, về hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực
tư pháp, cả trong hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử đối với các cơ quan tư pháp và
đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm huy động được
lực lượng của cả hệ thống chính trị, của tồn xã hội tham gia vào q trình cải cách tư pháp.
Chính vì những u cầu của thực tiễn, tác giả xin phép lựa chọn đề tài tiểu luận của mình là:
“Anh (chị) hãy làm rõ mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong thời gian tới. Từ đó Anh (chị) hãy làm rõ nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế giám sát của các
cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp; Liên
hệ thực tiễn tại cơ quan hoặc địa phương của anh, chị.” Để làm đề tài cho bài tiểu luận cá
nhân.
B. NỘI DUNG


I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM


Chiến lược Cải cách tư pháp (CCTP) được tiến hành từ Nghị quyết 49/NQ-TW năm
2005. Nghị quyết này là kết quả nghiên cứu của khoa học pháp lý trong thời gian dài để từ
đó đưa ra những quan điểm chỉ đạo cũng như chứa đựng trong đó các quan điểm khoa học
rất mới, lần đầu tiên xuất hiện trong quan điểm chỉ đạo của Đảng về tư pháp trong Nghị
quyết 49/NQ-TW như: quyền tư pháp, hệ thống tư pháp, bảo vệ cơng lý, tranh tụng, đề cao
hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, lấy Tịa án làm
trung tâm. Kể từ đó, CCTP đã mở ra hướng nghiên cứu cơ bản cho khoa học pháp lý:
Nghiên cứu về CCTP ở phương diện lý luận, thực tiễn và so sánh. Kết quả nghiên cứu đó
cho ra đời hệ thống lý luận về CCTP với các khái niệm, các quan điểm khoa học được hình.
Như vậy, lý luận về CCTP là hệ thống tri thức về bản chất, về các quy luật, các mối quan hệ
cơ bản của CCTP được thể hiện bằng các nguyên lý, phạm trù, khái niệm, quan điểm khoa
học rút ra từ nghiên cứu của lý luận khoa học xã hội nói chung, khoa học pháp lý nói riêng
và được rút ra từ việc tổng kết từ thực tiễn hoạt động tư pháp ở nước ta. Tiếp tục cải cách tư
pháp là một trong những nhiệm vụ lớn mà Đảng xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII mà
hình thức của nó có thể là một Nghị quyết của Đảng về tiếp tục Cải cách tư pháp cho giai
đoạn mới. Kinh nghiệm từ Cải cách tư pháp năm 2005 cho thấy, để làm điều này cần thiết
phải tiếp tục xây dựng, bổ sung, làm giàu nền tảng lý luận về cải cách tư pháp, trên cơ sở đó
thiết kế các tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng các
mục tiêu, nhiệm vụ cho chiến lược cải cách tư pháp đồng thời phục vụ tổ chức thực hiện
chiến lược này.
Là một lĩnh vực nghiên cứu của khoa học pháp lý, cải cách tư pháp có đối tượng
nghiên cứu, cách tiếp cận, những nội dung nghiên cứu chủ yếu và phải có những kết quả là
đạt được các nhận thức khoa học bằng việc hình thành các khái niệm, các quan điểm khoa
học ở các cấp độ xây dựng mới, bổ sung, tiếp tục làm rõ chúng. Đương nhiên, lý luận về cải
cách tư pháp khơng thể đứng ngồi mối quan hệ với khoa học pháp lý chuyên ngành.
Là một lĩnh vực khoa học pháp lý, lý luận cải cách tư pháp có đối tượng nghiên cứu
của nó là cải cách tư pháp. Chính vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của nghiên cứu lý luận về cải


cách tư pháp cần làm rõ khái niệm CCTP, trong đó câu hỏi đầu tiên là CCTP là gì? CCTP

