Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Bùa chú trong đời sống tâm linh của người Việt (Nghiên cứu trường hợp xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.17 MB, 182 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------

TRƢƠNG THỊ THÚY HÀ

BÙA CHÚ TRONG ĐỜI SỐNG
TÂM LINH CỦA NGƢỜI VIỆT
( NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ NGŨ KIÊN
HUYỆN VĨNH TƯỜNG TỈNH VĨNH PHÚC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội- 2015

TIEU LUAN MOI download :


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------

TRƢƠNG THỊ THÚY HÀ

BÙA CHÚ TRONG ĐỜI SỐNG
TÂM LINH CỦA NGƢỜI VIỆT
( NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ NGŨ KIÊN
HUYỆN VĨNH TƯỜNG TỈNH VĨNH PHÚC)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số



: 60 31 03 10

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Văn Chính

Hà Nội- 2015

TIEU LUAN MOI download :


Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu ra trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ
cơng trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày…..tháng…..năm 20
Tác giả luận văn
Trƣơng Thị Thúy Hà

TIEU LUAN MOI download :


Lời cảm ơn
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS.Nguyễn Văn
Chính, người thầy đã gợi mở cho tôi từ những ý tưởng ban đầu của luận văn, đặc
biệt là những định hướng về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu cũng như đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn cho tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn. Từ đáy lịng
mình tơi xin chân thành cảm ơn thầy.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới UBND xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh
Tường tỉnh Vĩnh Phúc, và UBND xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình đã
tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong thời gian nghiên cứu tại địa bàn. Đặc biệt, tôi muốn

bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới người dân thôn Xám, xã Ngũ Kiên đã giúp
đỡ tôi rất nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu tại địa phương. Đồng thời, tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình Thầy Pháp Hải, Thầy Pháp Minh
Thơng, Cơ Chúc, Thầy Đức đã tận tình chỉ bảo cũng như đã tận tình giúp đỡ tơi
trong q trình thu thập thơng tin.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Bộ môn Dân tộc
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn đã chỉ bảo, động viên khích lệ
và tạo điều kiện tốt nhất cho q trình học tập của tơi tại đây.
Và cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đã ln ủng hộ
giúp đỡ tơi hồn thành luận văn.
Mặc dù đã cố gắng theo đuổi ý tưởng nghiên cứu và nỗ lực làm việc hết
mình của bản thân, song do kiến thức và thời gian có hạn nên luận văn chắc chắn sẽ
khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự góp ý của tất cả các
thầy cô, bạn bè và những ai quan tâm tới đề tài.

Hà Nội, tháng

năm

Trƣơng Thị Thúy Hà

TIEU LUAN MOI download :


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Vật liệu sử dụng để làm bùa của Thầy cúng Đạo giáo ở xã An Cầu,
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ................................................................................ 78
Bảng 3.2. Vật liệu sử dụng làm bùa (dấu) của Thầy Hải xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh
Tƣờng, tỉnh Vĩnh Phúc ....................................................................................................... 87
Bảng 3.3: Thực trạng về việc sử dụng bùa nói chung .................................................. 96

Bảng 3.4: Các loại bùa đƣợc sử dụng phổ biến ở gia đình.......................................... 97
Bảng 3.5: Các loại bùa sử dụng cho các nhân ............................................................... 99
Bảng 3.6: Giá cả một số loại bùa do thầy Minh làm. ................................................. 104
Bảng 3.7: Giá cả một số loại bùa do thầy Hải làm . .................................................... 105
Bảng 3.8: Các Quan niệm và thái độ của ngƣời dân về bùa chú............................. 108
Bảng 3.9 : Lý do sử dụng loại bùa .................................................................................. 111

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2
1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: .......................................................... 2
2. Vấn đề nghiên cứu ................................................................................................ 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: ...................................................................... 5
4 Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 6
5 Cấu trúc của luận văn .......................................................................................... 7
CHƢƠNG 1:TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ BÙA CHÚ VÀ ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU ..........................................................................................................8
1.1. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 8
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài và các khái niệm công cụ ................................... 19
1.2.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài ............................................................................... 19
1.2.2. Các khái niệm công cụ................................................................................... 21
1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu...................................................................... 32
1.3.1.Đồng Bằng sông Hồng.................................................................................... 32
1.3.2. Địa bàn xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ........................ 33
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................................43
CHƢƠNG 2: BÙA CHÚ TRONG ĐỜI SỐNG ................................................... 44
2.1. Phân loại bùa chú ............................................................................................. 44
2.2. Bùa chú trong đời sống của ngƣời dân .......................................................... 53

2.2.1: Bùa Trấn Trạch ............................................................................................. 53
2.2.2. Bùa hộ mệnh: ................................................................................................. 57
2.2.3. Bùa, phù độ tử (độ cho người chết) .............................................................. 59
2.2.4. Bùa chữa bệnh: .............................................................................................. 62
2.2.5. Các loại bùa khác. .......................................................................................... 64
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 65
CHƢƠNG 3: BÙA CHÚ, THỊ TRƢỜNG VÀ ĐỜI SỐNG TÂM LINH ........... 67
3.1. Quá trình sản xuất ra bùa chú ........................................................................ 67
3.1.1. Bùa chú được sản xuất theo cách thức truyền thống của Đạo giáo ........... 68
3.1.2. Bùa chú được làm ra từ các pháp sư, thầy cúng của đạo Tứ Phủ .............. 85
3.1.3. Bùa chú được sản xuất ra từ các hình thức khác trong cộng đồng ............ 90
3.2. Thị trƣờng bùa chú ......................................................................................... 93
3.3. Các yếu tố tác động đến việc sử dụng bùa chú ............................................108
Tiểu kết chƣơng 3: ................................................................................................116
KẾT LUẬN ............................................................................................................119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................124
PHỤ LỤC
1

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Bùa chú là một sản phẩm “kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật”, là một phần của đời
sống tơn giáo tín ngưỡng lâu đời nhất, cổ xưa nhất, phổ biến nhất trong lịch sử lồi
người và cịn tồn tại cho đến nay. Bùa chú có mặt trong tất cả các nền văn hóa và được
tìm thấy trong mọi thời kỳ của lịch sử.
Trong thế giới hiện đại, bùa chú tồn tại nhưng không hiển hiện một cách rõ ràng
trên bề mặt của những hành vi tơn giáo tín ngưỡng nhưng nó lại là một mạch nước

ngầm bền bỉ, sâu sắc và tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng trong đời sống tâm linh.
Nó được các pháp sư, thầy cúng, ông bà đồng, hoặc các nhà sư làm ra và sử dụng cho
các mục đích khác nhau, người ta có thể dùng để bảo vệ cơ thể chống lại các lực lượng
tà ma qủy quái, nhưng cũng không loại trừ các bùa chú có mục đích làm hại. Những
hiện vật thần bí được “thiêng hố” có tên gọi bùa chú này ln chứa đựng trong nó sự
dung hợp của nhiều yếu tố tơn giáo và tín ngưỡng, và có thể cả những học thuyết về
thế giới con người và thế giới siêu linh mối liên hệ giữa hai thế giới ấy, hoặc chỉ đơn
giản là những niềm tin không thể giải thích được.
Trong bối cảnh sự bất ổn về mọi mặt của đời sống xã hội luôn bao quanh con
người như: Bất ổn của nền kinh tế thị trường, thiên tai, bệnh tật, chủ nghĩa khủng bố
lan tràn, chiến tranh, những tai nạn… có thể xảy ra bất cứ lúc nào thì yếu tố tơn giáo
“lại trở thành một cứu cánh mạnh mẽ và trong chừng mực nào đó lại giúp ích cho
người hiện đại rất nhiều” [44, tr196], bùa chú được con người tìm đến và sử dụng như
một hình thức bảo hiểm vơ hình của thần linh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời
sống tâm linh để giúp họ vượt qua những bất trắc, rủi ro trong xã hội hiện đại. Và cho
đến nay, bùa chú vẫn được nhắc đến và sử dụng như một hiện tượng tơn giáo, tín
ngưỡng tồn tại song hành với sự phát triển của kinh tế, xã hội và tiến bộ của khoa học
kĩ thuật.
Mặc dù, ở Việt Nam trong thập niên gần đây những nghiên cứu về thực hành
thực tôn giáo, tín ngưỡng là một trong những chủ đề hấp dẫn các nhà nghiên cứu khoa
học xã hội trong và ngồi nước. Tuy nhiên, phần lớn các cơng trình nghiên cứu, đề tài
nghiên cứu mới tập trung vào những mảng lớn của tơn giáo tín ngưỡng, nghiên cứu về
2

