Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

(SKKN mới NHẤT) một số GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG học tập môn NGỮ văn (PHẦN đọc HIỂU văn bản) CHO học SINH BAN KHOA học tự NHIÊN ở TRƯỜNG THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.31 MB, 69 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN

----------------------------------

SKKN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC
TẬP MÔN NGỮ VĂN (PHẦN ĐỌC -HIỂU VĂN BẢN) CHO
HỌC SINH BAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở TRƯỜNG
THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC

MÔN: NGỮ VĂN

Nhóm tác giả:
TRẦN THỊ THƯƠNG:

THPT HỒNG MAI

SĐT: 0868267934
LÊ THỊ KIM NGÂN:

THPT HOÀNG MAI

Năm thực hiện: 2021- 2022

1

TIEU LUAN MOI download :


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GV


HS
ĐHQG
KHTN
ĐHVB
PPDH
HTDH
CTGD
SGK
THPT
TN THPT
NL/ PTNL
KTĐG
SKKN

Giáo viên
Học sinh
Đại học Quốc gia
Khoa học tự nhiên
Đọc- hiểu văn bản
Phương pháp dạy học
Hình thức dạy học
Chương trình giáo dục
Sách giáo khoa
Trung học phổ thông
Tốt nghiệp Trung học phổ thông
Năng lực/Phát triển năng lực
Kiểm tra đánh giá
Sáng kiến kinh nghiệm

2


TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
TT
PHẦN 1
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
PHẦN 2
1
1.1.
1.2.
2
2.1.
2.2.
3
PHẦN 3

Nội dung
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Lý do chọn đề tài
1

Mục đích, phạm vi nghiên cứu
2
Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu
2
Kế hoạch nghiên cứu
2
Những đóng góp của đề tài
3
Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm
3
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
4
Cơ sở khoa học
4
Cơ sở lí luận
4
Cơ sở thực tiễn
6
Giải pháp nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn
8
(phần Đọc-hiểu văn bản) cho HS ban KHTN ở
trường THPT theo định hướng phát triển NL
Lựa chọn, vận dụng các hình thức và phương pháp giảng
8
dạy mơn Ngữ văn (phần Đọc-hiểu văn bản) theo định
hướng phát triển NL cho HS ban KHTN
Giải pháp tăng cường NL học phần Đọc- hiểu văn bản
22

theo định hướng phát triển NL cho HS ban KHTN
Thực nghiệm sư phạm
34
KẾT LUẬN
52
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

3

TIEU LUAN MOI download :


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Trong định hướng phát triển Chương trình GDPT hiện nay, Ngữ văn được
coi là mơn học cơng cụ có vai trị rất quan trọng đối với việc định hướng phát
triển phẩm chất, NL HS. Đồng thời, đây vẫn luôn là một mơn học, mơn thi bắt
buộc trong những kì thi quan trọng. Điều đó cho thấy vai trị khơng thể phủ nhận
của việc học môn học này đối với tất cả HS THPT, dù ở ban KHTN hay ban
KHXH.
Cùng với các mơn học khác, Ngữ văn là mơn học đóng vai trò rất quan
trọng đối với việc định hướng phát triển NL HS. Chương trình SGK Ngữ văn
đang sử dụng ở trường THPT được soạn theo hướng tích hợp ba mơn: Đọc hiểu
- Tiếng Việt - Tập làm văn, đều lấy văn bản làm trục chính và sử dụng ngữ liệu
từ văn bản để giảng dạy. Các bài đọc hiểu trong chương trình được thiết kế với
mục tiêu đảm bảo kiến thức về thể loại văn học, tác phẩm văn học tiêu biểu, nắm
được một số khái niệm và thao tác phân tích tác phẩm văn học, có được những
kiến thức sơ giản về thi pháp, về lịch sử văn học Việt Nam,...Không chỉ thế, dạy
ĐHVB là dạy kĩ năng đọc - hiểu, nghe, nói, viết, hướng tới khám phá cái hay,

cái đẹp từ những tác phẩm văn chương nhằm khơi dậy, hình thành và phát triển
nhân cách cho HS, bồi dưỡng cho các em tri thức và làm phong phú đời sống
tâm hồn, hướng các em tới Chân – Thiện – Mĩ. Trên tinh thần đó, dần hình
thành và phát triển phẩm chất, NL của HS.
Tuy nhiên, qua thực tiễn quá trình giảng dạy, khảo sát thực tế tại trường
THPT Hồng Mai, chúng tơi nhận thấy rằng bên cạnh các em có tinh thần học
tập nghiêm túc, có ý thức hình thành và rèn luyện những NL và phẩm chất tốt
đẹp qua bộ mơn này, vẫn cịn đó tình trạng, HS theo định hướng ban KHTN
thường xem nhẹ vai trò môn Ngữ văn, nhất là phần ĐHVB. Thái độ, tâm lí tiếp
cận mơn học này gần như khơng có sự hứng thú, ít có sự tích cực trong hoạt
động học tập dẫn đến tình trạng học đối phó. Vì vậy, kết quả học tập, thi cử môn
học này thu được từ HS chưa cao.
Đội ngũ GV môn Ngữ văn, về cơ bản đều có NL chun mơn vững vàng,
tận tâm và có tinh thần trách nhiệm cao trong giảng dạy, đã rất cố gắng đổi mới
PPDH để có những bài giảng hay, lí thú và hấp dẫn cho các em. Tuy nhiên, cịn
một bộ phận GV chưa có giải pháp hiệu quả nhằm kích thích NL tự học, tự
nghiên cứu, NL cảm thụ văn chương cho các em, nhất là khi được phân công
giảng dạy môn Ngữ văn ở các lớp ban KHTN. PPDH được sử dụng chủ yếu vẫn
thiên về kiểu thầy cơ giảng, ghi bảng hoặc trình chiếu qua slide, còn trò chỉ việc
nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều đã được giảng là đủ. Cách dạy
này gần như khơng hình thành được phẩm chất, NL nào ở HS, mặc dù, đối
tượng HS ban KHTN có rất nhiều tiềm năng về tư duy, khả năng sáng tạo. Vì
vậy, giờ ĐHVB chưa thu hút được sự chú ý của các em, HS ngày càng tỏ ra
bàng quan, thờ ơ với văn chương.
Đứng trước thực tiễn này, bản thân chúng tơi ln trăn trở, mong muốn
tìm ra giải pháp để HS THPT nói chung, HS ban KHTN nói riêng có tinh thần, ý
thức thái độ đúng đắn với bộ môn. Cao hơn là, các em sẽ yêu thích mơn Văn
đồng thời nâng cao chất lượng học tập môn học này.
1


TIEU LUAN MOI download :


Chính từ những lý do trên, chúng tơi mạnh dạn đem những hiểu biết và
kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình dạy học xin được trình bày đề tài sáng
kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ
văn (phần Đọc -hiểu văn bản) cho HS ban khoa học tự nhiên ở trường THPT
theo định hướng phát triển NL”. Qua đó, chúng tơi mong muốn đóng góp vào
việc nâng cao chất lượng học- thi mơn học Ngữ văn cho HS nói chung, HS ban
KHTN nói riêng. Đồng thời, hình thành ở các em những NL cần có đáp ứng yêu
cầu theo định hướng của chương trình GDPT mới.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Thấy được thực trạng của việc học tập phân môn ĐHVB của HS THPT ban
KHTN
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy- học môn Ngữ văn, phần
ĐHVB cho HS THPT ban KHTN theo định hướng phát triển NL HS
- Định hướng thiết kế giờ dạy học ĐHVB có vận dụng các hình thức và phương
pháp dạy- học Ngữ văn phù hợp với đối tượng HS THPT ban KHTN
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Người viết nghiên cứu một số giải pháp nâng cao chất lượng học tập môn
Ngữ văn (phần ĐHVB) cho HS ban KHTN ở trường THPT ở khối lớp 10, 12
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
- Quá trình giảng dạy kiến thức phần ĐHVB cho HS THPT nói chung, ở lớp
thuộc ban KHTN nói riêng
- Q trình học tập, ơn luyện của HS ban KHTN
- Các PPDH, HTDH phần ĐHVB tại trường THPT cho lớp thuộc ban KHTN
3.2. Đối tượng nghiên cứu
HS khối lớp 10,12 trường THPT Hồng Mai (ban cơ bản) khơng có tiết tự

chọn môn Ngữ văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn
- Phương pháp thống kê, so sánh
- Phương pháp phân tích, khái qt hóa, hệ thống hóa
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm….
5. Kế hoạch nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu trong một thời gian khá dài, từ năm 2019 đến nay. Nó đúc
rút từ kinh nghiệm giảng dạy của những người viết và từ việc đánh giá kết quả
học tập của HS, trong đó có HS ban KHTN.
- Thời gian viết và hoàn thiện: 2021-2022
6. Những đóng góp của đề tài
Kết quả của đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng học tập môn
Ngữ văn (phần Đọc -hiểu văn bản) cho HS ban khoa học tự nhiên ở trường
THPT theo định hướng phát triển NL” của chúng tôi sẽ giúp một số lượng lớn
HS THPT ban KHTN giải quyết khó khăn khi học tập mơn Ngữ văn. So với
những cơng trình nghiên cứu về vấn đề tìm giải pháp nâng cao chất lượng dạy
học môn học này, đề tài của chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu thực trạng học tập,
2

