Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Thạc sĩ kinh tế chính trị -công nghiệp tỉnh Hà Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.98 KB, 96 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, ngay
từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), Đảng ta đã xác định cơng
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ lên CNXH.Trước yêu
cầu phát triển kinh tế đất nước trong điều kiện bùng nổ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, trong nhiệm kỳ Đại hội VII (1996 - 2000) Đảng ta đã
đề ra chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội X (2006)
tiếp tục đề ra mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020.
Hà Nam là tỉnh nằm ở vùng đồng bằng châu thổ sơng Hồng, phía bắc
tiếp giáp với Hà Nội, phía tây giáp với tỉnh Hưng Yên và Thái Bình, phía nam
giáp tỉnh Ninh Bình, đơng nam giáp tỉnh Nam Định và phía tây giáp tỉnh Hịa
Bình. Kinh tế của Hà Nam chủ yếu là nông nghiệp, năng suất thấp. Trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nam nhất thiết phải
đẩy mạnh phát triển công nghiệp.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVII đề ra mục tiêu
Phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp với tốc
độ cao, bền vững, đặc biệt tạo sự chuyển biến mạnh về chất lượng,
hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, là khâu đột phá
để đẩy nhanh tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh. Phấn đấu đạt giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 tăng gấp
2,5 lần năm 2005, trong đó cơng nghiệp địa phương tăng gấp 3 lần…
Tạo mọi điều kiện về cơ chế, chính sách để phát triển mạnh hơn tiểu
thủ công nghiệp, làng nghề, tạo thêm nhiều nghề mới, nhất là ngành
nghề xuất khẩu, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, góp phần
phân cơng lại lao động, phát triển kinh tế nông thôn [8, tr.25].



2
Để thực hiện mục tiêu trên, công nghiệp tỉnh Hà Nam cần phải phát
triển theo hướng nào? Với những ngành chủ lực gì? Cần có những bước đi,
chính sách và giải pháp như thế nào cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa? Đó là câu hỏi lớn và là vấn đề bức xúc đang
đặt ra đối với Đảng bộ và nhân dân Hà Nam.
Với mong muốn góp phần vào việc tìm lời giải cho câu hỏi trên, tôi
quyết định chọn đề tài “Công nghiệp tỉnh Hà Nam trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành
kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở cấp quốc gia, đã có nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề
công nghiệp trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như:
- Bộ Công nghiệp (1999), Chiến lược phát triển công nghiệp đến
năm 2010, Hà Nội.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp
và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996-2010, Hà Nội.
- Kenichi Ohno và GS-TS Nguyễn Văn Thường (chủ biên) (2005):
Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội, 2005. Trong cơng trình này các tác giả đã gợi ý thiết kế một chiến
lược phát triển cơng nghiệp tồn diện và hiện thực ở Việt Nam; so sánh chiến
lược phát triển công nghiệp của Việt Nam với các nước trong khu vực; nêu
lên những kinh nghiệm của các nước ASEAN trong phát triển ngành công
nghiệp điện, điện tử, sản xuất ô tô, xe máy và một số ngành cơng nghiệp phụ
trợ. Trên cơ sở đó, cơng trình rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho
ngành công nghiệp Việt Nam.
Lựa chọn và thực hiện chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam (năm
1998) của Viện Chiến lược và phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Công trình
này đã giành một phần để phân tích, đánh giá, lựa chọn và đề ra chính sách



3
phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu như công nghiệp điện, điện tử,
chế tạo, dệt may; công nghiệp sửa chữa tàu; những ngành công nghiệp nhiều
vốn và những ngành công nghiệp non trẻ như công nghiệp ô tô và phụ tùng,
thép, lọc hóa dầu, phân bón, xi măng của Việt Nam.
Những thành tựu, hạn chế và thách thức của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa của GS. TS Vũ Đình
Cự (Tạp chí Lý luận chính trị, 12/2005). Trong cơng trình này, tác giả đã nêu
lên những đặc điểm của CNH, HĐH trong điều kiện tồn cầu hóa; chỉ ra
những thành tựu và hạn chế của CNH, HĐH ở nước ta sau 20 năm đổi mới,
trong đó có phân tích những thành tựu và hạn chế của ngành công nghiệp.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới: thành tựu và vấn đề đặt ra
của Nguyễn Sinh (Tạp chí Lý luận chính trị, số 12; 2005). Trong cơng trình
này tác giả phân tích khá chi tiết những thành tựu đạt được của công nghiệp
trong gần 20 năm đổi mới và chỉ rõ 6 vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời
gian tới cho ngành công nghiệp Việt Nam.
Khả năng cạnh tranh của một số hàng công nghiệp Việt Nam: thực
trạng và những vấn đề rút ra của PGS.TS Nguyễn Huy Oánh (Tạp chí Lý
luận chính trị, số 2; 2002). Trong công trình này, tác giả đã đánh giá thực
trạng sức cạnh tranh của một số ngành công nghiệp chủ yếu của Việt Nam.
Theo tác giả thì các ngành công nghiệp của Việt Nam như xi măng, thép, hóa
chất, cơ khí, đường, dệt có sức cạnh tranh yếu. Riêng da giày và ngành may
có sức cạnh tranh trung bình. Từ kết quả nghiên cứu đó, tác giả đề xuất nhiều
vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành cơng nghiệp
Việt Nam. Đó là: đầu tư cho khoa học - công nghệ; nâng cao trình độ tổ chức
quản lý sản xuất; đổi mới nhận thức về phát huy mọi thành phần kinh tế để
phát triển công nghiệp; đào tạo, sử dụng đúng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật; hạn chế chính sách bảo hộ của Nhà nước; xử lý tốt tỷ giá đồng tiền Việt