TIEU LUAN MOI download :


hiện tượng tâm linh của các dân tộc thiểu số. Trong một vài năm trở lại đây cũng đã
xuất hiện nhiều nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh nhỏ trong đời sống tơn giáo
tín ngưỡng như: Vàng mã, sớ, trang phục nghi lễ hay hiện vật phong thủy..., cũng đã

được đề cập đến trong các nghiên cứu nhưng vẫn cịn ít, tản mác trong các cơng trình
nghiên cứu. Cịn nghiên cứu về bùa chú hầu hết là tập hợp những bài viết đơn lẻ, rời
rạc hoặc có đề cập qua loa và chỉ mang tính chất thơng báo mơ tả như một hiện tượng
thuộc về bộ phận của nghiên cứu. Trên thực tế cho tới nay, nghiên cứu về bùa chú
cũng như những ảnh hưởng của nó trong đời sống tâm linh của người Việt Nam trong
xã hội hiện đại vẫn còn là “một biển tri thức” vẫn chưa được đề cập đến một cách sâu
sắc và toàn diện.
Trong quá trình thu thập tài liệu cũng như quá trình thực địa hiện vật được
“thiêng hóa” với tên gọi “bùa chú” này đã đem lại cho chúng tôi nhiều khám phá mới
mẻ và thú vị. Điều thú vị mà chúng tơi phát hiện được đó là từ việc sản xuất đến tiêu
dùng bùa chú nó đã mang trong mình một “qui trình” khép kín và chứa đựng những
qui tắc “ngầm” (hay kiêng kị) để phản ánh mối quan hệ quan hệ của con người với thế
giới thần linh. Bên cạnh đó, chúng tơi cịn được chứng kiến hiệu ứng tác động của bùa
chú đối với chính đời sống tâm linh của người Việt.
Từ những cơ sở thú vị và mới mẻ của bùa chú, cũng như sự biến đổi nhanh
chóng trong đời sống xã hội đã khiến chúng tôi quyết định lựa chọn “Bùa chú trong
đời sống tâm linh người Việt (Nghiên cứu trường hợp xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh
Tường, tỉnh Vĩnh Phúc” để làm đề tài luận văn của chuyên ngành Dân tộc học.
Nghiên cứu về bùa chú chính là nghiên cứu hiện vật của tơn giáo tín ngưỡng
đóng vai trị quan trọng trong tín ngưỡng dân gian, nghi lễ và phong tục, một phần
trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng. Bởi vậy, tìm hiểu về đề tài này chính là tìm hiểu
về những thực hành tơn giáo tín ngưỡng trong dân gian nhằm nhận định mối quan hệ
của bùa chú với đời sống tinh thần của con người trong cuộc sống hiện đại là một
trọng tâm trong nghiên cứu nhân học.
Trên thực tế, bùa chú là một hiện vật của tơn giáo, tín ngưỡng vì thế nó sẽ có
những ảnh hưởng về mặt xã hội lên các hành vi của con người, về niềm tin tín ngưỡng

3

TIEU LUAN MOI download :



tôn giáo. Nghiên cứu này sẽ khám phá quan niệm, niềm tin của con người về thế giới
và chính bản thân mình.
Ngồi ra, trong khoảng những năm gần đây nhu cầu sử dụng bùa chú ngày càng
tăng lên, bùa chú đã trở thành một thứ hàng hóa và hình thành nên một “thị trường bùa
chú” rộng lớn, bùa chú mang lại lợi nhuận cho người làm bùa, người sản xuất bùa và
phân phối bùa, nó bao hàm bên trong nó những mục đích và những hành vi kinh tế rất
lớn. Vì thế, trong một chừng mực nào đó nghiên cứu phản ánh xã hội hiện tại của con
người.
2. Vấn đề nghiên cứu
Trước hết luận văn sẽ khái quát lên bức tranh sử dụng bùa chú trong đời sống
của người dân. Ai sẽ là người làm ra bùa? Họ làm ra bùa như thế nào? Và ai sẽ là
người dùng bùa? Vì sao họ lại dùng bùa? Họ dùng bùa trong hoàn cảnh nào? Tức là
nghiên cứu sẽ đi trả lời câu hỏi: Bùa chú được sử dụng như thế nào trong xã hội?
Thứ 2, luận văn sẽ đi lý giải tìm hiểu những yếu tố tác động đến nhu cầu sử
dụng bùa chú hiện nay của người Việt. Hiểu được những yếu tố tác động đến việc sử
dụng bùa chú trong đời sống hiện nay của người việt có ý nghĩa quan trọng trong việc
đánh giá tác động của bùa chú lên các hành vi tơn giáo và tín ngưỡng. Bản thân bùa
chú là một hiện vật của tôn giáo, vì thế nó sẽ có những ảnh hưởng về mặt xã hội: Các
hành vi của bùa chú lên con người, về niềm tin tín ngưỡng tơn giáo vào hiện vật này.
Sự tác động này có sự khác biệt nào theo thứ bậc tuổi tác, trình độ học vấn hay địa vị
xã hội, hay là niềm tin này khơng có biên giới.
Tác động của bùa chú lên các hành vi kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay
khi nhu cầu về bùa chú ngày tăng, bùa chú đã trở thành một loại hàng hóa: Nó mang
lại lợi nhuận cho người làm bùa, người sản xuất bùa và phân phối bùa, nó đã hình
thành nên một thị trường về bùa chú: Các cửa hàng bán đồ phong thủy, cửa hàng bán
bùa, chùa cũng bán bùa, ở các địa địa điểm du lịch cũng bán bùa…bùa chú cịn bao
hàm bên trong nó những mục đích và những hành vi kinh tế rất lớn. Nghiên cứu những
tác động của bùa chú lên các hành vi tế có ý nghĩa rất lớn để hiểu được về bùa chú

trong giai đoạn hiện nay.

4

TIEU LUAN MOI download :