TIEU LUAN MOI download :


chất lượng thi cử môn Ngữ văn của các HS các lớp ban KHTN. Từ đó, kết luận
và đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp với tầm đón nhận, tâm lí và NL của
các em ban KHTN ở trường THPT. Giúp các em vừa u thích mơn học, u
thích những văn bản văn bản trong và ngồi nước, đồng thời có thể phát huy
được những NL cần có, đáp ứng yêu cầu của chương trình GDPT mới đặt ra
7. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần Đặt vấn đề và Kết luận, đề tài của chúng tôi có những nội dung cơ

bản sau:
1. Cơ sở khoa học
2. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn (phần Đọc -hiểu
văn bản) cho HS ban KHTN ở trường THPT theo định hướng phát triển
NL
3. Thực nghiệm sư phạm

3

TIEU LUAN MOI download :


PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở khoa học
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Yêu cầu của chương trình GDPT 2018
Dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất NL HS là yêu cầu cấp thiết
của đổi mới dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Điều 30 của Luật
giáo dục mới năm 2019 nêu rõ: "Phương pháp GDPT phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của HS phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học
và đặc điểm đối tượng HS; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kĩ
năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và NL
người học; tăng cường ứng dụng cơng nghệ thơng tin và truyền thơng vào q
trình giáo dục".
Nghị quyết 29- NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị
TW 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” cũng khẳng định: “Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
NL và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;

giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”
Quán triệt tinh thần đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Chương
trình GDPT (Ban hành kèm theo Thơng tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày
26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác định nội dung trọng tâm
của việc đổi mới căn bản, toàn diện GDPT là sự phát triển NL của người học, từ
đó nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước,
Trong đó quy định mục tiêu hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất
chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm; đồng thời, hình
thành và phát triển cho HS những NL cốt lõi (bao gồm những NL chung được
hình thành, phát triển thơng qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: NL
tự chủ và tự học, NL giao tiếp và hợp tác, NL giải quyết vấn đề và sáng tạo)
và những NL đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thơng qua một số mơn
học và hoạt động giáo dục
Chương trình GDPT – chương trình tổng thể (ban hành kèm theo Thơng
tư số 32/2018/TT-BGDDT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT) và
Chương trình GDPT – Chương trình mơn Ngữ văn (ban hành kèm theo Thông
tư số 32/2018/TT-BGĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT khẳng
định: Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó, mơn học này cùng với các
mơn học khác hình thành cho HS các NL chung như đã nói ở trên. Đặc biệt, nó
cịn đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành NL giao tiếp tiếng Việt, NL
cảm thụ văn học- những NL mang tính đặc thù của môn học này
Về NL giao tiếp Tiếng Việt: Tiếng Việt chính là cơng cụ để chúng ta giao
tiếp trong cuộc sống cũng như trong học tập. Vì vậy bộ mơn Ngữ văn phải có
nhiệm vụ trang bị cho HS khả năng sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và
hiệu quả trong tình huống giao tiếp. NL giao tiếp trong các nội dung dạy học
tiếng Việt được thể hiện ở cả 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng
4

TIEU LUAN MOI download :



ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau
trong cuộc sống.
Về năng lực cảm thụ văn học: Cảm thụ văn học chính là sự phát hiện và
cảm nhận được những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của
văn học cả về giá trị nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm, hay trong
một từ ngữ, một hình ảnh có giá trị thẩm mĩ của một câu văn, câu thơ.
HS phải có khả năng phát hiện, đánh giá và thưởng thức cái đẹp trong văn
học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm chủ cảm xúc của bản thân,
biết hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện. Cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ, nhận
ra những giá trị thẩm mĩ trong văn học, biết rung cảm, hướng thiện, vận dụng
được những giá trị thẩm mĩ mà văn học đã mang lại trong thực tế cuộc sống. HS
có NL cảm thụ văn chương tốt thì mới hiểu được ý nghĩa của bài văn, bài thơ,
đoạn văn, đoạn thơ và mới thấy được nét đẹp của thơ văn, làm cho tâm hồn các
em thêm phong phú.
1.1.2. Đặc trưng cấu trúc chương trình và kiểm tra đánh giá mơn Ngữ văn
Cấu trúc của chương trình SGK Ngữ văn hiện nay, ít nhiều đã tạo điều
kiện cho việc dạy học ĐHVB theo định hướng phát triển NL cho HS. Như đã
giới thiệu, SGK Ngữ văn hiện nay tuy được soạn theo hướng tích hợp ba mơn:
Đọc hiểu - Tiếng Việt - Tập làm văn, nhưng đều lấy văn bản làm trục chính và
sử dụng ngữ liệu từ văn bản để giảng dạy. Vì vậy, có thể thấy, bộ phận Đọc hiểu
đóng một vai trị quan trọng, có thể ví như cánh cửa đầu tiên để hình thành NL
tiếp nhận văn bản và là tiền đề để hướng đến NL tạo lập văn bản. Dạy ĐHVB có
giá trị quan trọng khơng chỉ cung cấp kiến thức mà cịn hướng HS phát triển
được những NL cần thiết.
Bên cạnh đó, yêu cầu đổi mới cách ra đề theo định hướng phát triển NL
cũng được chương trình Ngữ văn 2018 quy định rõ: “Đánh giá định kì thường
thơng qua các đề kiểm tra hoặc đề thi viết. Đề thi, kiểm tra có thể yêu cầu hình
thức viết tự luận (một hoặc nhiều câu); có thể kết hợp hình thức trắc nghiệm
khách quan và hình thức tự luận để đánh giá đọc hiểu và yêu cầu viết bài văn về

một chủ đề nào đó theo từng kiểu văn bản đã học trong chương trình…Trong
việc đánh giá kết quả học tập cuối năm học, cuối cấp học, cần đổi mới cách thức
đánh giá…; sử dụng và khai thác ngữ liệu bảo đảm yêu cầu đánh giá được năng
lực của học sinh, khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép
tài liệu có sẵn; tránh dùng lại các văn bản ngữ liệu đã học để đánh giá được
chính xác khả năng đọc hiểu và phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học”. Điều này
đồng nghĩa với việc, GV cần hướng dẫn HS nắm được phương pháp ĐHVB,
không chỉ là các văn bản trong chương trình SGK, đồng thời cịn có thể vận
dụng để đọc hiểu các văn bản cùng thể loại có độ khó tương đương.
Để đáp ứng yêu cầu trên, mỗi GV ở từng cấp học nói chung, GV bậc
THPT nói riêng phải khơng ngừng đổi mới PPDH, HTDH, KTĐG một cách đầy
sáng tạo, linh hoạt sử dụng trong quá trình giảng dạy để phù hợp với từng đối
tượng HS, phát huy tối đa những sở trường, NL tiềm ẩn của các em.

5

TIEU LUAN MOI download :


1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu
1.2.1.Thực trạng chung của HS ban KHTN khi học tập môn Ngữ văn.
Đáp ứng xu thế thời đại, yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục theo
định hướng phát triển NL, việc dạy - học Ngữ văn cũng phải không ngừng thay
đổi theo hướng mới. Hướng hoạt động dạy-học Ngữ văn vào hình thành và phát
triển các NL cơ bản thiết yếu, đáp ứng với các yêu cầu phát triển của xã hội,
thông qua việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói.
Dạy- học Ngữ văn theo phương pháp mới là chuyển hóa NL của người học
văn trong tác phẩm, thành NL cho từng HS, coi trọng khả năng tiếp nhận văn
bản của HS, chú trọng giảng dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của
HS, coi HS là chủ thể của hoạt động học.