4
Nam với các ngoại tệ mạnh và thực hiện tốt vai trị quản lý của Nhà nước đối
với ngành cơng nghiệp.
Công nghiệp Việt Nam những năm đổi mới của Nguyễn Hồng Minh
(Tạp chí Con số và Sự kiện, số 9; 2004). Trong công trình này, trước hết tác
giả đã phác thảo đôi nét về công nghiệp nước ta trong cơ chế cũ. Tiếp theo
cơng trình đi sâu phân tích những thành tựu của công nghiệp Việt Nam những
năm đổi mới trong từng thời kỳ kế hoạch từ 1990 đến 2005. Cuối cùng là
những nhận xét của tác giả về nguyên nhân đạt được những thành tựu đó.
Phát triển cơng nghiệp Việt Nam: thực trạng và thách thức của Quốc
Trung và Linh Chi (Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 249, tháng 11/2002). Cơng
trình phân tích thực trạng sản xuất cơng nghiệp Việt Nam từ 1996 đến 2002
dưới những khía cạnh như: tốc độ tăng trưởng; tỷ trọng công nghiệp trong
GDP, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong công nghiệp; trình độ công nghệ, trang
thiết bị và lao động công nghiệp. Các tác giả công trình này đã nêu lên một số
chính sách tác động đến phát triển cơng nghiệp trong thời gian qua. Cuối cùng
là những tồn tại và thách thức mà ngành cơng nghiệp Việt Nam phải khắc
phục, đó là: hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm, trình độ công nghệ, trang
thiết bị lạc hậu, chất lượng và năng suất lao động cơng nghiệp thấp, chi phí
dịch vụ hạ tầng cao, hợp tác sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và những hạn
chế trong cơ chế chính sách hiện hành.
Sự phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm đầu
thế ky của TS Đỗ Đăng Hiếu (Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 1, 2002). Tác giả
đã đánh giá một số nét tổng quát về tình hình phát triển của ngành công
nghiệp Việt Nam trong năm 2001 - 2002. Từ đó tác giả nêu phương hướng và
các giải pháp phát triển ngành công nghiệp trong thời gian tới.
Ở các tỉnh, thành phố đã có nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu về
thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn như: Thành phố

Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phịng, thành phố Đà Nẵng ,


5
các tỉnh Đồng Nai, Bến Tre, Quảng Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Nam
Định, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Tĩnh … và các quy hoạch phát triển công
nghiệp, các ngành công nghiệp chủ lực trên địa bàn từng tỉnh, thành phố.
Ở Hà Nam, tính đến thời điểm hiện nay chưa có một cơng trình, đề tài
nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trị của cơng nghiệp đối với sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của tỉnh, định hướng và giải
pháp phát triển công nghiệp Hà Nam trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Năm 2003, BCH Đảng bộ tỉnh Hà Nam ban hành Nghị
quyết số 08 -NQ/TU “Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu, thủ công
nghiệp”. Hiện tại, Ủy ban nhân dân tỉnh đang chỉ đạo hoàn thiện quy hoạch
phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; đánh giá thực
trạng; đề xuất định hướng, giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Hà Nam trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản về công nghiệp và vai trị của
cơng nghiệp đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng cơng nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn
2000 - 2010, đánh giá vai trị của cơng nghiệp Hà Nam đối với sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của tỉnh.
- Đề xuất một số định hướng, giải pháp cơ bản phát triển công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vai trị của cơng nghiệp Hà Nam trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của tỉnh và các nhân tố tác