được nghiên cứu chủ yếu tập trung vào khía cạnh nào đó của CCTP như mục đích, quan
điểm, nội dung, nhiệm vụ… nhưng bản thân nó là gì chưa được nhận thức khoa học đầy đủ.
Để xây dựng khái niệm CCTP có hai hướng, (i) từ kết quả của nghiên lý luận của khoa học
pháp lý trong đó lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các lĩnh vực khoa học pháp lý
chuyên ngành – Hướng nghiên cứu này đã được thực hiện trước khi CCTP được thực hiện
(ii) và từ thực tiễn CCTP trong thời gian qua khái quát thành các luận điểm khoa học – Khái
niệm này được xây dựng sau khi Chiến lược CCTP được ban hành và triển khai trên thực tế.
Quan điểm đầu tiên về CCTP trong khoa học pháp lý hình thành trước khi có Chiến
lược CCTP là: hệ thống các giải pháp đồng bộ với tầm nhìn rộng, dài vềề̀ các vấn đềề̀ thuộc về
bản chất của hệ thống tư pháp và sự phát triển của hệ thống tư pháp và những điều kiện có
tính chất quyết định cho sự phát triển của hệ thống ấy” - _ftn1 . Như vậy, dưới góc độ pháp lý, CCTP là một chính

sách pháp luật trong đó hiện diện đầy đủ yêu cầu của của một chính sách như: giải pháp, tầm
nhìn các nội dung cần giải quyết các điều kiện để đảm bảo thực hiện và CTP được đặt trong
trạng thái động (phát triển) nhằm hướng tới mục đích nhất định. Với tiêu chí đó, Nghị quyết
08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp về
chính trị là quan điểm chỉ đạo của Đảng về khoa học đó là chính sách pháp luật đồng bộ,
tồn diện về tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam. Chính sách này đặt ra các nhiệm vụ mà
lý luận về Cải cách tư pháp đã, đang tiếp tục giải quyết mà cốt lõi nhất là bản chất của hệ
thống tư pháp như: tư pháp, quyền tư pháp, hệ thống tư pháp… với mục đích đổi mới nhận
thức, từ đó đổi mới cách thức tổ chức thực hiện tư pháp ở Việt Nam ở các phương diện khác
nhau.
Sau Nghị quyết 49/NQ-TW ra đời, khái niệm CCTP tiếp tục được bổ sung và làm sáng
tỏ. Có ý kiến cho rằng: Cải cách tư pháp luôn được hiểu với ý nghĩa chung nhất là sự thay
đổi đem lại những điều mới có ích cho việc xây dựng nhà nước và bảo đảm tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Nếu không đạt được ý nghĩa này, cải cách tư pháp sẽ bị coi là
thất bại. Như vậy, CCTP đã được xem như quá trình thay đổi từ cái cũ sang cái mới với mục



đích là xây dựng nhà nước và bảo vệ tốt hơn các quyền của người dân. Với ý nghĩa là sự
thay đổi, CCTP phải bắt đầu từ việc tổng kết nhận thức và thực tiễn về tư pháp trong quá
khứ, phát hiện ra những vấn đề có tính quy luật để đề xuất mục tiêu, giải pháp của tư pháp
trong tương lại. Ví dụ quy luật về sự phát triển của kinh tế, xã hội đặt ra cho tư pháp cần mở
rộng thẩm quyền để đáp ứng nhu cầu giải quyết mọi tranh chấp trong xã hội; vấn đề nhà
nước pháp quyền đòi hỏi tư pháp cần giải quyết vấn đề quyền con người.
Cùng với quá trình CCTP, đặt trong bối cảnh chung nhận thức về nhà nước và pháp
luật đã có sự thay đổi kéo theo đó là sự thay đổi trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
và pháp luật. Vấn đề nhà nước pháp quyền đã được nghiên cứu ở Việt Nam từ đầu năm 90
của thế kỷ trước và hiện diện trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2002) trong đó quyền
tư pháp đã được thừa nhận. Việc thừa nhận quyền tư pháp rõ ràng tác động lớn đến cải cách
tư pháp ở mọi phương diện từ khái niệm đến nội dung, nhiệm vụ… Tiếp cận từ hướng này,
khái niệm CCTP là: “Cải cách tư pháp là việc sử dụng đồng bộ các giải pháp nhằm thay đổi
nhận thức, tổ chức, thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”. Khái niệm này chỉ
ra đối tượng của CCTP đó chính là tổ chức thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp
quyền đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ của CCTP ở các phương diện: nhận thức về quyền tư pháp
và tổ chức thực hiện quyền tư pháp.
Tiếp cận từ phương diện chính trị, pháp lý, GS Võ Khánh Vinh cho rằng: CCTP là sự
cải tạo, sự đổi mới một số bộ phận tư pháp khơng cịn phù hợp để đáp ứng u cầu phát
triển khách quan của tư pháp. Cải cách tư pháp tạo ra những thay đổi mang tính chỉnh thể, hệ
thống về tư pháp bao quát cả tư duy và hành động trong lĩnh vực tư
pháp. - _ftn4 .
Khái niệm CCTP với tư cách là đối tượng nghiên cứu của lý luận về CCTP cần phải
được tiếp tục làm rõ. Tuy nhiên, dù quan điểm của các nhà nghiên cứu có nhau nhưng đều
phải giải quyết được nội hàm của nó là “cải cách” và “tư pháp”. Ở phương diện thứ nhất,
CCTP phải nhìn từ quan điểm lịch sử đó là nhận thức, đánh giá được thực tiễn tư pháp trong
bối cảnh trước đây, từ đó dự báo xu thể phát triển của nó trong tương lai và đặt ra yêu cầu
phải phát hiện ra các quy luật, xu hướng tất yếu của CCTP trong bối cảnh mới và điều chỉnh