Tuy nhiên, cách dạy-học truyền thống vẫn chưa thực hiện được nhiệm vụ
này. Qua thực tiễn quá trình dạy học, qua khảo sát các HS ban KHTN, các cơ
giáo giảng dạy mơn Ngữ văn, tại trường THPT Hồng Mai (Phiếu khảo sát ở
Phụ lục 1,2), chúng tôi thu được kết quả: Rất nhiều HS THPT, nhất là HS ban
KHTN nói riêng tiếp cận mơn Ngữ văn, đặc biệt là phần ĐHVB rất hời hợt, gần
như khơng có sự hứng thú, ít có sự tích cực trong hoạt động học tập. Thực trạng
lười đọc tài liệu, thậm chí đọc văn bản trong sách giáo khoa rất phổ biến. Đa số
HS đều chỉ ra rằng thông tin, con chữ trên văn bản là khơ khan và một chiều,
khơng có hình ảnh trực quan và ít có giá trị cao trong thực tiễn đời sống. HS
khẳng định việc học tập môn Ngữ văn chỉ có thể biết thêm một số kiến thức về
tác giả, tác phẩm, gần như khơng hình thành được NL của bản thân qua môn học
này. HS ban KHTN tồn tại tình trạng học lệch rất rõ rệt. Các em chỉ muốn dành
một thời gian rất nhỏ trên lớp, để “tranh thủ” học Văn, “đối phó” với GV. Toàn
bộ thời gian khác dành để học và làm đề các mơn khối A, A1, B…Vì vậy, kết
quả thu được từ HS cả trong học tâp và thi cử còn hạn chế. Kết quả định lượng
qua những lần thi KSCL hay thi TN THPTQG chưa đạt được như kì vọng đặt ra
Bên cạnh đó, phương pháp dạy ĐHVB một số GV chưa thực sự đúng
hướng. Người “đọc hiểu” ở các tiết dạy ĐHVB chủ yếu vẫn là GV. Các thầy cô
vẫn lên lớp với nội dung của bài học (đã được chuẩn bị sẵn trong giáo án).
Trong giờ học ĐHVB, GV thường làm nhiệm vụ “cảm thụ hộ” HS. Phần nhiều
GV chỉ hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức bằng cách nêu lên hệ thống câu hỏi
hướng để HS trả lời ln phiên, thậm chí “nói như một cái máy” vì có thể các
em chỉ phát biểu dựa vào SGK, các tài liệu tham khảo. Về phía HS, các em
thường tiếp cận VBĐH dừng lại ở mức đọc thành tiếng. Xuyên suốt cả thời gian
của giờ học ĐHVB, GV mới là trung tâm bình giảng. Quá trình HĐHVB chỉ
dừng lại ở khâu “đọc - chép”, “chiếu - chép”, nhiệm vụ của HS là “nghe - chép”
hoặc “nhìn - chép”... Lâu dần, hoạt động này sẽ trở nên nhàm chán, việc dạyhọc văn học ở trường phổ thông không đáp ứng mục tiêu hình thành và phát
triển NL cho HS.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Thứ nhất, xuất phát từ đặc
điểm môn Ngữ văn là môn học rất giàu tính hình tượng, kiến thức nhiều, địi hỏi

HS có phẩm chất, năng lực nền tảng. Thứ hai, xuất phát từ phía HS, nhiều em
chưa đánh giá đúng vị trí của mơn Ngữ văn, chưa có ý thức học tập. Đặc biệt,
học định hướng thi các mơn KHTN, vì thế mà những nhiều em đều rất thờ ơ khi
6

TIEU LUAN MOI download :


học tập môn bộ môn này, đa số các em ban KHTN đang tồn tại tư duy “chỉ cần
đậu đại học khối A, A1, B với số điểm cao, còn điểm môn Ngữ văn chỉ cần đủ
điểm đậu tốt nghiệp THPT Quốc gia là được”. Thêm vào đó, từ năm học 20192020 đến nay, do ảnh hưởng của đại dịch Covid nên các em phải học trực tuyến
trong một thời khá dài, nên nhiều em đã lười học càng thêm càng sao nhãng việc
học tập môn Ngữ văn. Thứ ba, xuất phát từ phía GV, người dạy chưa phân tích
hết các yếu tố đến từ HS để hiểu vì sao HS khơng tích cực học, hai là q rập
khn kiến thức của SGK, phương pháp tổ chức, kĩ thuật tổ chức hoạt động dạy
học chưa phù hợp với đối tượng HS khơng chun Văn nên chưa kích thích
được hứng thú của các em.
Một trong những đặc điểm tư duy, tâm sinh lí lứa tuổi của HS THPT, HS
ban KHTN là các em ngày càng có nhu cầu tự bộc lộ khả năng, cách nghĩ, cách
giải quyết vấn đề riêng của mình. Điều HS cần ở GV là sự động viên, khích lệ,
có hứng thú. Các em sẽ khơng hào hứng khi bị áp đặt tư duy thụ. Đứng trước
tình huống này, nếu GV khơng trau dồi cho mình trình độ, kiến thức, bản lĩnh
đứng lớp và tư duy khách quan, cởi mở…chúng ta có thể vội vàng phủ nhận
những lí lẽ mới mẻ hoặc nặng nề hơn là phê bình, lên án cách nhìn, cách cảm
của các em. Chính điều đó khiến cho mơn Văn khơng tạo được hứng thú, khơng
phát triển được những tiềm năng sẵn có của HS ban KHTN. Và quan trọng hơn,
dần dần các em cũng khơng cịn hứng thú với mơn học- đó là căn nguyên sâu xa
của việc, HS ngày càng xa lánh với bộ môn quan trọng này.
1.2.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, đã có rất nhiều bài báo khoa học, nhiều tài liệu, cơng trình

luận văn Thạc sỹ, Tiến sỹ… nghiên cứu vấn đề dạy học môn Ngữ văn theo định
hướng phát triển NL HS. Tiêu biểu là những bài viết của TS. Nguyễn Trọng
Hoàn: Một số vấn đề về ĐHVB ngữ văn và Hình thành NL đọc cho HS trong dạy
học Ngữ văn; GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng với bài Đọc hiểu văn chương bài:
Những khái niệm then chốt của vấn đề đọc hiểu văn chương; GS.TS. Trần Đình
Sử viết bài ĐHVB- Một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn
hiện nay; TS. Nguyễn Viết Chữ với bài Về việc bồi dưỡng kĩ năng đọc – nghe –
nói- viết cho HS trong dạy học Ngữ văn; Cơng trình Dạy học theo định hướng
hình thành và phát triển NL người học ở trường phổ thông của hai tác giả Lê
Đình Trung-Phan Thị Thanh Hội; cơng trình Phương pháp dạy học phát triển
NL HS phổ thông của nhóm tác giả do Huỳnh Văn Sơn (chủ biên); Dạy học
PTNL môn Ngữ văn trung học phổ thông của Đỗ Ngọc Thống và nhóm cộng
sự…Phát triển NL đọc - hiểu cho HS THPT đáp ứng yêu cầu của chương trình
GDPT mới của Nguyễn Thị Thanh Lâm; Một số biện pháp phát triển NL văn
học cho HS phổ thông đáp ứng u cầu của chương trình GDPT mơn Ngữ văn
(2018) của Phạm Thị Thu Hiền; Các SKKN của rất nhiều thầy cơ giáo cũng góp
phần khơng nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy- học phần Đọc hiểu văn
bản. Tiêu biểu có Một số biện pháp nâng cao NL ĐHVB Ngữ văn cho HS THPT
của tác giả Trần Thị Oai; Phát triển NL ĐHVB cho HS trung học phổ thông
trong dạy học ngữ văn (qua dữ liệu lớp 10) của Đoàn Thị Thanh Huyền…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu này đều khẳng định tầm quan trọng
của phân môn ĐHVB trong chương trình Ngữ văn, chú trọng đến khâu hướng
7

TIEU LUAN MOI download :


dẫn HS đọc và tiếp cận văn bản văn học. Đặt ra những yêu cầu thiết yếu phải đổi
mới việc dạy và học văn học trong nhà trường phổ thông. Các tài liệu đều đi đến
kết luận rằng các kĩ năng cơ bản cần hình thành cho HS qua việc ĐHVB là nghe

- nói - đọc - viết. Tuy nhiên, các cơng trình đó chưa cụ thể hố cách thức giảng
dạy, cách thức học tập cho từng đối tượng HS khác nhau. Việc nghiên cứu các
giải pháp nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn cho HS ban KHTN ở
trường THPT theo định hướng phát triển NL chưa được chú trọng đi sâu khai
thác, chú ý một cách đúng mức.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn (phần Đọc -hiểu
văn bản) cho HS ban KHTN ở trường THPT theo định hướng phát triển
NL
2.1. Lựa chọn, vận dụng các hình thức và phương pháp giảng dạy mơn
Ngữ văn (phần Đọc- hiểu văn bản) theo định hướng phát triển NL cho HS
ban KHTN
Cùng với sự phát triển của xã hội, sự vận động của con người, phải là sự
thay đổi của giáo dục, đặc biệt là thay đổi phương pháp và hình thức giảng dạy.
Sự thay đổi ấy cần bắt đầu từ việc chuyển đổi từ giáo dục tiếp cận nội dung sang
giáo dục tiếp cận NL. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cần phải đặt yêu cầu
phát triển NL HS lên hàng đầu. Ngữ văn là mơn học có u cầu đặc biệt quan
trọng về khả năng tưởng tượng, sử dụng ngôn từ và quan tâm nhiều hơn đến tư
tưởng tình cảm của HS. Vì vậy, đối với việc giảng dạy theo định hướng phát
triển NL môn Ngữ văn cho HS thuộc ban KHTN – những môn học quan tâm
nhiều hơn về mặt tư duy logic trở thành một vấn đề cần được quan tâm nhiều
hơn nữa
2.1.1. Lựa chọn, vận dụng các hình thức giảng dạy môn Ngữ văn theo định
hướng phát triển NL cho HS ban KHTN
ĐHVB là một trong những phân môn hay mà khó của bộ mơn Ngữ văn.
Khi học, HS cần nắm được hệ thống kiến thức khá lớn bao gồm trong văn bản,
ngoài văn bản cùng hệ thống kiến thức liên mơn đi kèm. Vì vậy, khi giảng dạy
kiến thức này với HS ban KHTN, cần phải làm sao các em khơng bị nhàm chán,
có hứng thú trong giờ học và cao hơn nữa là có thể tự tìm kiến thức ngoài để
tham khảo, nâng cao năng lực văn chương của mình. Ngồi PPDH, HTDH
truyền thống, GV có thể thêm tìm tòi, linh hoạt vận dụng các cách thức dạy học