6
động, xu hướng phát triển công nghiệp Hà Nam trong q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vai trị của
cơng nghiệp tỉnh Hà Nam trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa giai
đoạn 2000-2010, xu hướng và giải pháp phát triển công nghiệp Hà Nam trong
q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương,
nghị quyết của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước; các quan điểm,
chính sách, biện pháp của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Nam. Luận văn kế thừa
một cách có chọn lọc các cơng trình khoa học, các đề tài của các cơ quan, các
nhà khoa học trong và ngồi tỉnh có liên quan tới nội dung của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp truyền thống
mang tính phương pháp luận, luận văn cịn sử dụng phương pháp phân tích,
so sánh tổng hợp, thống kê…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trị của cơng nghiệp đối
với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Luận văn tập trung phân tích đánh giá vai trị của công nghiệp Hà
Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh trong những
năm qua, từ đó dự báo xu hướng, xác định các giải pháp thúc đẩy sự phát triển
công nghiệp Hà Nam trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đến năm 2020.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 03 chương, 09 tiết.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRO
CỦA CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. CÔNG NGHIỆP VÀ VAI TRO CỦA CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp và những đặc trưng của nó
Nhân loại đã trải qua lịch sử phát triển rất lâu dài, từ nền văn minh nông
nghiệp đến nền văn minh công nghiệp và nền kinh tế tri thức. Mỗi nền văn minh
đều dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định.
Trong nền văn minh công nghiệp, công nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu.
Đây là ngành kinh tế dựa trên việc sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu là máy móc,
với phân cơng, chun mơn hố và hợp tác sản xuất sâu rộng. Ngành cơng
nghiệp có lịch sử phát triển rất lâu dài, từ trình độ thủ cơng lên trình độ cơ khí, tự
động; từ chỗ gắn liền với nông nghiệp trong khuôn khổ của một nền sản xuất
nhỏ tự cung tự cấp rồi tách ra khỏi nông nghiệp bởi một cuộc phân công lao
động lớn thứ hai để trở thành một ngành sản xuất độc lập và phát triển cao hơn
qua các giai đoạn hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, công xưởng...
Trong nền kinh tế quốc dân hiện đại, công nghiệp là một ngành sản xuất
vật chất độc lập, có vai trò chủ đạo trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên,
chế biến tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm của ngành nông nghiệp thành
những tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.

Theo Từ điển bách khoa toàn thư, công nghiệp là một bộ phận của nền
kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “chế tạo, chế
biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây
là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của
các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật.


8
Theo Từ điển tiếng Việt, công nghiệp (hoặc kỹ nghệ) là tồn thể những
hoạt đợng kinh tế nhằm khai thác các tài nguyên và các nguồn năng lượng, và
chuyển biến các nguyên liệu - gốc động vật, hoặc thực vật hay khoáng vật thành
sản phẩm.
Từ những các khái niệm và những điều trình bày trên đây có thể thấy
rằng, cơng nghiệp có những đặc trưng chủ yếu sau:
- Về mặt kinh tế - xã hội, công nghiệp là ngành tương đối độc lập
trong khâu khai thác, chế biến, sửa chữa và có mối quan hệ liên ngành với
nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp tạo lập cơ sở
vật chất, mở đường cho sự tiến bộ trong quan hệ sản xuất, tổ chức phân
công lao động ngày càng chặt chẽ; trình độ khoa học - kỹ thuật và công
nghệ, trình độ tổ chức quản lý ngày càng cao. Sự phát triển công nghiệp
làm thay đổi tư duy, thay đổi nếp sống của xã hội.
- Về mặt kinh tế - kỹ thuật, sản xuất công nghiệp khác với sản xuất
nông nghiệp: sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện
tự nhiên, sản xuất công nghiệp là quá trình tác động cơ - lý - hoá trực tiếp
của con người vào giới tự nhiên để lấy ra và biến đổi các vật chất tự nhiên
thành sản phẩm theo nhu cầu của con người.
- Công nghiệp tạo ra năng suất lao động xã hội cao, của cải dồi dào.
Đó là cơ sở, nền tảng vật chất cho việc nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, phát triển các mặt khác
của đời sống kinh tế-xã hội.

Với những đặc trưng trên đây, công nghiệp đã trở thành ngành kinh
tế quan trọng nhất, trực tiếp thúc đẩy quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội
từ việc sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với khoa học - công nghệ tiên tiến, tạo ra năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao, là nền tảng của nền văn minh công


9
nghiệp, là động lực chủ yếu của quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.2. Đặc điểm của công nghiệp trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học - công nghệ và quan hệ kinh tế quốc tế đã đem lại thay đổi to lớn
cho nhiều ngành kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp.
Dưới tác động mạnh mẽ ấy, ngành công nghiệp có những đặc điểm
chủ yếu sau đây:
Một là, cơng nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn
cầu hóa nền kinh tế.
Tồn cầu hóa, mà trước hết là tồn cầu hóa kinh tế, là bước phát triển
cao của quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, là giai đoạn chuyển biến
về chất của quá trình quốc tế hóa. Tồn cầu hóa tác động và ảnh hưởng tới
phát triển xã hội trên các cấp độ: quốc gia - dân tộc, khu vực và thế giới; tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, đời sống xã hội và cả
trong mơi trường sinh thái, tự nhiên. Nội hàm của tồn cầu hóa, trước hết là
tồn cầu hóa kinh tế được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, các dịng hàng hóa, dịch vụ, kỹ thuật, vốn, nguồn nhân
lực.. ngày càng vượt qua biên giới các quốc gia, lưu thơng trên phạm vi
tồn cầu ngày càng tự do hơn.
Thứ hai, sự liên kết chặt chẽ kinh tế của các nước trên thế giới thành

các kênh phân phối lưu thông các nguồn lực kinh tế toàn cầu, cầu nối này
ngày càng ảnh hưởng và kết hợp chặt chẽ với nhau, chứ không phải sự phát
triển cơ lập mà các bên khơng hề có liên quan.
Thứ ba, tồn cầu hóa là sự gia tăng liên kết toàn cầu làm rút ngắn
khoảng cách giữa các quốc gia tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
chắt chẽ trước hết về sản xuất và thị trường nhờ tính năng động của thương
mại, sự lưu thông vốn và công nghệ…