bằng chính sách. Điều này được minh chứng bằng Chiến lược CCTP theo Nghị quyết
49/NQ-TW. Đồng thời giúp chúng ta giải quyết vấn đề trong thời gian tới cần thiết có nghị
quyết về CCTP hoặc nghị quyết về tiếp tục CCTP trong thời gian tới. Ở phương diện thứ
hai, tư pháp cần hiểu theo nhiều phương diện: đó là một loại quyền lực trong quyền lực nhà
nước; đó là các hoạt động thực hiện quyền tư pháp, là hệ thống các các chủ thể thực hiện và
tham gia thực hiện quyền tư pháp…
Về hướng tiếp cận của lý luận CCTP, lý luận CCTP có đối tượng nghiên cứu là CCTP
bằng các phương pháp khoa học giúp người nghiên cứu có được những tri thức lý luận về
nó. Khơng chỉ vậy, để có tri thức về đối tượng nghiên cứu là CCTP cần tiếp cận CCTP từ các
phương diện khác nhau. CCTP được tiếp cận quyền lực, tiếp cận giá trị quyền, tiếp cận tổ
chức và nhân lực - _ftn5 .
Các tiếp cận này bao trùm cả phương diện lý luận và tổ chức thực hiện.
Từ phương diện lý luận tiếp cận CCTP cịn có thể chia thành tiếp cận chung và tiếp cận
chuyên ngành luật học. Theo đó CCTP với tư cách là đổi mới cách thức tổ chức quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền thì nó phải được tiếp cận từ lý luận chung nhà nước và
pháp luật và khoa học Luật hiến pháp. Các khoa học này cung cấp các tri thức nền tảng về
quyền lực nhà nước, về nhà nước pháp quyền, về quyền tư pháp, quyền con người… Trên cơ
sở đó làm sáng tỏ được các nội hàm của khái niệm CCTP.
Từ phương diện tiếp cận chuyên ngành luật học, CCTP bao gồm nội dung như cải cách
pháp luật phục vụ tư pháp (pháp luật hình sự, dân sự, kinh tế…), cải cách tổ chức cơ quan tư
pháp, cải cách nhân lực tư pháp, hợp tác quốc tế trong CCTP, cải cách tư pháp hình sự, dân
sự, hành chính. Chính vì vậy, lý luận CCTP có tồn diện và được làm sâu sắc hay khơng
phải dựa trên kết quả nghiên cứu của khoa học luật chuyên ngành. Ví dụ CCTP đặt ra vấn đề
tranh tụng, nhưng tranh tụng lại là nội dung, một nguyên tắc của luật về tố tụng. Bên cạnh
đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật chuyên ngành cần dựa trên những quan điểm
của lý luận chung về CCTP. Khi và chỉ khi có sự kết hợp hịa từ các phương diện, tri thức
của lý luận CCTP mới đầy đủ, toàn diện và có độ tin cậy. Chính vì vậy, nhiệm vụ của lý luận
CCTP không chỉ là nghiên cứu CCTP mà cịn có đóng góp của nghiên cứu pháp luật chuyên