mới phù hợp với đối tượng HS ban KHTN.
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể của từng đơn
vị bài ĐHVB mà GV sẽ lựa chọn những HTDH, PPDH tích cực hoạt động của
HS, hình thành NL cho các em. Đặc biệt chú ý phát huy tối đa khả năng lập luận
và tư duy của đối tượng HS ban KHTN.
Quá trình dạy học trên lớp ban KHTN, chúng tơi thường sử dụng một số
hình thức dạy học nhằm làm giảm áp lực cho HS, chú ý nhiều đến hứng thú của
các em, khơng địi hỏi việc ghi nhớ kiến thức mà chủ yếu để các em học tập theo
nhiều hình thức nhẹ nhàng, có sự kết nối, hỗ trợ cặp/nhóm để tạo khơng khí học
tập. Một số hình thức dạy học được sử dụng thường xuyên bao gồm:
8

TIEU LUAN MOI download :


Hình thức dạy học theo nhóm. Ở hình thức này, HS của một lớp học được
chia thành các nhóm nhỏ, trong một khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm sẽ tự
hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở được phân công và hợp tác làm việc.
Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước tồn lớp.
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính
trách nhiệm; phát triển NL cộng tác làm việc và NL giao tiếp của HS.
Cách chia nhóm: Chia nhóm theo bàn học, theo mùa sinh, theo các màu
sắc yêu thích, theo cùng trình độ, theo giới tính, theo sở thích, ....Kinh nghiệm
bản thân cho thấy nên chia nhóm trong đó có cả HS giỏi, khá, trung bình, yếu là
tốt nhất. Số lượng HS giỏi, khá, trung bình, yếu giữa các nhóm phải bằng nhau
để đảm bảo cơng bằng. Quy mơ nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo
luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất. Quy trình giảng dạy với thời gian
một tiết (45 phút), GV tiến hành tuần tự các bước lên lớp theo quy định chung.
GV nêu chủ đề cần thảo luận, chia nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học,
giao câu hỏi cho các nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận, quy định thời gian thảo

luận và phân cơng vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm. Các nhóm tiến hành thảo
luận. Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng nghe, chất
vấn, trao đổi bổ sung ý kiến. GV bổ sung nội dung mà HS trình bày cịn thiếu
cho hồn thiện. GV đưa ra định hướng đúng những vấn đề HS cần nhớ sau khi
thảo luận. HS ghi nhớ hoặc ghi chép nội dung chính của bài học vào vở.
Qua việc dự giờ đồng nghiệp và giảng dạy, bản thân chúng tôi thấy rằng:
Thông thường, sau khi thảo luận xong, các nhóm thường cử một người thay mặt
nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình và hầu hết đó đều là những
HS khá, giỏi, có kĩ năng trình bày vấn đề khá tốt. Kết quả thảo luận được trình
bày chủ yếu bằng hình thức viết lên giấy khổ lớn dán lên bảng. Đến đây, HS coi
như “xong nhiệm vụ”. Đến phần GV chữa bài của HS, vì tâm lý sợ HS trình bày
rườm rà sẽ “cháy” giáo án, nên GV thường chữa bài của các em thật nhanh. GV
chỉ chú ý xem các em viết được bao nhiêu phần trăm kiến thức và xem nhẹ cách
các em trình bày vấn đề, bỏ qua cả lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu và sự thiếu hợp
lý của bố cục trình bày. Thậm chí, HS sẽ khơng có cơ hội được trình bày quan
điểm cá nhân và như vậy sẽ không rèn được năng lực tư duy, phản biện, giải
quyết vấn đề của mình.
Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tơi, trong phần trình bày của HS,
GV cũng cần phải quy định điểm số cho cả phần viết trình bày sơ đồ, bảng phụ,
các sản phẩm phát huy NL số trên các phần mềm (nếu có), và cho điểm cả cách
thuyết trình của HS. GV cần tạo điều kiện cho tất cả thành viên trong nhóm
được trình bày quan điểm, kể cả những người rụt rè e thẹn hay ngại trước đám
đơng, GV có thể u cầu HS đó đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình. Thậm
chí, qua sự quan sát của mình, nếu thấy HS nào chưa thực sự tập trung, GV có
thể u cầu chính em đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm.
Về phần trình bày kết quả thảo luận. GV cần khuyến khích các em trình
bày dưới nhiều hình thức như trình bày bằng lời; đóng vai; viết hoặc vẽ lên giấy
khổ lớn, các sản phẩm phần mềm hỗ trợ học tập như canva, powerpoint,
mindmap…; một người thay mặt nhóm trình bày, hoặc một người trình bày một
9


TIEU LUAN MOI download :


ý tưởng… Trong quá trình HS trình bày, GV cần tập trung để điều chỉnh và sửa
chữa cho các em để các em hoàn thiện được NL giao tiếp tiếng Việt của mình.
Một kinh nghiệm nữa để sử dụng phương pháp này hiệu quả nhằm rèn kỹ
năng giao tiếp cho HS là trong 45 phút của một tiết học, nếu thảo luận với thời
gian quá ngắn, sử dụng phương pháp này sẽ khơng có hy vọng gì trong việc rèn
được kĩ năng nghe- nói- đọc- viết cho HS. Vì vậy, GV có thể chuyển tải nhiều
nội dung khác nhau, chia nhóm HS thực hiện nhiệm vụ thơng qua việc ở nhà tự
học, tự nghiên cứu, thảo luận qua các nền tảng công nghệ số: zoom, google
meet, Teams... Việc sử dụng thành thạo các ác phần mềm này cũng góp phần
hình thành NL số cho HS- một NL không thể thiếu của cơng dân tồn cầu trong
thời đại cơng nghệ 4.0
Để giúp HS mài sắc NL tư duy và sử dụng ngôn ngữ, trong khi sử dụng
phương pháp này, GV cũng có thể sử dụng thêm phương pháp phản ứng nhanh
và xử lý tình huống. Đừng để phương pháp thảo luận chỉ cịn là hình thức vì
khơng đủ thời gian cần thiết để hoàn thành. Như vậy sự thay đổi về mặt phương
pháp chỉ là “cái bình mới cho rượu cũ” là việc thuyết giảng của GV

Hoạt động nhóm trên lớp và qua phòng zoom (theo chế độ breakout rooms)

HS tiến hành trình bày sản phẩm sau thảo luận nhóm (ở nhà hoặc tại lớp)
Một hình thức khác dạy ĐHVB có thể phát huy được NL của HS là hình
thức sân khấu hóa tác phẩm văn học. Hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn
học cũng là một hình thức dạy học thu được nhiều hiệu ứng tích cực từ HS.
10

TIEU LUAN MOI download :



Nhìn chung, trong hình thức sân khấu, TPVH có thể được diễn lại một cách
sống động từ văn bản nguyên tác, hoặc vở kịch chỉ có phần mở đầu đưa ra tình
huống, phần cịn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Đây là hoạt động
dạy học phù hơp với việc dạy và học các đơn vị bài học văn bản văn học. Đặc
biệt ở những tác phẩm kịch, văn học dân gian. Phần trình diễn chính là một
cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và khán giả, trong đó đề
cao sự tương tác, sự tham gia của khán giả. Thơng qua hình thức này tăng
cường sự nhận thức, thúc đẩy HS để HS đưa ra những quan điểm, suy nghĩ và
những cách xử lí tình huống, khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc
sống….. Qua hình thức này, HS có thể đồng thời phát triển được NL giải quyết
sáng tạo, giao tiếp, hợp tác…Đồng thời, các em cũng nhận thức được sự khác
nhau, khoảng cách từ văn bản văn chương đến nghệ thuật sân khấu.
Ví dụ: Có thể chuyển thể sang kịch bản văn học một số trích đoạn như
trích đoạn trong Chí Phèo; trích đoạn trong Hồn Trương Ba da hàng thịt; trích
đoạn trong Rơmêo và Juliet; văn bản Tấm Cám Ngay trong cả những văn bản
thơ, HS cũng có những vở kịch rất độc đáo

Đoạn trích Chí khí anh hùng

Đoạn trích Tấm Cám

Phân cảnh vượt thác leo ghềnh của người lái đị trong Người lái đị Sơng
Đà (Nguyễn Tn) do HS 12A13 dựng cảnh
Hoạt động sắm vai cũng đóng vai trị rất hữu hiệu trong việc dạy học
ĐHVB cho HS ban KHTN. Sắm vai là hình thức giúp HS thực hành cách ứng
xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng
11