10
Thứ tư, nền kinh tế các nước trên thế giới ngày càng mở cửa và hòa
nhập với nhau. Sự phát triển của nền kinh tế các nước trên thế giới và sự
vận động của toàn bộ nền kinh tế thế giới ngày càng ảnh hưởng và chế ước
lẫn nhau.
Khu vực hố và tồn cầu hố là xu thế nổi bật trong giai đoạn hiện
nay. Các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, trong đó có ngành cơng
nghiệp chịu tác động trực tiếp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá
trình này tiếp tục diễn ra với quy mô ngày càng lớn, ở những cấp độ khác
nhau với xu hướng tồn cầu hố đi đơi với xu hướng khu vực hoá và tốc độ
ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trước
đây, các yếu tố bên ngồi đóng vai trị ít quan trọng đối với sự phát triển
của ngành cơng nghiệp, nền kinh tế có cơ cấu tương đối hồn chỉnh và
khép kín. Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đã trở nên
mạnh mẽ. Các nước dù muốn hay không cũng bị thu hút vào các quan hệ
kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế này có ảnh hưởng quan
trọng đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế của các quốc gia, chúng làm
thay đổi cơ cấu của các lực lượng tham gia vào ngành công nghiệp.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh diễn ra đặc biệt
gay gắt. Đây là thách thức lớn nhất đối với phát triển công nghiệp ở các
nước đang phát triển hiện nay.

Hai là, công nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng này đặc trưng bởi những phát minh
khoa học đều trực tiếp dẫn đến sự hình thành các nguyên lý công nghệ sản
xuất mới, làm thay đổi về chất cách thức sản xuất chứ không chỉ đơn thuần
về mặt công cụ sản xuất. Cuộc cách mạng này có tác dụng làm đảo ngược
trình tự phát triển của một số lĩnh vực và ngành kinh tế. Cơng nghiệp cũng
khơng nằm ngồi vịng quay đó. Chẳng hạn, trước đây cơng nghiệp hố
diễn ra ở các quốc gia có trình độ khoa học và cơng nghệ phát triển nhất


11
theo trình tự: phát triển khoa học cơ bản - khoa học ứng dụng - phổ cập
công nghệ trên diện rộng. Ngày nay, các nước đi sau có thể đi theo trình tự
ngược lại: ứng dụng công nghệ tiên tiến thông qua nhập khẩu - phát triển
khoa học ứng dụng - và chỉ khi trình độ phát triển kinh tế xã hội cao thì
khoa học cơ bản mới có đủ tiền đề để phát triển mạnh. Trình tự phát triển
ưu tiên các lĩnh vực trong tổng thể nền kinh tế cũng đã có những thay đổi
mang tính tất yếu. Trước đây, cơng nghiệp hố xuất hiện sau khi nơng
nghiệp có sự phát triển vượt bậc, mang tính cách mạng. Khu vực nông
nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu và lao động giải phóng ra từ nơng
nghiệp và bảo đảm cho cơng nghiệp nguồn tích luỹ ngun thuỷ. Ngày nay
cơng nghiệp phát triển khác, ví dụ như phụ thuộc ít hơn vào nguồn ngun
liệu từ nơng nghiệp và nó đã địi hỏi vốn đầu tư lớn đến mức dù nơng
nghiệp có khi phát triển ở trình độ khá cũng không đáp ứng được. Cách
mạng trong nông nghiệp ở một số nước NICs đã từng được thúc đẩy với
mục tiêu ổn định kinh tế xã hội nơng thơn, cơng nghiệp ngược lại có vai trò
tác động trở lại rất quan trọng cho quá trình cơng nghiệp hố nơng nghiệp và
nơng thơn. Trước đây, trong mơ hình cơng nghiệp hố khép kín ở quy mô
quốc gia, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là cần thiết và hợp lý. Hiện
nay, trên quy mô thế giới, sản phẩm của ngành cơng nghiệp nặng có vị trí

quan trọng song những sản phẩm đó khơng thể chỉ do một nước sản xuất,
nhất là những nước chậm phát triển. Đối với một nước, việc lựa chọn ưu tiên
sản xuất sẽ phải căn cứ vào hiệu quả của việc phát huy lợi thế so sánh.
Phát triển công nghiệp trong điều kiện khoa học - cơng nghệ phát
triển nhanh có nhiều thuận lợi nhưng nguy cơ tụt hậu cũng là thách thức to
lớn đối với các nước đang phát triển.
Ba là, do những đặc điểm của công nghiệp như đã nêu trên, nhà nước
có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành cơng nghiệp. Vai
trị của nhà nước không chỉ với chức năng quy định luật lệ, làm trọng tài,