Thứ 3, nghiên cứu sẽ đi sâu vào khai thác những phản hồi của người dân về bùa
chú, trong đó tập trung vào hai đối tượng chính là người làm ra bùa và người sử dụng
bùa. Những quan niệm của người sản xuất ra lá bùa và người sử dụng lá bùa đó như
thế nào? Họ có tin vào bùa chú khơng? Họ sử dụng bùa có hiệu quả khơng? Tức là
nghiên cứu đi khai thác các câu truyện đời sống của người dân về bùa chú. Và bùa
chú có ý nghĩa như thế nào trong đời sống tâm linh của người dân tại địa phương.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Trong nghiên cứu ngày chúng tơi sẽ tập trung và hai nhóm đối tượng chính:
Người sản xuất và phân phối bùa; người sử dụng lá bùa đó. Bên cạnh đó, một đối tượng đặc
biệt trong nghiên cứu này chúng tơi muốn đề cập đó là bản thân những lá bùa.
Thứ nhất, người sản xuất và phân phối bùa: Thầy cúng, pháp sư, ông đồng, nhà
sư…Cụ thể, chúng tôi đã tiếp cận với một thầy cúng, một pháp sư đồng thầy, một thầy
cúng tại thôn Xám xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, một nhà Sư tại
chùa Thiên Phúc xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc; một pháp Sư tại
Thôn Lương Cầu, xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, một Pháp Sư tại Định
Cơng, quận Hồng Mai, Hà Nội. Ngồi ra chúng tơi cịn tiếp cận với tầng lớp trung
gian chuyên phân phối bùa chú đó là một vài người bán bùa tại phố hàng Mã, Hà Nội.
Mặc dù, họ không làm ra bùa nhưng họ người giữ vai trò qua trọng trong việc phát
triển một thị trường bùa chú rộng lớn.
Thứ hai, những người sử dùng bùa: Những người sử dụng bùa là những người
dân tại địa bàn thôn Xám, xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Trong
nghiên cứu này chúng tôi đặc biệt quan tâm đến “những người sử dụng bùa”, họ sẽ là

những người giúp chúng tơi lý giải mã vai trị của bùa chú trong đời sống tâm linh của
người Việt trong thế giới hiện đại.
Chính bản thân những lá bùa: Loại bùa chúng tơi tiếp cận chủ yếu là bùa Bình
An, bùa Trấn Trạch, bùa Độ Tử, bùa Chữa bệnh đây là những loại bùa được sử dụng
chủ yếu trong đời sống của người Việt hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu

5

TIEU LUAN MOI download :


Nghiên cứu của tơi nhấn mạnh đến vị trí vai trò của bùa chú trong đời sống lâm
linh của người Việt trong xã hội hiện đại chính vì thế nghiên cứu sẽ kết hợp nghiên
cứu trên một không gian rộng và nghiên cứu sâu tại một địa bàn cụ thể.
Nghiên cứu trên diện rộng sẽ giúp cho tôi một cái nhìn tồn diện về vấn đề bùa
chú hiện nay và những hiểu biết trên khơng gian rộng đó sẽ tạo điều kiện để tơi nhìn
sâu vào trong trường hợp nghiên cứu cụ thể của mình. Nghiên cứu trên diện rộng là
Đồng Bằng Sông Hồng cụ thể là: Hà Nội, Thái Bình, Vĩnh Phúc.
Quy mơ nhân học được lựa chọn trong nghiên cứu này của tôi là xã Ngũ Kiên,
huyện Vĩnh Tường, Tỉnh Vĩnh Phúc sẽ là đơn vị cơ sở để tơi phân tích trong nghiên
cứu này. Ngũ Kiên là một xã thuộc huyện Vĩnh Tường, tỉnhVĩnh Phúc. Xã có diện tích
4,91 km², dân số năm hiện nay là hơn 7679 người. Ngũ Kiên nằm ở phía Nam huyện
Vĩnh Tường, đây là xã giàu truyền thống lịch sử, văn hoá. Người dân trong xã năng
động ngồi làm nơng nghiệp họ cịn tham gia vào các hoạt động bn bán, làm nghề
phụ đi làm ăn xa ở các nơi.Bộ mặt của xã trong 10 năm trở lại đây xã thay đổi chóng
mặt, đời sống vật chất của người dân trong xã được nâng lên rất nhiều. Cùng với đó, đời
sống tinh thần của người dân ngày càng được chú trọng hơn.
4 Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này tôi sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định

lượng nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng thống kê phân loại sẽ giúp tôi thu thập
những thông tin về quy mô và bản chất của việc sử dụng bùa chú: Có bao nhiêu người
tin vào bùa chú, có bao nhiêu người khơng tin vào bùa chú nhưng vẫn sử dụng bùa
chú. Có bao nhiêu người khơng biết tý gì về bùa chú nhưng trên người họ vẫn sử dụng
bùa chú, có bao nhiêu loại bùa được sử dụng chủ yếu trong đời sống của người dân,
khi nào thì họ cần dùng đến bùa chú v.v…
Phương pháp định tính được sử dụng có ý nghĩa đặc biệt quan trong nghiên cứu
này. Sử dụng phỏng vấn sâu bán cấu trúc và cấu trúc để thu thập những câu truyện về
đời sống của họ: Vì sao họ tìm đến với bùa chú, họ có tin vào bùa không? …và những lý
giải của dân gian sẽ giúp ta giải thích các câu chuyện tại sao người ta dùng bùa chú. Những
trải nhiệm công hiệu của bùa chú trong cuộc sống của người dân.
6

TIEU LUAN MOI download :


5 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu nêu ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài, vấn đề
nghiên cứu, đối tượng phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu thì phần nội dung
của luận văn bao gồm các chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về bùa chú và địa bàn nghiên cứu
Nội dung của chương nói lịch sử nghiên cứu, phân tích phương pháp và khung
lý thuyết tiếp cận vấn đề. Các khái niệm công cụ liên quan tới vấn đề nghiên cứu, và
địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Bùa chú trong đời sống
Chương này chúng tơi đưa ra các tiêu chí để phân loại bùa chú, và các loại bùa
chú được sử dụng trong đời sống của người Việt.
Chương 3: Bùa chú, thị trường và đời sống tâm linh
Chúng tôi đề cập đến quy trình sản xuất ra bùa chú: Từ người sản xuất ra bùa

chú, các phương thức sản xuất ra bùa chú, người tiêu thụ bùa chú, các yếu tố tác động
đến nhu cầu sử dụng bùa chú trong đời sống của người dân.
Kết luận

7

TIEU LUAN MOI download :


CHƢƠNG 1.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ BÙA CHÚ
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1.

Lịch sử vấn đề

Bùa chú nằm trong ma thuật, và nó là hiện vật của tơn giáo tín ngưỡng vì vậy
trong các cơng trình nghiên cứu về tơn giáo tín ngưỡng từ sớm đã ít nhiều đề cập đến
bùa chú một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Nghiên cứu về vấn đề này đáng kể phải kể
đến các công trình nghiên cứu của:Edward Tylor, Frazer, Macel Mauss, Bronislaw
Malinowski. Những nghiên cứu của các tác giả này có tầm ảnh hưởng lớn trong
nghiên cứu ma thuật nói chung và bùa chú nói riêng.
Nghiên cứu, ma thuật từ góc độ nhân học đã phát triển hơn một thế kỷ qua, có
thể kể từ những cơng trình nghiên cứu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các nhà
nhân học như Edward Tylor, ơng là một nhà tiến hố luận xã hội, ơng nhìn thấy tơn
giáo tiến hố từ các điều kiện đơn giản, ngun thuỷ. Ơng đã hình thành tương đối có
hệ thống về ma thuật trong cơng trình của mình mang tên (Primitive Cultures) (1871)
dịch Văn hóa ngun Thủy [66]. Ông đã gắn trước hết thần linh ma thuật vào vật linh
giáo nguyên thủy, ông cũng đề cập về ma thuật mẫn cảm nghĩa là những nghi lễ ma
thuật tiến hành trước nó theo những luật gọi là mẫn cảm, cái này với cái nọ, cái gần

gũi này với cái gần gũi khác, từ hình ảnh đến các vật, từ bộ phận tới tồn thể, nhưng
chính chủ yếu là để cho thấy rằng trong các xã hội của chúng ta, nó là một bộ phận của
hệ thống các tàn dư. Tylor cho rằng, những quan niệm theo hướng vạn vật đều có linh
hồn hồn tồn thuộc về buổi sơ khai/thời thơ ấu của lồi người, khơng phải ở thời hiện
đại tuổi trưởng thành.Thực ra Tylor khơng có sự giải thích nào về ma thuật trong
khn khổ vật linh giáo.Theo ông, trong văn hóa của các bộ lạc nguyên thủy những
thầy pháp làm ma thuật có những cách tiếp cận giống như một nhà khoa học, nhưng
các thầy pháp mắc sai lầm vì họ cho rằng mối quan hệ nhân quả khơng tồn tại đơn giản
vì các sự vật có vẻ là giống nhau. Thêm vào nữa, Tylor không đặt ma thuật vào trong
thế giới của tơn giáo vì khơng có thần thánh liên quan, mà theo ơng thần thánh là
những yếu tố quan trọng cần thiết để nhận diện tơn giáo. Cịn James George Frazer,
nhìn thấy ma thuật như là logic sai lầm về sự truyền cảm hay lây nhiễm. Theo Ông,
8