TIEU LUAN MOI download :


tượng và ý nghĩ sáng tạo của các em. Thông qua sắm vai, HS được rèn luyện,
thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn
trước khi thực hành trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của các
em, khích lệ thay đổi thái độ và hành vi theo hướng tích cực trước một vấn đề
hay đối tượng nào đó. Đồng thời, qua các HS diễn xuất hay trình bày vấn đề,
giải quyết vấn đề đặt ra, GV sẽ đánh giá được những ưu và khuyết điểm trong
ngôn ngữ của HS. Từ đó, phát huy điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu ở
việc sử dụng ngôn ngữ của các em.
Có nhiều hình thức sắm vai như: Cho HS sáng tạo lời nói, ý nghĩ nhân
vật thay cho tác giả; Nhập vai người kể chuyện để bình luận, đánh giá về nhân
vật, sự kiện, tình huống theo quan điểm của mình; Ðóng vai nhân vật để phát
biểu suy nghĩ chủ quan về những con người, hồn cảnh, sự kiện, tình huống
trong tác phẩm; Tham dự vào tác phẩm với tư cách là người trong cuộc: ví dụ
đặt mình vào vị trí nhân vật và hình dung thái độ, phản ứng của mình trước các
sự kiện; Ðóng kịch để diễn tả lại hành động, tâm trạng nhân vật, ngâm thơ, vẽ
lại bức tranh mà tác giả đã miêu tả trong tác phẩm theo tưởng tượng của bản
thân...

Sản phẩm tranh vẽ chân dung các nhân vật trong tác phẩm Vợ nhặt qua
tưởng tượng của các nhóm HS

12

TIEU LUAN MOI download :


Cảnh phiên tòa giả định ở tòa án huyện (phân đoạn trong Chiếc thuyền

ngoài xa)
Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
- Nêu tình huống sắm vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là tình huống mở;
phù hợp với trình độ HS). - Cử nhóm chuẩn bị vai diễn (có thể chuẩn bị trước
khi tiến hành họat động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình
huống sao cho sinh động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhưng khơng đưa ra lời
giải hay cách giải quyết tình huống. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để mọi
người thảo luận.- Thảo luận sau khi sắm vai: khi sắm vai kết thúc, người dẫn
chương trình đưa ra các câu hỏi có liên quan để HS thảo luận. - Thống nhất và
chốt lại các ý kiến sau khi thảo luận.
Hình thức học tập sắm vai nhiều khi rất vui nhờ những chi tiết hài hước,
ngộ nghĩnh do HS- “diễn viên bất đắc dĩ” tạo nên. Hình thức sắm vai đặc biệt
phát huy tác dụng bởi nó giúp HS được thực hành giao tiếp, được quan sát trực
tiếp hoạt động nói với sự kết hợp sinh động của phương tiện âm thanh và các
yếu tố phi ngôn ngữ.
Qua thời gian triển khai phương pháp này, chúng tôi nhận thấy, nếu áp
dụng nó trong khơng gian lớp học và thời lượng tiết học có hạn thì phương pháp
này sẽ ít có hiệu quả. Nhưng khi sử dụng ở tiết ngoại khóa hoặc tiết hoạt động
ngồi giờ lên lớp lại rất có hiệu quả. Nếu tiến hành trong phạm vi lớp học cần
khích lệ (nhiều khi phải chỉ định) cả những HS nhút nhát cùng tham gia. Nên có
hố trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trị chơi đóng vai.
Các hoạt động sắm vai này cần nhiều thời gian để các em vừa có thể
“diễn”, trình bày khả năng ngơn ngữ của mình. Đồng thời qua đó cũng có thời
gian để điều chỉnh uốn nắn các em và định hướng về tư tưởng hành động đúng
13

TIEU LUAN MOI download :


đắn cho HS. Muốn các em nhiệt tình, sống hết mình với nhân vật cần lựa chọn

các tình huống hấp dẫn, kịch tính, bất ngờ.
Các hình thức Sân khấu hóa tác phẩm văn học hoặc sắm vai tỏ ra rất hấp
dẫn và hiệu quả trong việc dạy học ĐHVB hình thành và phát triển phẩm chất,
năng lực HS ban KHTN, thu hút được HS trong các giờ học. Tuy nhiên, do đối
tượng HS ban KHTN cũng cần dành một thời lượng lớn cho việc học các mơn
khối như Tốn, Lý, Hóa, Sinh…bởi vậy, GV khơng được sử dụng các hình thức
dạy học này một cách quá liên tục. Điều đó sẽ làm mất quá nhiều thời gian
chuẩn bị của các em, dần dần các em sẽ cảm thấy bị áp lực và mất hứng thú thực
hiện.
Một hình thức dạy học ĐHVB có thể phát huy được phẩm chất và NL HS
THPT ban KHTN hiệu quả là Thuyết trình.
Thuyết trình là một trong những phương thức hiệu quả giúp HS rèn luyện
năng lực giao tiếp, sử dụng tiếng Việt một cách bài bản. Tuy nhiên, hình thức
này khơng giống cách truyền thụ “một chiều” trong dạy học truyền thống mà
GV đã sử dụng để dẫn đến thói quen học thuộc lịng - nhớ - đọc trong đại bộ
phận HS. Việc tổ chức cho HS thuyết trình nhằm rèn luyện cho HS có tinh thần
tự học một cách tích cực, biết ăn nói lưu lốt, phát biểu ý kiến một cách tự
nhiên, rành mạch. Trong đó, HS chủ động chuẩn bị bài, trình bày và thảo luận.
GV chỉ là người đóng vai trị hướng dẫn cách thức chuẩn bị, phân cơng trình bày
chứ không trực tiếp tham gia chuẩn bị và trả lời thay học trò. Chỉ đến lúc các em
kết thúc thảo luận, GV mới tổng kết và đưa ra nhận xét, đánh giá, cho điểm.
Như vậy, rõ ràng phương pháp dạy học này đã thực sự biến các em HS trở thành
trung tâm của giờ học.
Để có một buổi thuyết trình thành cơng, theo chúng tơi, GV cần hướng
dẫn HS thực hiện một số việc cần thiết sau: Phân nhóm (Cách phân nhóm như
trong phương pháp thảo luận nhóm đã trình bày). Sau đó, GV hướng dẫn HS về
cách thu thập thông tin và xây dựng cấu trúc bài thuyết trình. (Xác định rõ ràng
chủ đề của bài thuyết trình; lên sơ thảo dàn ý cho bài thuyết trình (Bài có bao
nhiêu phần, mỗi phần gồm mấy phần nhỏ)); lập dàn ý chi tiết; sắp xếp chỉnh sửa
các ý cho phù hợp với tiến trình bài nói và hợp logic; biên tập lại câu chữ, bỏ các

ý thừa, bổ sung ý thiếu, xem xét cách chuyển ý giữa các nội dung; đọc lại bài lần
nữa, viết một bản tóm tắt gợi ý ngắn gọn để xem trong lúc thuyết trình (để dễ
nhớ lại và tránh việc đọc lại nguyên văn bài thuyết trình). GV cần hướng dẫn HS
các bước chuẩn bị trên để đảm bảo nội dung bài thuyết trình đúng trọng tâm, đầy
đủ và rõ ràng. Trong quá trình hướng dẫn HS thực hiện những bước này, GV đã
phần nào rèn luyện được cho các em cách thức trình bày nói, viết như thế nào.
Để phương án này đảm bảo hiệu quả trong việc rèn NL cho HS, chúng tôi
thường chú ý: Sau các bước chuẩn bị, tùy theo nội dung và yêu cầu của bài học
mà GV đưa ra bài tập cho các nhóm, phần bài tập nên giao theo hình thức bốc
thăm để đảm bảo sự cơng bằng.
GV phải hình thành được bộ cơng cụ Rubic đánh giá cụ thể cho bài thuyết
trình của HS dựa trên ba tiêu chí: phong cách thuyết trình (sử dụng phi ngơn từ
khi thuyết trình có đạt hiệu quả khơng?), nội dung thuyết trình, phần giao lưu trả
lời câu hỏi của các bạn trong lớp…GV nên có điểm thưởng cho các bạn trong
14

TIEU LUAN MOI download :


lớp có câu hỏi hay và cho các bạn có câu trả lời hấp dẫn. GV phải hình thành ở
HS tinh thần phê và tự phê bằng cách yêu cầu cả lớp trước khi đặt câu hỏi cho
bạn thuyết trình, đưa ra nhận xét về những mặt tích cực và hạn chế của bài
thuyết trình của các bạn.
Tuy vậy, hình thức dạy học này đòi hỏi GV một bản lĩnh đứng lớp để can
thiệp kịp thời khi những tranh luận đi lệch mục tiêu dạy học.
Để hình thành cho HS các NL qua các bài thuyết trình, GV cần chỉ cho
các em các cách luyện nói như: tập nói chậm và rõ ràng, tập nói trong thời gian
quy định, lưu ý các em là nói, trình bày cho các bạn hiểu, chứ không phải đọc
văn bản, đồng thời với lời nói là các hành động, cử chỉ phi ngơn ngữ, giúp bài
thuyết trình trở nên sinh động, lơi cuốn hơn. GV nên giao nhiệm vụ cho mỗi

nhóm chuẩn bị trước ít nhất 1 tuần. Khuyến khích các em đưa nội dung bài học
của mình vào những tình huống và hồn cảnh giao tiếp cụ thể. Từ đó, hình thức
thuyết trình sẽ được các em vận dụng linh động thông qua các phương tiện như
trình chiếu Powerpoint, qua canva, xây dựng tình huống giao tiếp, thuyết minh
về tranh ảnh….để làm nổi bật nội dung bài học.