ngành. Tuy nhiên, đánh giá về cách tiếp cận CCTP của lý luận CCTP, chúng tôi đồng ý với
qua điểm cho rằng: Các nghiên cứu về tư pháp, CCTP mới chỉ được tiến hành theo cách tiếp
cận của chuyên ngành luật học, còn cách tiếp cận khác chưa được chú trọng nghiên cứu, cho
nên chưa hình thành được một hệ thống những vấn đề lý luận đầy đủ, toàn diện, hệ thống và
bao quát về tư pháp, CCTP ở nước ta”.
Bên cạnh hai cách tiếp cận trên, CCTP cần được tiếp cận từ phương diện khoa học
chính sách, cụ thể là chính sách pháp luật về CCTP. Chính sách pháp luật được định nghĩa :
“là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của
các thiết chế xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, sử dụng văn
minh các phương tiện pháp luật để đạt được mục đích bảo đảm đầy đủ nhất các quyền và tự
do của con người và của công dân, hình thành và phát triển Nhà nước pháp quyền, văn hóa
pháp luật và đời sống pháp luật của xã hội và của cá nhân” - _ftn6 . Như vậy, từ phương diện chính sách, lý luận về

CCTP phải làm rõ vấn đề cơ chế điều chỉnh đối với CCTP. CCTP là lĩnh cực hoạt động trong
đó phát sinh nhiều quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật thơng qua cơ chế
điều chỉnh của nó. Từ cách tiếp cận này, đặt ra cho lý luận về CCTP các nội dung nhiên cứu
như chủ thể CCTP và nhiệm vụ của nó, pháp luật về (phục vụ) CCTP, ý thức pháp luật về
CCTP…
Chính vì vậy, xác định và đa dạng hóa, nói cách khác là nhìn CCTP từ các phương diện
sẽ đem đến tri thức đầy đủ, toàn diện và từ đó phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện chiến
lược CCTP trong tình hình mới.
II. PHƯƠNG HƯỚNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
Quan điểm của đai hội lần thứ XIII của đảng về cải cách tư pháp trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Vấn đề tăng cường cải cách tư pháp là chủ trương lớn của Đảng. Tại
Đại hội XIII, vấn đề cải cách tư pháp được Đảng xác định trên cơ sở tổng kết thực tiễn, xây
dựng chiến lược phát triển và đưa ra các giải pháp cụ thể. Các quan điểm này vừa kế thừa từ
các kỳ Đại hội trước của Đảng, vừa thể hiện sự phát triển về tư duy khoa học trong việc xây
dựng quan điểm và lãnh đạo tổ chức thực hiện.



Cải cách tư pháp được Văn kiện lần thứ XIII của Đảng xác định ở các nội dung sau:
Thứ nhất, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiến hành tổng kết hoạt động tư pháp
gắn liền với việc tổng kết các hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thông qua
tổng kết thực tiễn, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định thành tựu: “Xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn
thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”. Đặc biệt, Văn kiện nhấn mạnh: “Cải cách tư pháp trên một số lĩnh
vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan
điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo
vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá
nhân; tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Như vậy, Đảng đã
khẳng định một thành tựu quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trên
phương diện cải cách tư pháp, đó là tính đột phá tạo hiệu quả, hiệu lực và chất lượng của các
cơ quan tư pháp trong hoạt động xét xử, công tố, điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp. Việc
tổng kết nội dung thực hiện cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
cho thấy vai trò của cải cách tư pháp có đóng góp quan trọng trong việc đưa Nghị quyết của
Đảng vào cuộc sống, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân và lợi ích Nhà
nước. Các nội dung trong tổng kết thực tiễn về cải cách tư pháp và việc chỉ ra các cơ quan
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp vừa
khẳng định về các chủ thể, đối tượng góp phần thực hiện có hiệu quả cải cách tư pháp, vừa
xác định nội hàm cải cách tư pháp được hiểu khá rộng, không chỉ tập trung vào cải cách tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Thứ hai, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định bên cạnh những thành tựu
đạt được còn một số hạn chế tồn tại trong cải cách tư pháp. Đó là việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN trong thời gian vừa qua có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Cải
cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước”, đồng thời, chỉ ra nguyên
nhân của những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết lần thứ
XII chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Do “nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán



bộ, đảng viên về một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước cịn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy, một số công việc triển khai thiếu kiên
quyết, lúng túng”. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng được nêu trong các văn kiện, nghị quyết chưa được triển
khai trong thực tiễn. Việc chỉ rõ hạn chế, xác định nguyên nhân của hạn chế, tồn tại trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền trong đó có cải cách tư pháp tại Văn kiện Đại hội
lần thứ XIII của Đảng chính là những đúc kết từ thực tiễn xây dựng, đổi mới và hồn thiện
bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng, hướng đến xây dựng nền tư pháp
của Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Thứ ba, bên cạnh việc tổng kết thực tiễn, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đưa ra bài học
kinh nghiệm, trong đó xác định bài học trong quá trình lãnh đạo việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền, đẩy mạnh cải cách tư pháp như sau: “Thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn
kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng,
thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ quyền lực”
và “trong mọi cơng việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân
là gốc”… Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn
đấu… Củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ
XHCN”. Các kinh nghiệm này được Đảng rút ra qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng nên vô cùng giá trị do đã được kiểm
nghiệm qua thực tiễn nói chung và thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các chủ trương cải
cách tư pháp của Đảng, và được chứng minh bằng kết quả của cơng tác phịng, chống tội
phạm, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền con người và công lý ở Việt Nam thời gian
qua. Các bài học kinh nghiệm rút ra cho thấy, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp luôn
luôn nhất quán và hướng đến yêu cầu “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân



dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời, phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ
pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm” được
nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Thứ tư, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định giải pháp quan trọng về
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo. Văn kiện đã dành một Chương (Chương XIII) xác định
đây là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng khẳng định cần
“xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc
pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối
hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Điểm mới trong Văn kiện Đại
hội XIII so với Đại hội XII là việc nhấn mạnh yếu tố “phân công rành mạch” trong nguyên
tắc đặc trưng của Nhà nước pháp quyền để khẳng định tính minh bạch khi vận hành của các
quyền lập pháp, hành pháp và đặc biệt là quyền tư pháp. Chính vì lẽ đó, Văn kiện Đại hội
lần thứ XIII của Đảng đã đưa ra các giải pháp về đẩy mạnh cải cách tư pháp, đó là: “Tiếp tục
xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun nghiệp, hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm
chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ
cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu ban hành
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN đến năm 2030, định hướng
đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”. Cụ thể: “Tiếp tục đổi
mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tịa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức
tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh
chấp, khiếu kiện theo luật định; phịng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội
phạm và vi phạm pháp luật”.
Như vậy, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định cải cách tư pháp cần gắn với
các nội dung liên quan đến xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và

hoạt động của Quốc hội và cải cách hành chính; xây dựng nền tư pháp cần đồng bộ với xây


dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện
đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Song tựu chung vấn đề cần xác định
trong thực tiễn triển khai theo quan điểm của Đảng đó là: Cải cách tư pháp có mục tiêu bảo
vệ quyền con người và là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, lấy mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội vì con người làm cơ sở cho triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Thứ năm, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Trong đó,
đã chỉ rõ: “Chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính
và cải cách tư pháp”. Muốn vậy, “Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là các tổ chức,
đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Điều này cho thấy, các thẩm phán,
kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên và các chức danh bổ trợ tư pháp khác khi thực
hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định thì vừa phải hoạt động đảm bảo tuân thủ Hiến Pháp,
pháp luật để giữ uy tín cho cơ quan, tổ chức mình và vừa phải phát huy vai trò của đảng
viên.
Thứ sáu, mục tiêu cải cách tư pháp được xác định cụ thể, rõ ràng trong tổng thể của
giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030. Đó là: “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại,
công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư
pháp có trọng trách bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ
chức cá nhân”. Đồng thời, Đảng khẳng định phương hướng cụ thể tập trung vào các nội
dung chủ yếu như: “Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.
Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngồi Tịa án.
Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân
sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng” và “Khơng hình
sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trị giám sát, phản

biện xã hội các hình thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hòa giải cấp cơ sở”. Bên