TIEU LUAN MOI download :


nếu tôi đâm cái kim vào con búp bê làm giống kẻ thù của tơi, tơi có thể làm cho kể thù
bị đau “truyền cảm”. Nếu tôi ăn trộm cái gì đó từ một người may mắn, sự may mắn
của họ sẽ lây sang tôi, hay “lây nhiễm”.
Ma thuật và tôn giáo đã trở thành nội dung trung tâm cuốn Cành vàng (The
Golden Bough), của Frazer. Ông đã đi tới những những lý thuyết thực sự. Cũng giống
như E.Tylor, Frazer cho rằng: Ma thuật là một loại khoa học có trước khoa học. Đối
với Frazer ông đều cho ma thuật là tất cả những hành động nhằm tạo ra các hiệu lực
riêng biệt bằng cách áp dụng hai định luật: Mẫn cảm, và đồng hóa. Theo đề mục cổ
điển của James Frazer sympathetic magic (ma thuật giao cảm) thì ma thuật đồng cảm
bao gồm hai tiểu loại nói về các phương thức công hiệu ma thuật: Homeopathic magic
(phép vi lượng đồng cân) – đây là ma thuật hoạt động thông qua hành động tương
đồng gián tiếp, sự giống nhau sản sinh ra sự giống nhau, và contagious magic (phép
lây nhiễm) – đây là ma thuật hoạt động thông qua hành động tiếp xúc trực tiếp có ảnh

hưởng đến kết quả mong muốn. Hành hộng ma thuật có thể đồng thời biểu thị cả hai
phương thức cơng hiệu này vì về nguyên tắc hoạt động chúng bổ trợ lẫn nhau chứ
không loại trừ nhau. Ví dụ, một bùa mê tình u có thể dùng các chất vi lượng đồng
cân (thảo dược, đá, vải, v.v – những vật, xét về mặt tượng trưng hoặc tác dụng chữa
bệnh, gắn liền với tình yêu và mong muốn tăng thêm) cũng như các chất hoạt động
qua sự lây nhiễm (một món tóc hoặc một vật dụng mà người bị bỏ bùa xé hoặc sờ
phải). Ông đã lập luận như sau: “Cái đồng dạng tạo ra cái khơng dạng, các vật tiếp xúc
với nó nhưng đã khơng cịn tồn tại nữa tiếp tục tác động cái này với cái kia như là sự
tiếp xúc vẫn tồn tại” và người ta có thể thêm vào như một hiệu quả: “Bộ phận được coi
là cái toàn thể như là hình ảnh đối với các vật tiêu biểu” như thế định nghĩa tạo ra của
trường phái nhân chủng học nhằm thu hút ma thuật vào ma thuật mẫn cảm. Mẫn cảm
là đặc tính đủ và cần thiết của ma thuật, tất cả các nghi lễ ma thuật đều mẫn cảm và
ngược lại. Ơng đã hồn tồn biến nó vào những hiện tượng mẫn cảm nhưng ơng đã
khơng có những chứng minh lý lẽ cho sự lựa chọn ấy.
Cả Frazer and Tylor coi ma thuật như là một phần của tư duy sai lầm và lây
nhiễm mà họ gán ghép cho những điều kiện xã hội nguyên thuỷ và ít tiến hoá về
những dân tộc mà họ nghiên cứu. Họ nhìn thấy những ví dụ về ma thuật trong xã hội
9

TIEU LUAN MOI download :


như là “tàn dư” của thời nguyên thuỷ. Frazer và Tylor dựa vào những bài viết, ghi
chép của những người du lịch, truyền giáo, những người phục vụ cho chế độ thực dân.
Hai ông là “Nhà nhân học ghế bành”, nghiên cứu tại nhà và không bao giờ tiếp xúc với
người dân, những con người mà về họ hai ông phân tích, lý giải văn hố của họ. Emile
Durkheim cho rằng: ma thuật thường tập trung vào sự cần thiết và điều mong muốn
của một cá nhân. Chẳng hạn, người nơng dân muốn có mưa, người đàn ơng trẻ muốn
có vợ, người phụ nữ cần chữa bệnh. Đối lập với nghi lễ tơn giáo mà nó được tiến hành
vì mục đích tốt cho cộng đồng, ma thuật được hướng tới mục đích cuối cùng rất thực

tế như là được chỉ định rõ ràng bởi cá nhân. Ma thuật thường được sử dụng trong các
nghi lễ mang tính cầu cúng như cầu mưa, bảo vệ cộng đồng chống lại kẻ thù.
Đến Marcel Mauss, ông đã mở đường cho một phương pháp nghiên cứu nhân
học ma thuật mới, đó là phương pháp điền dã dân tộc học trong nghiên cứu về ma
thuật. Những luận điểm và phân tích của ơng về ma thuật có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong nghiên cứu về ma thuật. Trong cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về ma thuật
là “A General Theory of Magic” Mauss, Marcel [71], Marcel Mauss đã cho rằng ma
thuật là một hiện tượng xã hội giống như khoa học và tôn giáo nhưng nó có tính “cá
thể hơn tơn giáo”. Ơng đã làm rõ mối quan hệ của ma thuật và tôn giáo: Ma thuật
mang tính cá nhân, bí mật và thường bị cô lập và hiếm khi được thực hiện công khai
để bảo tồn những kiến thức huyền bí thì tơn giáo thường tiến hành công khai để truyền
đạt kiến thức cho cộng đồng. Tơn giáo hướng về siêu hình học và nhằm tạo ra những
hình ảnh lý tưởng thì ma thuật bằng muôn vàn những kẽ nhỏ đã đi ra khỏi đời sống
thần bí mà trong đó tiếp sức lực cho nó để rồi nó trà trộn vào cuộc sống thơng dụng
hàng ngày và phục vụ cho nó. Nó hướng về cụ thể, trong khi tôn giáo hướng về trừu
tượng. Mauss nhận định rằng: Ma thuật là một nghệ thuật thực tiễn mà còn là một kho
tàng các ý niệm, nó tiếp xúc với các chất liệu, tiến hành các thực nghiệm thực sự và cả
những phát minh nữa để đem lại kết quả nhất định. Bằng phương pháp điền dã dân tộc
học Marcel Mauss đã quan sát và mô tả những thực hành ma thuật trong đời sống của
người dân ở một số bộ lạc của Châu Úc, một số xã hội Millaninin, vùng Mexique cổ
xưa; ma thuật hiện đại của người Mã Lai, Ấn Độ; để rồi ông hệ thống nó lại và đưa lên
thành những luận thuyết trong nghiên cứu về ma thuật. Ông đã đã đưa ra và phân tích
10