12
khuyến khích bằng những cơng cụ hành chính và kinh tế, bảo hộ sản xuất
và thương mại quốc gia mà nhà nước cịn chức năng định hướng phát triển
cơng nghiệp; đầu tư hình thành những cơ sở ban đầu, chia sẻ rủi ro trong
những lĩnh vực công nghiệp mới…
1.1.1.3. Nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Vào cuối thế kỷ XVIII diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp ở nước
Anh với sự xuất hiện “chiếc thoi bay” trong lĩnh vực se sợi, mở đầu một giai
đoạn mới trong lịch sử phát triển sản xuất của nhân loại. Kể từ đây xuất hiện
khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, được hiểu là quá trình thay thế lao
động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, chuyển cơ cấu của nền kinh
tế quốc dân từ nền nông nghiệp là chủ yếu lên công nghiệp, biến một nước
nông nghiệp truyền thống trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Trong lịch sử đã diễn ra các loại hình CNH khác nhau: CNH tư bản chủ
nghĩa và CNH xã hội chủ nghĩa. Xét về mặt LLSX, khoa học và công nghệ,
thì giống nhau; song giữa chúng có sự khác nhau về mục đích, phương thức
tiến hành và sự chi phối bởi QHSX thống trị.
Nhận thức về khái niệm CNH có tính lịch sử. Nó ln có sự thay đổi
cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học và cơng nghệ.

Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển
lịch sử cụ thể là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Nó khơng chỉ giúp chúng
ta nhận diện rõ con đường phải đi mà cịn giúp hoạch định chính xác mơ hình
CNH, HĐH theo định hướng XHCN cùng những nguồn lực và biện pháp để
thực thi mơ hình đó. Cùng với tiến trình CNH của các quốc gia dân tộc từ
trước đến nay đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về phạm trù CNH,
HĐH. Theo thống kê của UNIDO có tới 128 định nghĩa khác nhau; ở Việt
Nam cũng có nhiều cuộc hội thảo và một số công trình khoa học để bàn đến
khái niệm này, song tựu chung có một số quan điểm chính sau đây:


13
- Trên cơ sở tổng kết mô hình CNH cổ điển, Từ điển Bách Khoa toàn thư
Pháp viết “CNH là đưa đặc tính cơng nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho
một vùng, một nước) các loại nhà máy, các loại công nghiệp” [33, tr.520].
Khiếm khuyết lớn nhất của định nghĩa này là khơng nói gì đến tính lịch sử cụ
thể của CNH và đồng nhất CNH với phát triển công nghiệp, không làm rõ
được mục tiêu và điểm dừng của CNH.
- Để dung hòa các quan điểm khác nhau, năm 1963 UNIDO đưa ra
định nghĩa:
CNH là quá trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận ngày
càng tăng của đất nước được huy động để phát triển một cơ cấu kinh
tế đa ngành với công nghệ hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế
này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu
sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền
kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo tới sự tiến bộ về kinh tế,
tiến bộ xã hội [27, tr.2].
Định nghĩa này đã khẳng định được nội dung của CNH là xây dựng cơ
cấu kinh tế đa ngành, áp dụng công nghệ hiện đại. Song vẫn chưa nêu lên
được tính lịch sử cụ thể của quá trình CNH đối với từng quốc gia, dân tộc có

điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa khác nhau. Hay nói một cách khác đó là
quan điểm dễ được chấp nhận, song khó vận dụng.
- Các nước XHCN trước đây đều sử dụng khái niệm CNH trong giáo
trình kinh tế chính trị của Liên Xơ: “Cơng nghiệp hóa là q trình xây dựng
nền đại cơng nghiệp. Đó là sự phát triển cơng nghiệp nặng với ngành trung
tâm là chế tạo máy” [27, tr.2]. Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn Liên Xô
khi bắt tay vào CNH trong điều kiện đất nước bị chiến tranh tàn phá, bị đế
quốc bao vây, thị trường trong nước là nền tảng cho sự phát triển kinh tế (một
nền kinh tế khép kín). Trong bối cảnh quốc tế phức tạp buộc Liên Xơ phải dốc
tồn lực để đẩy nhanh CNH, tập trung phát triển công nghiệp nặng… Đường


14
lối đó của Liên Xơ trong những năm 30 đã đạt được nhiều thành tựu, được coi
là kỳ tích của CNXH và là sự đảm bảo về vật chất cho chiến thắng của Hồng
quân chống chủ nghĩa phát xít. Song thực tiễn cũng chỉ ra rằng sẽ là sai lầm
nếu đem áp dụng đường lối đó cho tất cả các quốc gia chậm phát triển mà
điều kiện lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa… với tính mn vẻ của nó
khơng giống như Liên Xơ trước đây.
- Ở Việt Nam trước hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) có quan điểm
cho rằng trong bối cảnh mới của tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh, vị trí
của Việt Nam trong sự hợp tác kinh tế toàn cầu và khu vực cho phép chúng ta
đi ngay vào HĐH và do vậy không nên đào bới lại khái niệm CNH. Phải thấy
rằng đây là quan điểm nơn nóng, muốn đốt cháy giai đoạn, phủ nhận quy luật
phát triển tuần tự của lực lượng sản xuất. Cũng có quan điểm viện dẫn CNH
hiện nay ở nước ta đã bao hàm HĐH, cho nên không cần thêm HĐH vào sau
CNH. Thực ra quan niệm này cịn mang tính phiến diện ở chỡ nhiều lĩnh vực
mà HĐH bao qt hồn tồn khơng mang bản tính cơng nghiệp như cơng
nghệ trí tuệ, cơng nghệ sinh học…
Trong các hội thảo chuẩn bị văn kiện cho Hội nghị giữa nhiệm kỳ