cạnh đó, để mục tiêu, nhiệm vụ về cải cách tư pháp có hiệu quả, Đảng cũng đưa ra phương
hướng chung về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong đó có đội ngũ cán bộ tư pháp và
bổ trợ tư pháp như sau: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có tính chun
nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ
và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng”.
Để cụ thể hóa mục tiêu trên, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2021 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2021-2025 đã nhấn mạnh nội dung quan trọng: “ Xây dựng và thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tịa án nhân dân, cơ quan thực hiện quyền tư pháp
và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp”. Đồng thời, “Xây dựng các
thiết chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, tăng cường
tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định”. Trong nhiệm kỳ lần thứ XIII, Đảng nhấn mạnh
giải pháp “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh
nghiệp. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật,
bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngồi Tịa án… Tăng cường cơng tác
tiếp công dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân”
Như vậy, qua nghiên cứu Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng về hoạt động tư
pháp và cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN cho thấy, đẩy mạnh cải cách tư
pháp là quan điểm xuyên suốt, kiên định, có trọng tâm, trọng điểm của Đảng, nhất là trong
giai đoạn 15 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp,
xây dựng nền tư pháp luôn được lãnh đạo triển khai đồng bộ với xây dựng nền hành chính
nhà nước và đổi mới chất lượng hoạt động của Quốc hội. Đảng khẳng định, cải cách tư pháp
có mục tiêu bảo vệ quyền con người và là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, lấy mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội vì con người làm cơ sở cho triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ
cải cách tư pháp. Điều này cho thấy, quan điểm của Đảng về tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN gắn với cải cách tư pháp ngày càng được thể hiện một cách cụ thể hơn,

thiết thực hơn và dễ đi và đời sống hơn khi xác định không chỉ lộ trình thực hiện mà cịn chỉ
ra cách thức, phương pháp tiến hành có hiệu quả nhất. Quan điểm tiếp tục cải cách tư pháp


trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng thực sự là một nội dung phong phú và có ý
nghĩa đối với cơng tác phịng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật và bảo đảm công lý, công
bằng trong xã hội, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển con người, phát triển đất nước và xã hội
Việt Nam XHCN.
III. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ GIÁM SÁT CỦA CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ VÀ
PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN TƯ
PHÁP
- Bảo đảm sự thống nhấttrong nhận thức của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức
và các tầng lớp nhân dân về mục đích, u cầu của việc hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền
lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu khách quan,xu thế tất yếu. Mục đích của
kiểm sốt quyền lực nhà nước không phải cản trở hoạt động của Nhà nước, làm Nhà nước
yếu đi mà ngược lại kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước.Mặt khác, kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phịng ngừa, ngăn chặn
tình trạng vi phạm pháp luật, lạm quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng
mục đích. Do vậy, cần nâng cao nhận thức cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và
các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về sự cần thiết, khách quan
phải hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước trong điều kiện mới.
- Nâng cao năng lực thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà
nước trong hoạt động xây dựng pháp luật
Hoạt động xây dựng pháp luật phải thể chế hóa phải kịp thời, đồng bộ; chương
trình xây dựng pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính khả thi, phù
hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước và phù hợp với
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Quán triệt quan điểm của Đảng “đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực bằng hệ thống pháp luật”. Do vậy, cần sớm “hoàn thiện các quy định của Đảng,

pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phịng, chống tham
nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu,


trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, cơng khai, minh bạch”. Đồng thời, tiếp tục nghiên
cứu, luận chứng rõ căn cứ khoa học và pháp lý để hoàn thiện “cơ chế bảo vệ Hiến pháp” như
là một thiết chế chuyên trách kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Thực hiện đầy đủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, phân công rành
mạch, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm sốt quyền lực nhà nước
Thực hiện sự phân cơng, phân nhiệm rõ ràng, mạch lạc giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong điều kiện chỉ có một đảng
duy nhất cầm quyền như ở nước ta hiện nay, việc thực hiện sự phân công quyền lực cụ thể,
rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho bộ phận quyền lực này có thể kiểm sốt được bộ phận quyền lực
khác hiệu quả. Ngồi ra, thực hiện sự phân cơng quyền lực rõ ràng sẽ khắc phục được sự
trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước. Do vậy, cần quán triệt chủ trương của Đảng: “xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát
quyền lực nhà nước”.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và
cơ quan bổ trợ tư pháp trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ. Quán triệt
quan điểm của Đảng: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan
thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp… phịng ngừa và
đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”, không ngừng tăng
cường sự phối hợp, nâng cao hiệu quả “công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án

tham nhũng, lãng phí”C:\Users\84903\AppData\Local\Temp\1. HMHoi - Kiem soat quuyen luc theo NQ
Dai hoi XIII.HA.MT.doc - _ftn26.