TIEU LUAN MOI download :


một cách có hệ thống các yếu tố của ma thuật từ người có quyền năng thực hành ma
thuật (thầy phù thủy) các đặc điểm của họ, cuộc sống của họ, những nghi lễ họ phải
trải qua…đến niềm tin của người dân vào sức mạnh của ma thuật. Những luận thuyết

của Marcel Mauss như là kim chỉ nan trong nghiên cứu về ma thuật.
Malinowski, Bronislaw [29] trong “Magic, science and religion”1 ông đã sống
và trực tiếp quan sát cuộc sống, thực hành ma thuật của người dân trên đảo Trobriands,
phát triển một khía cạnh mới trong lĩnh vực nghiên cứu nhân học nói chung và ma
thuật nói riêng. Theo Malinowski, “ma thuật” giải quyết những vấn đề mang tính
khơng chắc chắn trong cuộc sống tại đảo Trobriand, đặc biệt là những thế lực thiên
nhiên tác động vào làm vườn và chuyến đi biển xa. Malinowski chấp nhận ý tưởng
của Sir James Frazer, là thực hành ma thuật, những người nguyên thuỷ đã thực hành
“khoa học nguyên thuỷ.” Ông quan điểm ma thuật là sự thay thế nghèo nàn cho khoa
học, ít ra thì là một khoa học nguyên thuỷ. Mặc khác, ông nhận thấy ma thuật là sự cần
thiết của người ở đảo Trobriands bên cạnh những trí thức bản địa về cuộc sống, làm
vườn và đi biển. Nghiên cứu của Malinowski có tầm ảnh hưởng rất lớn trong nghiên
cứu nhân học về ma thuật.
Ma thuật, trong quan điểm của những nhà nhân học từ Frazer đến Marcel
Mauss, Malinowksi thì đều cho rằng: Ma thuật theo đuổi những mục đích thực tiễn và
vị lợi. Con người có thể sử dụng ma thuật để cầu cho vật thịnh, mùa màng tốt tươi, hay
với mục đích cá nhân để chiến thắng có người yêu, hay để làm cho người khác bất
hạnh... Và bùa chú chính là yếu tố căn bản trong ma thuật là “vật chứa đựng sức mạnh
của ma thuật, giá trị của ma thuật, và là yếu tố quan trọng nhất của ma thuật”
[29,tr.197]. Phương pháp nghiên cứu và những luận điểm của Frazer đến Marcel
Mauss, Malinowksi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu nhân học nói
chung và trong nghiên cứu ma thuật nói riêng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu về ma thuật còn phải kể đến Tambiah,Alfred
Gell.Tambiah đã ghi lại điểm nhấn trong ma thuật: “Ma thuật là phép màu, được làm

1

“Magic, science and religion” trong Magic, science and religion and other essays. Garden city, N.Y.:
Doubleday anchor. Trang 17 – 92). Bản dịch in trong sách Nhân học tôn giáo. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
Tạp chí xưa & nay. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006.tr147-213.


11

TIEU LUAN MOI download :


cùng với lời nói và hành động, đóng (thể hiện) và u cầu có kết quả”. Và ơng cho
rằng ma thuật không phải là một khoa học tồi tệ, đồng thời trong quan điểm của mình
Tambiah cũng nhấn mạnh đến luận điểm “hoạt động ma thuật có mặt ở khắp mọi
nơi”[76]. Alfred Gell, miêu tả trong bài viết về “Ma thuật và Công nghệ”, cho rằng
ma thuật như là một phương thức nghệ thuật để thu hút các vị thánh và dụ dỗ thánh
thần chiều theo ý nguyện của con người[65]. Gell nhấn mạnh vào cái đẹp của nghệ
thuật hoặc nghệ thuật của những hành động ma thuật, của một vật ma thuật như là
chiếc chìa khố mở vào tính công năng của ma thuật. Đồng thời Alfred Gell, cũng đặc
biệt nhấn mạnh đến quyền lực của người thực hành ma thuật. Còn X.A. Tocarev một
nhà dân tộc học Liên Xơ trong tác phẩm“Các hình thức tơn giáo sơ khai và sự phát
triển của chúng”[79] cũng đã đề cập đến ma thuật như là một hình thái tơn giáo sơ
khai và bùa chú ln tồn tại trong các hình thái ma thuật đó.
Những luận điểm nghiên cứu có tính chất lý thuyết cơ bản về ma thuật của các
học đã là những gợi ý quan trọng cho chúng tôi định hướng nghiên cứu về bùa chú,
“yếu tố cốt lõi quan trọng nhất của ma thuật”.
Nghiên cứu về bùa chú ở Việt Nam đầu tiên phải kể đến các cơng trình nghiên
cứu của người Pháp. Mặc dù không phải trực tiếp đề cập đến bùa chú như một đối
tượng chính trong nghiên cứu nhưng trong các cơng trình nghiên cứu về tơn giáo tín
ngưỡng của người Pháp tại Việt Nam đã ít nhiều nhắc đến những thực hành tôn giáo
tín ngưỡng của người Việt trong đó có bùa chú.Khơng thuần túy bàn về những lý
thuyết lớn mà dựa trên những cơ sở những quan sát thực tế Paul Giran[72] trong
“Magie & Religion Annamites” đã đề cập đến bùa chú trong những thực hành ma thuật
của người An Nam. Và ông đã phân chia thành hai loại: Ma thuật tích cực và ma thuật
tiêu cực, trong cả hai loại ma thuật này đều không thể thiếu được yếu tố cốt lõi của bùa

chú. Từ xưa, trong đời sống tín ngưỡng người An Nam bùa chú đã tồn tại, người ta sử
dụng bùa với rất nhiều mục đích cầu tài lộc, xua đuổi tà ma, tránh bệnh tật, chống trộm
cắp, cầu mong tình yêu, …và cách tạo ra bùa thay đổi theo mục đích sử dụng. Paul
Giran đã có những mơ tả dân tộc học rất chi tiết về việc thực hành ma thuật trong tín
ngưỡng của người An Nam, từ những kiêng kỵ của người thầy phù thủy, dụng cụ hành
nghề, vật liệu để làm bùa, đồng thời ông cũng đưa ra những quy tắc trong việc làm bùa
12

TIEU LUAN MOI download :


như: Hướng, ngày, mùa, năm. Các công đoạn trong việc tạo ra bùa: Chuẩn bị các vật
liệu, vẽ bùa, bắt quyết, thư hương…và ơng cũng đã có những lý giải cho các bước thực
hành đó, bắt quyết, niệm thần chú, và ông cũng đã đề cập khá chi tiết những vị thần
được thờ để làm ra bùa chú như: Ngọc Hoàng, Tam Danh, Độc Cước, Trần Hưng
Đạo… Paul Giran đã quan sát thực hành ma thuật trong đời sống của người An Nam
và ông nhận thấy rằng: Bùa chú là một trong những thực hành ma thuật trong đời sống
tín ngưỡng tơn giáo của người An Nam. Có thể nói Paul Giran đã để lại một mảng tư
liệu vô cùng phong phú về những thực hành ma thuật trong đời sống của người An
Nam và trong đó có bùa chú. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông về bùa chú mới chỉ là
những mô tả sơ khai về việc thực hành tín ngưỡng này trong đời sống của người An
Nam mà chưa có những lý giải về vấn đề này. Pierre Gourou [74], trong “Người nông
dân ở châu thổ Bắc Kỳ”cũng đã nhắc tới việc sử dụng bùa chú trong phong tục xây
dựng nhà cửa của người dân ở châu thổ bắc kỳ:“Hạnh phúc và an lành của người trong
nhà phụ thuộc vào việc xua đuổi tà khí” [74, tr.286]. Họ sử dụng bùa chú để trấn trạch
giữ bình yên cho ngơi nhà của mình, để xua đuổi tà khí, để xử lý với những ngôi nhà
không được hướng về mặt phong thủy. L.Cadiere [34], trong “Văn hóa, tơn giáo, tín
ngưỡng Việt Nam” cũng đã đề cập đến các hình thức ma thuật bùa chú trong đời sống
tín ngưỡng tơn giáo của người Việt. Họ dùng bùa để an thai, để hộ mệnh, để dùng
trong các trường hợp từ: Sinh, bệnh, tử, mất của, dịch bệnh gia súc, hạn hán, lũ lụt, tai

họa dưới mọi hình thức, chọn hướng xem đất làm nhà hoặc lo phần huyệt mộ…nói
chung nó tồn tại ở mọi thứ liên quan đến con người. Khác với Paul Giran, L.Cadiere
khơng có những mơ tả dân tộc học chi tiết về việc thực hành bùa chú trong đời sống
tín ngưỡng tơn giáo của người Việt, mà ơng chỉ nhắc đến bùa chú như một sự tồn tại
hiển hiện trong đời sống tín ngưỡng tơn giáo của họ. Nhưng ông lại có những luận giải
từ cuội nguồn cảm thức tâm linh của người Việt để lý giải cho những thực hành ma
thuật tôn giáo trong đời sống của họ. Đó là những cảm thức tâm linh về: Thần, thánh,
ma, quỷ đã tri phối đời sống tín ngưỡng tơn giáo của người Việt. Những lý giải của
L.Cadiere có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu về tín ngưỡng tơn giáo nói chung và bùa
chú nói riêng.