(Khóa VII), Hội nghị TW 7 (Khóa VII) và Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của
Đảng đã nhận định: ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, sự phân công và hợp tác kinh tế quốc tế, chúng ta
không thể CNH đất nước theo kiểu cũ, làm xong CNH mới đi vào HĐH. Mặc
dù CNH và HĐH là hai quá trình, hai khái niệm khác nhau, song trong điều
kiện này, sự xâm nhập, đan kết của CNH và HĐH là khơng thể tránh khỏi và
đó cũng là cơ may để Việt Nam bứt lên kịp các nước tiên tiến trên thế giới,
xây dựng thành công CNXH. Tiến hành đồng thời CNH và HĐH cũng là thực
hiện tính quy luật của sự phát triển tuần tự và nhảy vọt của LLSX (khi đã có
những tiền đề cần thiết cho sự nhảy vọt đó). Do vậy, cần phải gắn kết CNH và
HĐH trong một khái niệm chung “CNH, HĐH đất nước” mà không chia tách


15
nó ra làm hai quá trình và hai khái niệm riêng biệt, cũng khơng nên hiện đại
hóa khái niệm CNH hay coi CNH đã có HĐH rồi.
Với cách tiếp cận hệ thống và lịch sử, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam,
Hội nghị TW 7 (khóa VII) khẳng định:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao [14, tr.554].
Khái niệm CNH, HĐH trên được Đảng ta xác định rộng hơn các quan
niệm trước đó. Cụ thể là:
- Phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH và HĐH, phát triển công
nghiệp phải đi cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
- Tiến trình thực hiện bao hàm cả tuần tự trải qua các bước cơ giới hóa,
tự động hóa, tin học hóa, cả những bước phát triển nhảy vọt kết hợp thủ công

truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những
khâu có thể và mang tính quyết định.
Cơng nghiệp hóa theo quan niệm của Đảng ta khơng bó hẹp trong phạm
vi chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như cách hiểu trước đây,
mà là một sự kết hợp với những thành tựu mới nhất về khoa học và cơng
nghệ: CNH phải gắn với HĐH.
Có thể thấy quan điểm của Đảng ta về CNH, HĐH đã phản ánh được
quy mô rộng lớn của quá trình CNH, HĐH, nó khơng chỉ dừng lại ở lĩnh vực
cơng nghiệp mà là chuyển đổi căn bản toàn diện các mặt của đời sống xã hội,
chỉ ra được sự gắn kết tất yếu của CNH và HĐH, đó vừa là cơ may, vừa là
phương tiện để chống lại sự tụt hậu, rút ngắn thời gian xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH. Khái niệm trên cũng xác định vai trò của đổi mới kỹ


16
thuật - công nghệ là nội dung trọng tâm của q trình CNH, HĐH. Khái niệm
đó khơng chỉ là sự kế thừa mà còn là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam
trong điều kiện lịch sử mới.
1.1.2. Phân loại công nghiệp
- Dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm: người ta có thể chia công
nghiệp thành công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng và công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất (theo đó có thời kỳ quan niệm có 2 nhóm ngành tương ứng là công
nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ). Đối với các nước đang phát triển, việc phân chia
này rất có ý nghĩa trong việc tính tỷ trọng nhập khẩu tư liệu sản xuất so với tư liệu
tiêu dùng và tỷ trọng xuất khẩu so với nhập khẩu, đặc biệt đối với các nền kinh tế
theo đuổi chiến lược thay thế hàng nhập khẩu hay sản xuất hàng xuất khẩu.
- Dựa vào tính biến đổi của đối tượng lao động: người ta chia công
nghiệp thành công nghiệp chế biến và cơng nghiệp khai thác. Việc phân loại
này có ý nghĩa đối với việc phân bổ các ngành công nghiệp; trong điều kiện

nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn thì việc giảm tỷ trọng công nghiệp khai
thác, ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến là điều cần thiết, đảm bảo cho sự
phát triển bền vững.
- Dựa vào các đặc điểm kỹ thuật - công nghệ sản xuất: người ta chia
công nghiệp thành những ngành có cùng đặc trưng kỹ thuật - công nghệ, hoặc
cùng phương pháp công nghệ, hoặc sản phẩm có cơng dụng cụ thể tương tự
nhau. Cách phân chia này có ý nghĩa đối với việc quy hoạch các ngành công
nghiệp dựa trên cân đối liên ngành.
- Dựa vào quan hệ sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất: người ta chia
công nghiệp thành công nghiệp quốc doanh, cơng nghiệp ngồi quốc doanh,
cơng nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Việc phân chia này có ý nghĩa cho
việc xây dựng chính sách để phát triển các thành phần kinh tế phù hợp với
chiến lược chung của mỗi quốc gia.