HS thuyết trình sản phẩm học tập theo nhiều hình thức khác nhau
GV có thể hình thành và phát triển NL cho HS ban KHTN trong giờ dạy
học ĐHVB bằng hình thức vừa học vừa chơi. Chơi là hình thức cịn học là mục
đích. Đây là hình thức dạy học có khả năng hấp dẫn, cuốn hút sự tham gia, sự
tập trung của HS, đem lại hiệu quả nhất định bởi “biết mà học không bằng vui
mà học” (Khổng Tử).
Hình thức này có thể được thực hiện ở mọi hoạt động nhưng sẽ đặc biệt
hiệu quả khi áp dụng ở đầu tiết học để tập trung sự chú ý của HS, từ đó tạo
khơng khí sinh động cho lớp học, tạo hứng thú học tập cho các em, dẫn dắt HS
đến với nội dung bài học. Hoặc thực hiện ở cuối tiết học để củng cố kiến thức,
luyện tập, vận dụng, rèn luyện khả năng tổng hợp, phản xạ của HS
Để vận dụng thành cơng hình thức dạy học này, GV cần chuẩn bị trò chơi
thú vị (có tính cạnh tranh, có thưởng/ phạt kết hợp các phương tiện dạy học để
tạo khơng khí vui nhộn,…), trò chơi cần thu hút được đa số hoặc tất cả HS tham
gia. Đặc biệt cần giới hạn thời gian và hạn chế sử dụng sức lực của HS và sử
dụng với mục đích chính là học tập. Sau khi kết thúc trò chơi, GV sẽ đặt ra vấn
đề và tổng kết lại những sản phẩm thu được. Trò chơi học tập sẽ gợi được sự
hào hứng, tích cực và cởi mở của HS để bắt đầu một bài học với tâm thế thoải
15

TIEU LUAN MOI download :


mái hoặc thay đổi bầu khơng khí sau khi trải qua những hoạt động học tập căng

thẳng. Bên cạnh đó, HS sẽ dễ nhớ kiến thức hơn, có thể tự củng cố và xâu chuỗi
lại những gì đã học. Hoạt động rèn luyện sự nhanh nhạy, tư duy sáng tạo đúng
lứa tuổi HS. Khi thực hiện trò chơi học tập, GV cần chú ý tránh việc sử dụng
khối lượng kiến thức nặng vào trò chơi, khiến trò chơi mất đi bản chất vốn có;
tránh việc để quá thời gian cho phép hoặc để lại ảnh hưởng không tốt đến những
bài học sau (trường hợp thưởng phạt nặng để HS cạnh tranh nhiều),… Để đảm
bảo cơng bằng trong q trình cả lớp/ các đội tham gia trò chơi, GV cần yêu cầu
HS không sử dụng tài liệu, các thiết bị công nghệ thơng tin để giúp HS có thể
ghi nhớ nhanh, đồng thời rèn NL phản xạ…
Sử dụng trò chơi đã trở thành một hoạt động không thể thiếu trong mỗi
bài giảng phần Đọc- hiểu văn bản, hiệu ứng thu về rất tích cực, HS vừa củng cố
kiến thức một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn rất sơi nổi và thú vị
Ví dụ:

Biến giờ ĐHVB Người lái đị Sơng Đà
thành những Trạm đọc

Trò chơi củng cố sau bài học do HS thực hiện

/>Đường link một số video trò chơi của HS thực hiện sau khi học tác phẩm văn học

Hình thức dạy học trải nghiệm cũng là một thế mạnh trong việc dạy học
ĐHVB cho HS ban KHTN hiệu quả nhằm rèn luyện NL tư duy, ngơn ngữ, sáng
tạo, giao tiếp…
Hình thức trải nghiệm chủ yếu được chúng tôi sử dụng thường xuyên
trong dạy ĐHVB ở các lớp KHTN là “Một ngày làm GV”: Nếu như các hình
thức trên có thể áp dụng khi thực hiện từng hoạt động dạy học cho HS thì hình
thức này, GV có thể để HS là người trực tiếp điều khiển giờ dạy trực tiếp.
Khi thực hiện phương pháp, GV sẽ yêu cầu một nhóm HS bất kì chuẩn bị
bài giảng về một nội dung kiến thức nào đó, các nhóm cịn lại sẽ làm nhiệm vụ

chuẩn bị câu hỏi để đến lớp lắng nghe, nhận xét, đặt câu hỏi. Nhóm HS được
u cầu trình bày sẽ là trung tâm của lớp học, nhóm có thể chuẩn bị Powerpoint
bài giảng, viết bảng, tạo ra các hoạt động học tập để các bạn trong lớp cùng
tham gia. GV lúc này sẽ tham gia lớp học với vai trò một người lắng nghe, nhận
xét, đặt câu hỏi và chốt kiến thức cuối cùng.
Đối với phương pháp trình bày, HS sẽ được thử đứng ở vị trí là người
thuyết trình, rèn được kĩ năng nói và xử lí tình huống trước đám đông. HS được
16

TIEU LUAN MOI download :


chủ động tìm kiến thức và hệ thống kiến thức, phát triển NL tự học, hợp tác,
phản biện. Kĩ năng lập luận và phân tích cũng được sử dụng triệt để ở hoạt động
này. Đối với các HS lắng nghe, các bạn sẽ được phát triển NL đánh giá đồng
đẳng, kĩ năng đặt câu hỏi, thảo luận, tranh luận để đưa ra đáp án cuối cùng. Và
GV chỉ nên sắp xếp một số tiết để HS tự trình bày, tránh việc lạm dụng hình
thức này dẫn đến việc quá tải trong việc học các mơn khác của HS. Ngồi ra, sử
dụng liên tục cũng khiến HS nhàm chán, mất đi hứng thú tìm tịi, sáng tạo.

Trải nghiệm “Một ngày làm Giáo viên” của HS các lớp ban KHTN
Trải nghiệm thực tế bằng các việc tham gia hoạt động ngoài giờ lên lớp
thu được hiệu ứng tích cực, sơi nổi từ HS. Các em có điều kiện thay đổi khơng
khí học tập, mở mang kiến thức, có những trải nghiệm thực tế, gần gũi và chân
thực so với chỉ tiếp cận kiến thức đơn thuần của SGK. Việc tổ chức hoạt động
ngoài giờ lên lớp cần tuân thủ những nguyên tắc sau: gắn với đời sống; tự
nguyện; hấp dẫn, phù hợp với đối tượng; bổ trợ cho hoạt động dạy học chính
khố.
Chẳng hạn khi học những văn bản có liên quan đến danh lam thắng cảnh
hay di tích lịch sử hoặc sự kiện lịch sử, GV có thể dành tiết học để cho HS tổ

chức các hoạt động tìm hiểu ngồi, hoặc bằng hình thức xem phim tư liệu/ video
clip/ hình ảnh… liên quan đến bài học. Từ đó cả lớp và GV cùng nhau thảo luận
về vấn đề được đặt ra trong bài học. Hình thức trải nghiệm này sẽ giúp HS tìm
hiểu được thêm nhiều kiến thức ngồi văn bản. Thay đổi khơng khí học tập từ
việc bổ sung kiến thức từ thầy cơ chuyển sang tự tìm và tự hiểu kiến thức. HS có
thể thu thập từ nhiều kênh thông tin, từ các phương tiện GV chuẩn bị, từ bạn học
và từ GV cung cấp. Từ đó, phát triển NL tự học tự chủ, khả năng tranh biện,…
Trong năm học 2021-2022, dựa vào đặc điểm vị trí địa lí của thị xã Hồng
Mai- 1 địa phương có biển, chúng tôi đã tổ chức cho HS tham quan và cảm nhận
thực tế một số ấn tượng về hai văn bản Sóng và Chiếc thuyền ngồi xa. Sau đó,
dựa trên trải nghiệm thực tế của các em, viết bài thu hoạch trước khi học tập hai
đơn vị văn bản này. Quả thực, các em đã có một tâm thế mới khi tiếp cận với hai
đơn vị bài học này khi học tập trên lớp.
17

TIEU LUAN MOI download :


Trải nghiệm cảnh biển buổi sáng ở Quỳnh Lập, Quỳnh Phương (TX Hồng Mai)
dưới góc chụp và quay của HS trường THPT Hồng Mai
Tổ chức hoạt động này có thể “tạo nên chiếc cầu nối, sự liên kết chặt chẽ
giữa tri thức lí thuyết với kĩ năng thực hành”, giữa văn bản văn học trong nhà
trường với thực tiễn đời sống xã hội… góp phần đa dạng hố các hình thức tổ
chức dạy học, giảm tải chương trình, phát huy tính linh hoạt, sáng tạo của q
trình dạy học, tạo hứng thú cho HS”.
2.1.2. Lựa chọn, vận dụng các phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn theo định
hướng phát triển NL cho HS ban KHTN
Có nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Ở đây, PPDH được
hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa GV và HS, trong những
điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.