13

TIEU LUAN MOI download :


Nghiên cứu về bùa chú ở Việt Nam ngoài những nghiên cứu của người Pháp
chúng ta phải kể đến công trình khảo tả “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính [8]
đã đề cập đến người Việt trước đây mỗi khi có lễ tiết, cúng kỳ an, tẩm liệm, tang ma
vẫn nhờ các thầy pháp, thầy phù thủy đến giúp bên cạnh những sư tăng thầy cúng Phật
giáo. Người có bệnh tật cho là ma làm cũng nhờ thầy phù thủy đến giúp. Bên cạnh đó
Phan Kế Bính cịn đề cập đến sự tôn sùng vị anh Hùng dân tộc Đức Thánh Trần, mà
tác giả gọi với danh từ là Thanh Đồng, đạo của các Thanh Đồng sử dụng quyền uy của
Đức Thánh Trần để làm bùa trừ ma, chữa bệnh [8, tr.387-389]. Tuy nhiên, những khảo
tả của Phan Kế Bính mới chỉ cung cấp cho người đọc biết về sự tồn tại của bùa chú
trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo của người Việt mà thôi. Tiếp đến phải kể đến cơng
trình của Toan Ánh trong “Nếp cũ Tín Ngưỡng Việt Nam” [5] đã đề cập đến Bùa Chú
trong đời sống tơn giáo, tín ngưỡng của người Việt. Theo tác giả bùa chú nằm trong
những “Biến thể của Đạo Lão” ở nước ta bùa chú nằm trong thuật “Phù Thủy” luyện
âm binh có phép làm bùa chú để chữa bệnh, có phép làm bùa yêu bùa mê, sai khiến âm

binh làm các cơng việc của người trần.
“Những nhà có người chết, gặp giờ xấu, sợ có trùng tức là có hung thần tra
khảo phải nhờ thầy phù thủy cho bùa dán trong quan tài, yểm chung quanh huyệt mộ
cũng như ở trong nhà để trấn áp tà ma. Người đau ốm cho là ma làm, mời thầy phù
thủy để diệt ma” [5,tr. 211-212).
Ngoài ra tác giả cũng đề cập đến bùa chú cũng được thực hiện trong đạo
“Thanh Đồng” thờ Trần Hưng Đạo cũng làm bùa chú chữa bệnh, xua đuổi tà ma. Đào
Duy Anh, cũng đã đề cập đến việc sử dụng bùa chú trong việc sinh đẻ cũng như ni
con:
“Khi có người đẻ thì người ta treo ở trước nhà một vật gì làm hiệu để người
ngồi đừng đến thăm, vì sợ người xấu vía sẽ làm cho đứa con hay khóc hoặc ốm đau.
Khi ni con người ta cịn dùng vơ số cách trừ yểm để bảo hộ cho đứa trẻ như đựng
miếng đá, miếng gạch có vẽ bùa, đeo bùa cho đứa trẻ hay treo những xác rắn cùng
những đồ uế tạp…”[2, tr. 1050].
Các công trình khảo tả trên đã đề cập đến bùa chú ln hiển hiện trong đời sống
tín ngưỡng của người Việt từ xưa tới nay. Nhưng các cơng trình trên mới chỉ dừng lại
14

TIEU LUAN MOI download :


ở việc mơ tả nó có tồn tại trong đời sống của họ mà chưa có những phân tích lý giải về
vấn đề nghiên cứu.
Nguyễn Đăng Duy [13] có đề cập đến bùa chú trong đạo giáo. Trong đó tác giả
đề cập đến ảnh hưởng của Đạo giáo trong đời sống tâm linh: Niềm tin về thuật phong
thủy, niềm tin vào tướng số, đồng thời tác giả cũng đề cập đến những địa danh và
những khơng gian Đạo giáo cịn ở nước ta hiện nay. Nguyễn Đăng Duy có viết:
“Thuật phong thủy theo Đạo giáo cũng đã sớm du nhập vào nước ta. Thời thuộc
Đường, viên thái thú Cao Biền là người giỏi thuật phong thủy tương truyền y thường
cưỡi diều bay khắp đất Giao Châu để dị tìm chỗ nào có long mạch thì yểm bùa phá đi,

để triệt hại nhân tài nước Nam…” [13,tr.113].
Niềm tin vào thuật phong thủy đã ảnh hưởng và tác động vào việc thực hành tín
ngưỡng chọn đất làm nhà, chọn hướng nhà trong nhân dân. Cịn rộng lớn hơn trên bình
diện quốc gia các triều Vua đã chọn thế đất để làm nơi đóng đơ: Lý Thái Tổ viết rằng:
“Thăng Long …nơi trung tâm của đất trời, được cái thể rồng cuộn hổ ngồi, đúng ngôi
Nam, Bắc, Tây, Đông” [13, tr.114].Chọn đất để dựng chùa, để đặt mồ mả cho cha mẹ,
ông bà tổ tiên ngày càng được chú trọng. Ông cũng đã đề cập: “Đến thời Lê Mạt, trong
những thế kỷ XVI, XVII, XVIII, …ở khắp các đình, chùa đền miếu, lăng mộ đâu đâu
cũng thể hiện thuật phong thủy trong xây dựng. Đến đặt mồ đặt mả trong các gia đình
bình dân nghèo cũng khơng thể thiếu được vai trị của ông thầy địa lý” [13,tr.115].
Ông không đi sâu vào việc mô tả về bùa chú trong đạo giáo, nhưng công trình của
Nguyễn Đăng Duy cung cấp một nguồn tư liệu lịch sử đạo giáo từ tư tưởng đến việc
du nhập vào Việt Nam, cũng như những ảnh hưởng của Đạo giáo qua các thời kỳ của
lịch sử từ chính trị, đến những thực hành đạo giáo trong đời sống tâm linh. Nguyễn
Duy Hinh [28] trong “Một số bài viết về tôn giáo học” cũng đã đề cập đến bùa chú là
một trong những thể hiện của Đạo giáo ở Việt Nam. Ơng cũng đã đưa ra những giải
thích về: Bùa, chú, thủ quyết là những thành phần cơ bản để tạo nên một Đạo phù.
Mặc dù, không phải là người đi sâu tìm hiểu về bùa chú nhưng những lý giải của ơng
lại rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu về bùa chú của các học giả sau này. Cũng giống
như Nguyễn Đăng Duy, hay Nguyễn Duy Hinh, Lê Văn Lân [37] trong “Phù thuật
Việt Nam” cũng đã đề cập đến nguồn gốc của bùa chú Việt Nam bắt nguồn từ Đạo
15

TIEU LUAN MOI download :


giáo Trung Hoa, và ông cũng đã nêu lên những ảnh hưởng của Đạo giáo trong việc
thực hành bùa chú ở Việt Nam. Nghiên cứu đã hệ thống cho người đọc một cái nhìn
tồn diện về các bước làm bùa, vật liệu tạo ra bùa, các loại bùa thông dụng được sử
dụng trong đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam.Trong nghiên cứu này Lê Văn