17
- Dựa vào qui mô doanh nghiệp: người ta chia công nghiệp thành công
nghiệp lớn, công nghiệp vừa và công nghiệp nhỏ. Việc phân chia này là cơ sở
cho việc hoạch định chính sách và có hình thức quản lý phù hợp nhằm hỗ trợ,
phát triển công nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.3. Vai trò của cơng nghiệp đối với q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Trong q trình phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH cơng nghiệp
là ngành có vai trị quan trọng đóng góp vào việc tạo ra thu nhập cho đất
nước, tích lũy vốn cho phát triển, mở rộng thị trường, tạo nguồn thu từ xuất
khẩu cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Cơng nghiệp được đánh giá là
ngành chủ đạo của nền kinh tế trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, vai trò
này được thể hiện:
Công nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho tồn bợ nền kinh
tế: Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghệ

sản xuất, về công dụng của sản phẩm, công nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm
làm chức năng tư liệu sản xuất, cho nên nó là ngành có vai trị quyết định
trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Trình độ phát triển
công nghiệp càng cao thì tư liệu sản xuất càng hiện đại, tạo điều kiện nâng
cao năng suất lao động xã hội.
Ngày nay, sự phát triển của công nghiệp đang đưa hoạt động kinh tế thế
giới đến trình độ sản xuất rất cao, đó là việc tạo ra các tư liệu sản xuất có khả
năng thay thế phần lớn sức lao động của con người. Đó chính là sự ra đời và
phát triển mạnh mẽ các tư liệu sản xuất có khả năng tự động hóa trong một số
khâu hoặc tồn bộ quá trình sản xuất. Máy móc tự động hóa thể hiện sự phát
triển cao của công nghiệp trong việc tạo ra tư liệu sản xuất phục vụ cho các
ngành sản xuất và cho bản thân công nghiệp.
Công nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp: trong giai đoạn
đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp được


18
coi là nhiệm vụ cơ bản nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho đời
sống nhân dân và nông sản cho xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ này nông
nghiệp không thể tự thân vận động nếu không có sự hỡ trợ của cơng nghiệp.
Cơng nghiệp chính là ngành cung cấp cho sản xuất nông nghiệp những yếu tố
đầu vào quan trọng như phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, máy móc cơ khí nhỏ
đến cơ giới lớn. Cơng nghiệp cịn có vai trị quan trọng trong việc xây dựng
cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Ngày nay việc ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp đã tạo ra
bước phát triển đột biến trong nông nghiệp: Với những giống cây trồng, vật
ni có những đặc tính ưu việt về thời gian sinh trưởng, phát triển và khả năng
chống sâu bệnh, về sự đa dạng hóa của sản phẩm và đặc biệt về năng suất, chất
lượng đã góp phần tạo ra sản phẩm phong phú, đa dạng và có giá trị cao.
Cơng nghiệp chế biến đã có những đóng góp quan trọng vào việc tăng

giá trị sản phẩm, tăng khả năng tích trữ vận chuyển của sản phẩm nơng
nghiệp và làm cho sản phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng về chủng loại.
Do sản phẩm của nơng nghiệp mang tính thời vụ cao và khó bảo quản, nếu
khơng có cơng nghiệp chế biến sẽ hạn chế lớn đến khả năng tiêu thụ.
Công nghiệp cung cấp hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân, thúc đẩy
dịch vụ phát triển: Nông nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng tất yếu,
đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Còn công nghiệp cung
cấp những sản phẩm tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Mọi sản
phẩm tiêu dùng trong sinh hoạt của con người từ ăn, mặc, đi lại, vui chơi, giải
trí đều được đáp ứng từ sản phẩm công nghiệp. Kinh tế càng phát triển, thu
nhập của dân cư càng tăng thì nhu cầu của con người ngày càng mở rộng.
Chính sự phát triển của nhu cầu đã góp phần thúc đẩy cơng nghiệp phát triển.
Song ngược lại sự phát triển của công nghiệp không những đáp ứng nhu cầu
của con người mà nó lại hướng dẫn tiêu dùng của con người hướng đến nhu
cầu mới cao hơn. Như vậy, công nghiệp càng phát triển thì các sản phẩm hàng


19
hóa ngày càng đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, càng nâng cao về
chất lượng.
Cũng với cách phân tích như trên, có thể thấy sự phát triển của công
nghiệp sẽ thúc đẩy dịch vụ phát triển vì thu nhập, nhu cầu tiêu dùng của người
dân ngày càng cao, các sản phẩm công nghiệp ngày càng dồi dào thì càng đòi
hỏi ngành dịch vụ ngày càng phát triển để có thể đáp ứng các nhu cầu của
nhân dân.
Cơng nghiệp thu hút lao động nông nghiệp, góp phần giải quyết việc
làm cho xã hội: Công nghiệp tác động vào sản xuất nông nghiệp làm nâng cao
năng suất lao động nông nghiệp, tạo khả năng giải phóng sức lao động trong
nơng nghiệp. Đồng thời sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã làm cho
sản xuất công nghiệp ngày càng mở rộng, tạo ra các ngành sản xuất mới, các