Khi lựa chọn phương pháp, trước hết cần chú ý đến những điểm chung về
mục tiêu phát triển NL của môn Ngữ văn và các bộ mơn KHTN, đó là NL lập
luận và tư duy. Đặc trưng cơ bản của HS thuộc ban KHTN chủ yếu học tập và
suy nghĩ theo lối tư duy rõ ràng mạch lạc, áp dụng cơng thức, vẽ sơ đồ,… thay
vì học theo lối học thuộc, cảm thụ, liên tưởng, tập viết,… như các HS thuộc ban
KHXH. Vì vậy, khi dạy học, GV cần chú ý tránh việc nạp kiến thức dài dòng,
rườm rà vào đầu HS, bắt HS ghi chép học thuộc mà phải hướng dẫn HS tìm hiểu
sáng tạo theo cách của chính các em. Từ đó, HS sẽ thích mà học, chứ khơng
phải vì bị ép buộc mà sợ phải học. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp
nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “HS tự mình hồn thành nhiệm vụ nhận
thức(tự chiếm lĩnh kiến thức) với sự tổ chức, hướng dẫn của GV”.
Đi vào vấn đề lựa chọn phương pháp giảng dạy phân môn ĐHVB cho HS
ban KHTN, phương pháp đầu tiên cần được vận dụng một cách đa dạng đó là
Đọc sáng tạo. Đối với HS KHTN, đây là phương pháp không thể thiếu bởi trên
thực tế, các em rất lười đọc tài liệu, SGK ở nhà. Vì vậy, việc đọc bước đầu sẽ
giúp các em có cái nhìn tổng qt về văn bản, nắm được các nội dung cơ bản,
nhất là với những văn bản dài như kí, kịch, truyện ngắn…Đồng thời, khi HS
nắm được tinh thần chung của VBVH, HS sẽ rất chủ động trong việc triển khai
cách ghi chép, lập sơ đồ tư duy…Tuy nhiên, đọc đơn điệu trên lớp qua SGK,
nhiều HS sẽ không tập trung, không hấp dẫn. Thế nên, GV có thể thay đổi đọc
18

TIEU LUAN MOI download :


diễn cảm bằng các biện pháp đọc khác như đọc phân vai, đọc kết hợp, kể chuyện
theo tranh, đóng tiểu phẩm,…
Khi thực hiện phương pháp này, GV cần yêu cầu HS có sự chuẩn bị ở
nhà. GV có thể chia bài ra thành các phần, khuyến khích HS đọc qua tác phẩm ở
nhà, nếu sử dụng biện pháp kể theo tranh hoặc đóng tiểu phẩm thì cần có sự làm

việc tập thể, và GV sẽ gọi một nhóm bất kì để thể hiện. Các biện pháp thuộc
phương pháp Đọc sáng tạo nêu trên có thể giải quyết những khuyết điểm của
việc mời 1-2 bạn đọc diễn cảm trên lớp đó là: giảm thiểu tình trạng chỉ những
bạn đọc chú ý tác phẩm còn các bạn còn lại làm việc riêng, đối với tác phẩm dài
sẽ dễ gây nhàm chán dẫn đến buồn ngủ, HS uể oải, và khơng có tinh thần chuẩn
bị bài ở nhà vì biết rằng lên lớp cô sẽ đọc hoặc cho các bạn đọc. Bên cạnh đó,
các biện pháp đọc này cịn mang lại thái độ hứng thú tiếp cận văn bản cho người
đọc, đọc trước văn bản ở nhà và tự xác định mạch ý chính – góp phần giúp HS
có thể tự hiểu trước văn bản theo cách của mình (GV có thể liên hệ chia bố cục),
phát triển được NL tự học, hợp tác và giúp HS phát hiện được những khuynh
hướng và năng khiếu nghệ thuật (nếu có).
Tuy nhiên, về mặt hạn chế có thể những biện pháp đọc này sẽ khơng
mang lại hiệu quả cao về việc đẩy mạnh cảm xúc hoặc cảm nhận sâu của HS.
Đồng thời, với những văn bản dài, nhất là truyện, kí, kịch…sẽ rất mất thời gian
nếu đọc tồn bộ tác phẩm. GV có thể giải quyết hạn chế này bằng cách đặt một
số câu hỏi gợi mở để sau khi đọc để đặt vấn đề sẽ học sau đó hoặc có thể kết hợp
một số lời bình giảng để gây hứng thú thẩm mĩ cho HS.
Phương pháp tiếp theo trong quá trình dạy học chi tiết GV có thể áp dụng
triệt để trong mọi hoạt động dạy học đó là sử dụng phiếu học tập. Mỗi văn bản
đọc hiểu sẽ có hệ thống câu hỏi (có thể là cho sẵn trong SGK hoặc GV tự đưa
ra). Tuy nhiên, thay vì liên tục đàm thoại với HS về những câu hỏi đó, GV sẽ sử
dụng các phiếu học tập để đưa hoạt động học tập về phía trung tâm là HS. Phiếu
học tập có thể được sử dụng dưới hai hình thức: làm việc cá nhân hoặc làm việc
theo nhóm. Trong thời đại cơng nghệ số, GV có thể thay phiếu học tập bằng
giấy thành phiếu học tập thiết kế qua Google form. Ở đó, HS có thể làm việc rất
nhanh gọn, tiện lợi, phát huy được NL số cá nhân
Trong quá trình chuẩn bị phiếu học tập, GV có thể đưa ra các câu hỏi
dưới dạng: điền vào chỗ trống, tìm dẫn chứng cho các luận điểm (có thể lập
bảng), phân tích hiệu quả biểu đạt,… Hoặc có thể sáng tạo bằng cách yêu cầu
HS vẽ sơ đồ tư duy (cho một đoạn trong văn bản hoặc cho một ý trong mạch văn

bản. Ngoài ra khi HS làm phiếu cá nhân, GV có thể tham khảo phiếu học tập
KWL. KWL là dạng biểu đồ thuộc công cụ tổ chức đồ hoạ được thiết kế để giúp
HS học tập. Trong đó K: know – điều HS biết về văn bản, W: want to know –
điều HS muốn biết về văn bản và L: learned – những gì HS đã học được sau tiết
học. Khi thực hiện phiếu học tập bằng KWL, GV cần cho HS thực hiện cá nhân
và tờ phiếu sẽ theo sát HS từ đầu đến cuối tiết. Đối với mỗi mục trong biểu đồ,
GV có thể đưa ra những câu hỏi gợi ý tuy nhiên khơng cần gợi ý q nhiều để
phiếu có thể phát huy linh động sự sáng tạo và mong muốn học hỏi của HS. Khi
tổ chức hoạt động nhóm với phiếu học tập, GV nên để các em thảo luận về một
19

TIEU LUAN MOI download :


vấn đề. Sau khi kết thúc thời gian thảo luận, sẽ có một nhóm trình bày và các
nhóm cịn lại sẽ nhận xét, thống nhất.
Về ưu điểm của phương pháp sử dụng phiếu học tập, nó mang lại hiệu quả
cao đối với việc phát triển NL tự học và hợp tác khi hoạt động nhóm. HS có thể
học hỏi được bạn bè, rèn các kĩ năng nói, tranh luận, thuyết trình, phản biện…
Bên cạnh đó, HS cũng có thể áp dụng tư duy logic của ban tự nhiên khi thực
hành làm phiếu học tập thơng qua các hình thức vẽ sơ đồ, làm bảng,… Hơn nữa,
khi thực hiện làm phiếu, HS sẽ được chủ động tiếp nhận kiến thức và có sự hứng
thú tích cực, giữ sự sơi nổi cho lớp học.
Ví dụ:

Phiếu học tập trên Google form
/>are=true&fbclid=IwAR0J3pqAUT0KqD9BnV8B6JCWwXFlfTrt12EQ1zR
vCZ-ABbPBjnEypIEaf5M
/>hare=true&fbclid=IwAR2nf3JD-09nsuWzhf1FLznsoZ6cfQAlhJz_e_nswt4WVsHapdXs4HG_Rc
Một số hệ thống câu hỏi được soạn trên phần mềm quizizz