Lân còn phác họa bùa chú của Phật giáo Mật Tông, Chàm, Miên, bùa của người Việt
gốc Miên, cách thức họ làm bùa, những kiêng cữ khi dùng bùa…Tuy nhiên, cũng
giống như những nghiên cứu trên Lê Văn Lân cũng lại tập trung chủ yếu vào việc hệ
thống hóa các loại bùa, cách làm, và phù đó được dùng trong những trường hợp nào.
Hay nói cách khác, trong nghiên cứu của ông mới thấy tiếng nói của tầng lớp tạo ra
bùa là các Pháp sư, Phù thủy, nhà sư, Acha, Krou mà chưa đề cập đến tiếng nói của
người sử dụng bùa.
Trong thời gian gần đây, nghiên cứu về bùa chú đáng kể nhất phải kể đến các
cơng trình nghiên cứu của Vũ Hồng Thuật: “Đời sống tâm linh của chiếc ván in bùa
trấn trạch” [29] ; và “Bước đầu tìm hiểu về các loại hình bùa chú của người Việt” [59];
tác giả đã đề cập và phân tích tương đối kỹ lưỡng những cơng đoạn để làm ra một lá
bùa từ những công đoạn chọn gỗ để làm ván khắc in bùa, đến những kiêng kỵ đối với
người làm ra đạo bùa. Đồng thời tác giả cịn cho chúng ta một cái nhìn về thị trường
bùa chú hiện tại không chỉ tồn tại những đạo bùa được làm một cách cẩn thận bởi các
pháp sư, thầy cúng mà bùa hiện nay còn được sản xuất hàng loạt và trở thành một thứ
hàng hóa trên thị trường. Với phương pháp điền dã dân tộc học nghiên cứu của Vũ
Hồng Thuật đã cho chúng ta một cái nhìn tương đối tồn diện về các cơng đoạn để làm
ra một đạo bùa. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này Vũ Hồng Thuật đặt trọng tâm vào
chiếc Ván in Bùa Trấn Trạch một hiện vật tạo ra bùa, mà chưa cho chúng ta một cái
nhìn sâu sắc và tồn diện về bùa chú. “Bước đầu tìm hiểu về các loại hình bùa chú của
người Việt” Vũ Hồng Thuật khắc họa cho chúng ta một cái nhìn sơ khai về bùa chú
của người Việt: Từ bùa của Đạo giáo, bùa của Phật giáo, bùa của Cơng giáo. Cùng với
đó tác giả đã khắc họa bối cảnh như thế nào người ta sử dụng bùa, chất liệu để làm
bùa, công năng của đạo bùa trong đời sống tín ngưỡng của người Việt. Trong nghiên
cứu này, Vũ Hồng Thuật đã sử dụng khung lý thuyết “quyền lực” để làm nổi bật lên
quyền lực của người thực hành tôn giáo cũng như công năng của những lá bùa. Tuy
16

TIEU LUAN MOI download :



nhiên, trong nghiên cứu này tác giả mới khái quát một cách chung nhất về bùa chú
trong đời sống của người Việt mà chưa có những phân tích cụ thể nào. Mặc dù vậy,
cơng trình cũng cung cấp cho người đọc những kiến thức độc đáo về bùa chú trong đời
sống của người Việt mà từ trước đến nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Những
nghiên cứu của Vũ Hồng Thuật đã để lại nguồn tư liệu rất quan trọng trong nghiên cứu
bùa chú cho các học giả sau này.
Cũng phải kể đến nghiên cứu của Lương Thị Đại [16]về “Các hình thức ma
thuật, bùa chú của người Thái Đen ở Điện Biên” tác giả đã sưu tầm được 125 bài chú
cũng như những hướng dẫn làm bùa chú về các lĩnh vực đời sống của người Thái ở
Điện Biên. Họ làm bùa để chữa bệnh từ những bệnh đơn giản đến phức tạp như: Chữa
cho người bị cảm lạnh, cảm gió, khó chịu trong người, đau đầu, sởi, bỏng nước sôi,
quai bị, hoặc bị ma tà làm hại… …; bùa ngăn chặn, đuổi ma cho Mường, cho bản, cho
gia đình; bùa trong sản xuất chăn ni, bùa cho dân bản mường được yên bình khỏe
mạnh, bùa để bảo vệ bản thân khỏi bị ám hại; bùa để cho lời nói của người ta trở nên
“thiêng” và có trọng lượng được mọi người nể phục lắng nghe, được mọi người giúp
đỡ; bùa yêu … Trong nghiên cứu này Lương Thị Đại mới chú trọng đến việc sưu tầm
các bài chú, cách hướng dẫn làm bùa từ các thầy cúng, thầy bùa mà chưa đề cập đến
đối tượng sử dụng bùa là người dân tại địa bàn. Nghiên cứu này chỉ mang tính chất
như một cơng trình sưu tầm về các bài chú và cách làm bùa trong đời sống của người
Thái ở Điện Biên mà chưa đề cập đến các đối tượng sử dụng bùa chú trong cộng đồng
người Thái ở Điện Biên.
Ngoài ra phải kể đến một số nghiên cứu trên các tạp chí: Lưu Hùng [30]trong
bài viết tác giả đã đề cập đến những tập tục chữa bệnh bằng ma thuật của người Cơ
Tu, bằng phương pháp điền dã dân tộc học Lưu Hùng đã đưa ra những quan niệm của
người Cơ tu về bệnh tật, về những nguyên nhân gây ra bệnh tật, sau đó Lưu Hùng đã
chỉ ra những phương thức chữa bệnh bằng ma thuật mà người Cơ Tu gọi tên Rơmăn,
Ma yang. Nguyễn Văn Mạnh [50] đã đề cập đến ma thuật làm hại ở các dân tộc thiểu
số tỉnh Quảng Ngãi tuy nhiên bài viết chỉ mang tính chất thơng báo như một sự kiện và
thống kê những người bị chết do tín ngưỡng này mà chưa có những nghiên cứu phân

tích lý giải cho hiện tượng này. Trong bài viết này Nguyễn Văn Mạnh cũng đề cập đến
17

TIEU LUAN MOI download :


hiện tượng này coi nó như là một tín ngưỡng mang tính chất “mê tín dị đoan” cần loại
bỏ đồng thời ông đưa ra những biện pháp để loại bỏ tín ngưỡng này. Mặc dù đã đề cập
đến hiện tượng ma thuật làm hại nhưng bài viết chưa có được những luận cứ khoa học
mà chỉ mang tính chất thơng báo giống như những sự kiện mang tính truyền
thơng.Ngồi ra cịn có những nghiên cứu của Nguyễn Văn Minh [51]nói về ma thuật
của người Ve. Người Ve sử dụng ma thuật chữa bệnh, trong sản xuất chăn nuôi, sử
dụng ma thuật để làm hại, tác giả cũng mô tả cho chúng ta các hình thức sử dụng ma
thuật của người Ve…
Nói chung nghiên cứu về bùa chú ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả
dân tộc học và thực chất chưa đưa ra một hệ thống khái niệm khoa học về bùa chú và
bùa chú ở Việt nam. Các nghiên cứu ở Việt nam mới chỉ dừng lại ở một vài ví dụ về
bùa mà chưa đưa ra một sự khái quát hóa về bùa chú ở Việt nam. Hầu hết, các nghiên
cứu về bùa chú ở Việt Nam đều thiên về khía cạnh sản xuất ra lá bùa, và nhắc đến việc
dùng bùa trong đời sống tín ngưỡng của người dân. Bùa chú ở Việt Nam đa phần được
nhắc đến trong các nghiên cứu về tập tục của một số dân tộc ít người (bài viết trên tạp
chí Dân tộc học). Có thể nói, đa phần nghiên cứu về bùa chú ở Việt Nam mới chỉ ở
dạng sơ khai chưa mang tính chất là một nghiên cứu chuyên biệt. Và phần lớn bùa chú
được mô tả trong các tập tục tín ngưỡng ở các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, có thể
khẳng định bùa chú tồn tại rất phổ biến trong sinh hoạt tín ngưỡng ở mọi xã hội nhất là
trong xã hội người Việt hiện đại.
Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây số lượng các bài viết về chủ đề bùa chú
trên các phương tiện truyền thông tăng lên đột biến đặc biệt vào dịp đầu năm mới, mở
đầu với sự kiện lễ hội Đền Trần mà tâm điểm của lễ hội là sự chú ý đặc biệt của cộng
đồng giành cho lá Ấn với những ý nghĩa đặc biệt về mặt tâm linh. Những câu chuyện