- Phát huy vai trò của Đảng cẩm quyền trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
Phát huy vai trò và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra các cấp đối với
đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định
Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Các tổ chức đảng có thẩm quyền phải xử lý
nghiêm minh, kịp thời và công khai đối với những đảng viên, nhất là đảng viên giữ các chức
vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật. Quán triệt và
thống nhất “thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy
chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý
bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển cơng tác hoặc nghỉ
hưu”C:\Users\84903\AppData\Local\Temp\1. HMHoi - Kiem soat quuyen luc theo NQ Dai hoi
XIII.HA.MT.doc - _ftn27.

- Hoàn thiện quy định pháp luật nâng cao vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp và cơ quan
truyền thơng báo chí trong hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước
Tiếp tục hồn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm “phát huy vai trị của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thơng tin đại
chúng trong q trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong
việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí”. Quy định rõ quy trình, thủ tục
và trách nhiệm của người đứng đầu tiếp nhận, giải quyết những kiến nghị về giám sát của
nhân dân.
- Phát huy vai trò và bảo đảm quyền giám sát trực tiếp của nhân dân, góp phần thực
hiện có hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Cần quán triệt sâu sắc quan điểm “dân làm chủ”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; tiếp tục thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp,

dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; thực hiện tốt có hiệu quả phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng kịp thời các
đạo luật về quyền con người, quyền cơng dân. Bên cạnh đó, cần phải hoàn thiện các quy


định của pháp luật bảo đảm và tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước.
- Bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
Một trong những điểm mới về nhận thức của Đảng ta tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII đối với việc hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực là phải tăng cường và bảo đảm
sự phối hợp chặt chẽ giữa các thiết chế trong kiểm soát quyền lực. Do vậy, cần quán triệt và
bảo đảm sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động kiểm soát quyền lực của các cơ quan quyền
lực nhà nước như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;tăng cường hoạt động kiểm tra của
Đảng với hoạt động kiểm toán độc lập, hoạt động của thanh tra Chính phủ và hoạt động của
các cơ quan tố tụng trong các vụ án về kinh tế, tham nhũng, chức vụ; tạo sự phối kết hợp
trong hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng và hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm
“tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh
chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, khơng hiệu quả” ; qn triệt và thực hiện phương
châm “tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống
chạy chức, chạy quyền”; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ
quốc và tổ chức chính trị - xã hội với cơ chế nhân dân trực tiếp giám sát quyền lực nhà nước
IV. LIÊN HỆ TRONG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Hiến pháp năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của
VKSND, Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) khẳng định chủ trương: Nghiên cứu, ban hành
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến
năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược cải cách tư pháp. Một trong
những nội dung quan trọng là phải chú trọng tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của VKSND. Theo đó, kiện tồn tổ chức và hoạt động

của VKSND nói chung và hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói riêng là địi
hỏi mang tính tất yếu khách quan và đặt ra một số yêu cầu sau đây:


Thứ nhất, việc hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND phải
được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, hiệu quả, thống nhất với hoạt động của VKSND và
các cơ quan khác trong hoạt động tư pháp:
Đây là một trong những yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với VKSND nói chung và kiểm sát
hoạt động tư pháp nói riêng. Bởi lẽ, kiểm sát hoạt động tư pháp là một bộ phận cấu thành
hoạt động của VKSND nên cần đảm bảo tính đồng bộ, thơng suốt, thống nhất và khẩn
trương, kịp thời nhưng cũng cần thận trọng và vững chắc, không làm ảnh hưởng đến hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp cũng mang tính đại diện cho VKSND trong mối quan hệ
với các cơ quan nhà nước khác trong hoạt động tư pháp (Cơ quan điều tra, Tòa án, cơ quan
Thi hành án), nên cần phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất hiệu quả. Hơn nữa, việc hoàn
thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp phải đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, do đó,
cần tiến hành mang tính đồng bộ cả với cải cách lập pháp và cải cách hành chính, nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của VKSND và các cơ quan khác trong hoạt động tư pháp nói riêng,
cũng như cả của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, việc hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đáp ứng
yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, cùng với việc tổng kết 10 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) và tổng kết 35 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận định tổng quát về thành tựu thực thi
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước: “Cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền
lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có nhiều chuyển biến
tích cực”. Tuy nhiên, Đảng cũng đã chỉ ra những hạn chế, bất cập trong tổ chức thực thi
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó, hạn chế lớn nhất là: “Cơ chế kiểm sốt
quyền lực chưa hồn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ”.

Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng đã có những bổ sung quan trọng về nội dung của
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta trong tình hình mới (tầm nhìn đến 2045) như sau:


“… bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt
chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo tính thống
nhất của pháp chế, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước phải được tuân thủ và chấp hành
nghiêm chỉnh, thống nhất. Vì vậy, việc tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực
hiện quyền lực nhà nước và quyền lực tư pháp là một nhu cầu tất yếu khách quan. Đây cũng
là cơ sở lý luận và pháp luật quan trọng để VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp. Do đó, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là một trong những phương thức
kiểm soát quyền lực nhà nước, đó là phương thức giám sát từ bên ngồi đối với hoạt động
của Cơ quan điều tra, Tòa án, cơ quan Thi hành án và cơ quan khác được giao thực hiện
quyền tư pháp. Chính vì vậy, VKSND tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với chủ trương trong Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng về “tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Việc tiếp tục hoàn thiện chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được coi là phương thức giám sát có hiệu quả, góp
phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp.
Thứ ba, việc hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND đáp ứng
yêu cầu, trọng trách bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp:
Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục
xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều có liên
quan, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền, tự do, dân chủ của người dân, có thể thấy cả hai mặt,
vừa là có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm quyền con người, nhưng đồng thời cũng rất
dễ vi phạm quyền con người trong quá trình thực thi cơng vụ. Hoạt động của Tịa án và Viện
kiểm sát là hai cơ quan có trách nhiệm bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người nhưng nếu

không đủ “phụng cơng, thủ pháp, chí cơng, vơ tư” rất có “nguy cơ” vi phạm quyền con
người và có thể dẫn tới oan, sai. Tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu rất cao,


nhấn mạnh là hoạt động tư pháp phải có “trọng trách” bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân. Do đó, ngun tắc tính cơng bằng, cơng khai, khách quan, vô tư
trong hoạt động xét xử phải đặc biệt được đề cao để xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội, đồng thời cũng không được bỏ lọt tội phạm.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định VKSND có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền
công dân (khoản 3 Điều 107). Thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp, VKSND có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý hoặc yêu cầu xử lý kịp thời các
hành vi vi phạm trong hoạt động tư pháp làm xâm hại đến quyền con người, quyền công
dân. Như vậy, “trọng trách” bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư
pháp là cơ sở quan trọng để tiếp tục hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND trong thời gian tới.
C. KẾT LUẬN
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự theo hướng nghiên cứu, tiếp thu có
chọn lọc những yếu tố khoa học, tiến bộ của mơ hình tố tụng tranh tụng; sửa đổi các quy
định của mơ hình tố tụng thẩm vấn khơng cịn phù hợp; tăng cường tính cơng khai, minh
bạch và khả năng tiếp cận công lý, bảo vệ quyền của Nhân dân khi tham gia tố tụng; đổi mới
căn bản thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Tiến hành tổng kết việc thực
hiện chế định hội thẩm nhân dân; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng xác định rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của hội thẩm nhân dân, thẩm phán trong hoạt động xét xử. Xác định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của những người tham gia hoạt động tố tụng hành chính, có chế tài xử
lý các tập thể, cá nhân khơng thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính độc lập, liêm chính trong các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án và bảo đảm khả năng tiếp cận công lý, bảo vệ quyền của
người dân là những phương hướng đặt ra cần hoàn thiện trong giai đoạn cải cách tư pháp sắp
tới, có thực hiện được những phương hướng này mới có thể tạo dựng được một nền tư pháp
trong sạch và vững mạnh./.




×