Tuy nhiên, phương pháp này cũng có sự hạn chế. Thứ nhất là khó kiểm
sốt thời gian, dẫn đến khơng kịp học những phần sau. Thứ hai, GV cũng có thể
gặp khó khăn trong việc quản lí hết tất cả HS đảm bảo rằng 100% HS nghiêm
túc hợp tác với các bạn khi hoạt động nhóm. GV có thể giảm thiểu tối đa những
hạn chế này bằng cách quy định rõ ràng thời gian thực hiện, thời gian trình bày,
thời gian nhận xét và giới hạn số lượng HS phát biểu ý kiến (trường hợp bắt
buộc). Đối với việc quản lí mức độ tham gia, GV có thể chọn nhóm trưởng để
thay mình quản lí.
Phương pháp thứ ba có thể áp dụng đó là Nêu và giải quyết vấn đề. Đối
với phương pháp này, GV có thể xây dựng một tình huống hoặc chuẩn bị một
đoạn văn có vấn đề - đó có thể là vấn đề đặt ra từ văn bản (trích dẫn) hoặc một
tình huống thực tiễn có liên quan đến văn bản. Ngữ liệu đưa ra cần sự dễ hiểu,
20

TIEU LUAN MOI download :


ngắn gọn để HS nhận thức nhanh đảm bảo thời lượng học có hạn trên lớp. Từ đó
sẽ đặt ra những câu hỏi vấn đề (bao gồm cả HS đặt và GV cho sau đó).
Ví dụ
Nếu em là nhân vật Tràng, em có chấp nhận đưa thị về nhà mình trong
hồn cảnh đói kém như vậy khơng?
Nếu em là nhân vật Tnú, em sẽ hành động, phản ứng như thế nào trong
hoàn cảnh chứng kiến vợ con bị bọn Mĩ-Diệm hành hạ như vậy?
Em có đồng tình với thái độ cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà hàng
chài trong phân cảnh mụ bị chồng đánh đập hành hạ không? Nếu là em rơi
vào tình cảnh đó, em sẽ làm gì?
Theo em, sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong văn bản Nhàn có
được coi là một phản ứng tiêu cực trong hoàn cảnh đất nước, nhân dân đang
lầm than khơng?

HS THPT, nhất là HS ban KHTN đã có sự phát triển khá tồn diện về trí
tuệ. Các em có cách nhìn nhận vấn đề khá mới mẻ, những phát hiện độc đáo
nhưng rất thú vị. Điều đó cho thấy rằng các em ln có khả năng xem xét vấn đề
từ nhiều góc độ khác nhau, ln muốn đặt ra những câu hỏi và tìm câu trả lời
cho mình. Điều GV cần làm là động viên, khích lệ các em. Nếu các em đang có
cách nhìn nhận, cách giải quyết vấn đề lệch lạc, GV cần định hướng tư duy và
khơi gợi cho các em cách làm đúng, đảm bảo giáo dục đạo đức, nhân cách,
phẩm chất cho HS.
Việc thực hiện nêu và giải quyết vấn đề trong hoạt động dạy học cần đảm
bảo các yêu cầu về ngữ liệu: độ hợp lí, độ ngắn gọn dễ hiểu, tính hệ thống với
nội dung văn bản, tính liên kết với thực tiễn,… các câu hỏi cần có sự phát triển
dần độ mở rộng từ trong văn bản ra ngoài văn bản, phù hợp với trình độ HS.
Phương pháp này sẽ đảm bảo được sự phản ứng của HS trước bài học, kích thích
tư duy – một khả năng của HS ban KHTN. Bên cạnh đó, nó giúp phát triển NL
sáng tạo, liên hệ mở rộng, lập luận để bảo vệ quan điểm và phản biện với ý kiến
trái chiều. Nếu vấn đề GV đưa ra được đảm bảo, phương pháp này sẽ có hiệu
lực tối đa sự vận động tự đi tìm kiến thức của HS. Ngồi ra, khi đưa vấn đề văn
học ra ngoài xã hội, HS sẽ cảm nhận được giá trị bài học để thấu hiểu và có khao
khát được tìm tịi, giải đáp.
Phương pháp này sẽ gặp hạn chế khi câu hỏi GV đưa ra quá khó hoặc vấn
đề đặt ra khơng thực sự mang tính thực tiễn, dễ khiến HS thấy nhàm chán và
không suy nghĩ. Để thực hiện tốt phương pháp này, GV cần gọi tên chính xác
giá trị của văn bản văn học và đặt hệ thống câu hỏi sao cho HS có thể từ việc
giải quyết câu hỏi đến tự tìm ra thơng điệp.
Phương pháp đàm thoại-vấn đáp là phương pháp không thể thiếu trong
quá trình dạy ĐHVB ở các lớp ban KHTN. Trong đó, GV đặt ra câu hỏi để HS
trả lời, hoặc HS có thể tranh luận với nhau và với cả GV; qua đó HS lĩnh hội
được nội dung bài học, đồng thời hình thành những năng lực, phẩm chất của bản
thân qua mỗi giờ đọc Văn. Trong giờ ĐHVB cho HS ban KHTN, chúng tôi
thường vận dụng một số hình thức đàm thoại vấn đáp như vấn đáp tái hiện.

Trong đó, GV đặt câu hỏi với mục đích u cầu HS nhớ lại kiến thức đã biết và
trả lời dựa vào trí nhớ, khơng cần suy luận. Kiểu vấn đáp giải thích – minh hoạ
21

TIEU LUAN MOI download :


cũng nhằm mục đích làm sáng tỏ một vấn đề nào đó, GV có thể vừa nêu ra
những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để HS dễ hiểu, dễ nhớ. Một
phương án khác là vấn đáp tìm tịi. Ở đó, GV dùng một hệ thống câu hỏi được
sắp xếp hợp lý để hướng HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, kích
thích sự ham muốn hiểu biết. GV là người tổ chức sự HS trả lời, còn HS giống
như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại,
HS có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ
tư duy.
Một phương pháp dạy- học hiệu quả trong dạy ĐHVB cho HS ban KHTN là
dạy học theo góc. Đây là phương pháp học tập theo đó người học thực hiện các
nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong khơng gian lớp học. PPDH theo góc
có thể giúp HS “tự do” hơn trong việc lựa chọn nội dung mình cần bổ cứu.
Trogn giờ ĐHVB, GV cần khéo léo dẫn dắt, tổ chức để HS có cơ hội đọc hiểu
theo các nhiệm vụ khác nhau dưới sự hướng dẫn của người dạy. Dạy học theo
góc có những điểm tương đồng với dạy học theo nhóm, theo cặp và một số
phương pháp, kỹ thuật, thủ thuật dạy học khác. Ưu điểm của học theo góc trong
dạy học là người dạy có thể giao nhiều nhiệm vụ với các mức độ và NL khác
nhau theo từng nội dung học tập, mỗi cá nhân tự hoàn thành nhiệm vụ với hỗ
trợ của GV và thành viên trong nhóm. Mỗi góc phải chuẩn bị đầy đủ các phương
tiện đáp ứng nội dung học tập và nhiệm vụ các góc cùng hướng tới mục tiêu bài
học.
Trong q trình vận hành các PPDH trên, chúng tôi cũng chú ý đến việc
sử dụng thành thạo và phù hợp một số kĩ thuật dạy học tích cực giúp giờ học của

HS ln sơi động, tích cực, đạt hiệu quả cao.
Các kĩ thuật mà chúng tôi thường sử dụng trong dạy học là: Kĩ thuật chia
nhóm; Kĩ thuật giao nhiệm vụ; Kĩ thuật đặt câu hỏi; Kĩ thuật khăn trải bàn; Kĩ
thuật các mảnh ghép; Kĩ thuật “Lược đồ Tư duy”; Kĩ thuật xem, phân tích
Video…
2.2. Giải pháp tăng cường NL học của HS ban KHTN trong phần Đọc hiểu
hiểu văn bản theo định hướng phát triển NL
Trên tinh thần nghiên cứu thực tiễn về cách tiếp cận môn học của HS,
cách ghi chép của HS trong giờ học, nội dung dạy học mà HS tiếp nhận, thời
lượng thực hiện các bước của HS trong giờ học, sự ghi nhớ nội dung bài học
cũ, tính tích cực học tập của HS ban KHTN tại trường THPT Hồng Mai,
chúng tơiđã thấy rõ các vấn đề còn hạn chế của HS và cũng dự đốn đó là hạn
chế đối với HS khơng chỉ ở trường chúng tơi mà cịn rất nhiều trường. Vì thế
chúng tôi đề xuất đưa ra một số giải pháp như sau để nhằm tăng cường tính
tích cực học tập cho HS tại trường THPT như sau:
2.2.1. Cách thức học kiến thức
Trước hết, để HS ban KHTN có thể lĩnh hội được kiến thức văn bản đọc
hiểu, GV cần định hướng, nghiên cứu, chọn lọc các kiến thức, phản ứng đảm
bảo các yếu tố sau trong bài giảng của mình:
+ Cần chọn lọc các kiến thức trọng tâm nhất, càng ít càng tốt, không cần quá đi
vào chiều sâu kiến thức.
22

TIEU LUAN MOI download :


×