về sự thật, giả của lá ấn, về việc thương mại hóa, và sự xuất hiện của “chợ ấn” với sự
hồnh hành của các tay “bn ấn”, “phe ấn” được báo chí dành nhiều lưu tâm để phản
ánh (Nguồn: Hùng Bách, Chợ ấn nóng, dân bn ấn Đền Trần hồnh hành,
vietnamplus.vn, ngày 16/02/2011). Hay sự kiện “hịn đá lạ” được trấn yểm một đạo
bùa ở Đền Hùng cũng đã từng là những chủ đề “nóng” thu hút sự quan tâm chú ý của
công luận. Bùa chú cũng là chủ đề được đề cập đến trong rất nhiều trang Web. Nếu ta
18

TIEU LUAN MOI download :


mở vi tính ra thì thấy nhan nhản những trang mạng quảng cáo và giao bán những thứ
ngọc thạch, bảo thạch, hay những món bùa, những vật phẩm phong thủy, trang sức đeo
để lấy may, lấy phước, lấy hên…với giá không hề giẻ chút nào. Và bùa chú cũng là
chủ đề được đề cập đến trong rất nhiều bài xã luận trong các trang mạng:Bùa yêu, bùa
ngải của các dân tộc thiểu số, bị bỏ bùa, những cái chết bất đắc kỳ tử, những vụ thảm
án liên quan đến bùa chú [82]; nhưng đó chỉ là những bài mang tính chất thông báo.
Một số bài viết cũng thông báo cho người đọc những hiểu biết sơ qua về bùa chú
như:Nguồn gốc của bùa chú, công năng về bùa chú. Một số bài viết đi sâu về lịch sử
bùa chú của Trung Quốc [83]. Khơng ít các bài viết đề cập đến những câu truyện thực
hư, kỳ bí liên quan đến bùa chú [84]. Bài viết đề cập đến bùa chú chữa bệnh nhưng các
bài viết chỉ đưa tin và đi xác minh vấn đề [85]. Bên cạnh đó cũng có khơng ít những
trang web đề cập đến bùa chú, phong thủy nhà ở, phong thủy văn phòng, nhà bếp
[86]…. Bùa chú là chủ đề đang “hót” và được đề cập đến rất nhiều trên Internet tuy
nhiên đó mới chỉ là những bài viết đa phần mang tính thơng báo, khám phá sự kiện,
chưa có một nghiên cứu sâu về bùa chú, và chưa có một cái nhìn tồn diện cũng như
sâu sắc về vấn đề này.
1.2.

Cơ sở lý thuyết của đề tài và các khái niệm công cụ


1.2.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài
Nghiên cứu về bùa chú trong đời sống tâm linh của người Việt chúng tôi nhận
thấy rằng: Bùa chú là một phạm trù nằm trong ma thuật, bởi vậy trong nó mang đầy đủ
những đặc điểm, tính chất chung của ma thuật mà Marcell Mauss đã cho rằng: Trong
ma thuật luôn bao hàm một kỹ thuật “tinh tế” và một nghệ thuật vô cùng “tỉnh táo” để
để khuyếch trương các hiệu lực và hướng tới một kết quả thiết thực.
Macell Mauss, đã đưa ra một cách có hệ thống các yếu tố của ma thuật: Từ
những người có quyền năng thực hành ma thuật mà ơng gọi là các thầy phù thủy; điều
kiện, tính chất của nghi lễ, tính hiệu lực của ma thuật, niềm tin của người dân vào sức
mạnh của ma thuật để rồi Mauss khẳng định “ma thuật là một tổng hợp nghi thức và
tín ngưỡng mà người ta vẫn tường lẫn lộn với Tôn giáo”[71, tr. 232, tập 3]nhưng ma
thuật bao giờ cũng “có tính cá thể hơn Tơn giáo”[71, tr. 232, tập 3]. “Tính cá thể” này
đã được Mauss phân tích: “Trong khi tơn giáo hướng về siêu hình học và nhằm tạo ra
19

TIEU LUAN MOI download :


tạo ra những hình ảnh lý tưởng thì ma thuật bằng muôn vàn những kẽ nhỏ đã đi ra khỏi
đời sống thần bí mà tiếp sức lực cho nó để rồi trà trộn vào cuộc sống thông dụng hàng
ngày và phục vụ nó. Ma thuật hướng về cái cụ thể, trong khi tôn giáo hướng về cái
trừu tượng [72, tr. 134]
Ma thuật là một nghệ thuật thực tiễn tồn tại hiển hiện trong đời sống hàng ngày
xung quanh chúng ta nhưng bao giờ cũng chịu sự giới hạn về mặt luân lí, sự giới hạn
này được mặc định chấp nhận và được giải thích thơng qua các nghi lễ mà con người
ta thực hiện. Rõ ràng, ma thuật với những đặc tính căn bản của mình thì một trong
những yếu tố quan trọng nhất của nó là bùa chú. Bùa chú là một bộ phận cốt lõi và chủ
chốt nhất để thiết kế nên một hệ thống những phép huyền bí và nhiệm màu. Đối với
người nguyên thủy, xung quanh một nghi lễ ma thuật bùa chú bao giờ cũng là vật được

quan tâm và chú trọng nhất trong mọi trường hợp.
Với tính chất đặc thù như là một mơn nghệ thật thực tiễn, có hiệu quả cao và
đáp ứng trực tiếp được những mong muốn của con người, bùa chú được công nhận
như một dạng kĩ thuật đặc biệt. Kỹ thuật đặc biệt ấy đã được Mauss phân tích và lý
giải là sự kết hợp của rất nhiều yếu tố: Đó là Nghệ thuật của người thực hành quyền
lực ma thuật, là sự kết hợp của những điều kiện nghi lễ (thời gian, không gian, chất
liệu, bộ đồ nghề của thầy phù thủy, những kiêng kỵ của thầy phù thủy…); của tính
chất nghi lễ, để tạo nên tính hiệu lực của ma thuật.
Đồng thời, chúng tôi nhận thấy rằng: Phạm trù tơn giáo, tín ngưỡng được định
nghĩa bởi khái niệm linh thiêng tức là thiên về mặt “tinh thần”thì bùa chú trong ma
thuật lại đáp ứng phần vỏ “vật chất” cho sự chuyển giao từ “Phàm” sang
“Thiêng”.Thực tế, trong bản thân một nghi lễ đã mang tính vật chất và những lời chú
ngữ mà người thầy phù thủy sử dụng để cầu khẩn thì yếu tố linh thiêng hay “tinh thần”
đã xuất hiện.
Bùa chú như một vật chứng cụ thể nhất của mối quan hệ, liên kết giữa hai yếu
tố “vật chất” và “tinh thần”. Và bằng một cách nào đó, yếu tố vật chất với sự tác động
của tinh thần đã biến một lá bùa bình thường trở thành một vật linh thiêng có sức
mạnh huyền bí của ma thuật. Nhưng “không phải con người thuần túy nô lệ cái thiêng
đó mà tìm cách khống chế nó khiến nó làm lợi cho cuộc sống của con người. Ma thuật
20

TIEU LUAN MOI download :


×