KCN mới, đến lượt mình, công nghiệp đã thu hút lao động nông nghiệp và
giải quyết việc làm cho xã hội. Việc thu hút số lượng lao động ngày càng tăng
từ nông nghiệp vào cơng nghiệp khơng chỉ góp phần giải quyết việc làm, mà
còn tạo điều kiện nâng cao trình độ chun mơn, tăng thu nhập cho người lao
động, từ đó góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
theo hướng CNH, HĐH.
Công nghiệp tạo ra hình mẫu ngày càng hoàn thiện về tổ chức sản xuất
theo hướng CNH, HĐH: Do đặc điểm của sản xuất, cơng nghiệp ln có một
đội ngũ lao động có tính tổ chức, kỷ luật cao, có tác phong lao động “cơng
nghiệp” do đó đội ngũ lao động trong cơng nghiệp luôn là bộ phận tiên tiến
trong cộng đồng dân cư. Cũng do đặc điểm về sản xuất, lao động trong cơng
nghiệp ngày càng có trình độ chun mơn hóa cao tạo điều kiện nâng cao
trình độ chuyên môn của người lao động và chất lượng của sản phẩm. Trong
hoạt động sản xuất cơng nghiệp, cịn có điều kiện tăng nhanh trình độ công
nghệ của sản xuất, áp dụng những thành tựu khoa học ngày càng cao vào sản
xuất. Tất cả những đặc điểm trên đây làm cho LLSX ngày càng phát triển và


20
theo đó QHSX ngày càng phát triển hồn thiện hơn. Sự hồn thiện về các mơ
hình tổ chức sản xuất làm cho sản xuất công nghiệp trở thành hình mẫu về kỹ
thuật sản xuất hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến, người lao động có ý
thức tổ chức và kỷ luật.
Công nghiệp đảm bảo tăng cường tiềm lực an ninh q́c phịng: Với
đặc điểm kỹ thuật của mình, cơng nghiệp trực tiếp sản xuất ra vũ khí, khí tài,
phương tiện phục vụ công tác đảm bảo an ninh quốc phịng. Cơng nghiệp với
tư cách là bộ phận quan trọng của nền kinh tế sẽ tạo ra tăng trưởng và phát
triển kinh tế, giúp mỡi quốc gia có thêm nguồn lực để tăng cường tiềm lực
quốc phịng. Cơng nghiệp cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa
lĩnh vực an ninh quốc phịng, góp phần đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị, xã

hội của đất nước.
Với những vai trị quan trọng nêu trên, có thể khẳng định, cơng nghiệp
có vai trò hết sức quan trọng, là ngành chủ đạo, là động lực quyết định thành
công của sự nghiệp CNH, HĐH.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ
TRÌNH ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH chịu sự tác động của
nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố chủ yếu sau đây:

1.2.1. Nguồn lực
- Lao động. Một mặt, lao động là một bộ phận của nguồn lực phát triển,
là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất, mặt khác lao
động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát
triển. Nguồn nhân lực chính là một trong số những nhân tố quyết định việc
thực hiện thành công chiến lược phát triển công nghiệp, phát triển những
ngành công nghiệp trọng điểm. Điều đó có nghĩa là sự phát triển của ngành
công nghiệp không chỉ phụ thuộc vào vốn, kỹ thuật, tài nguyên mà còn phụ
thuộc rất lớn vào năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó.


21
- Tài nguyên. Đây là yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất công
nghiệp. Hoạt động sản xuất công nghiệp sử dụng rất nhiều tài nguyên thiên
nhiên ở đầu vào. Nước là đầu vào thiết yếu của nhiều quy trình sản xuất công
nghiệp. Công nghiệp sản xuất thực phẩm phụ thuộc vào cơ sở tài nguyên
thiên nhiên, hoặc là thu hoạch trực tiếp như đánh bắt cá, hoặc là cung cấp
những đầu vào thiết yếu để cho thực vật và động vật tăng trưởng. Khơng khí
cũng là đầu vào thiết yếu của hầu hết các quy trình sản xuất. Nguồn tài
nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển công nghiệp khai thác, công nghiệp

chế biến, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thuỷ tinh, sành sứ...
- Vốn. Vốn đầu tư là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Nếu lao
động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào thì vốn sản xuất vừa được
coi là yếu tố đầu vào vừa được coi là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất.
Những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đến tổng cầu, do đó tác động
lớn đến sản lượng. Khi đầu tư tăng có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm
máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng... tăng lên. Đầu tư
tăng sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị,
phương tiện vận tải... mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất
của nền kinh tế. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết cơng
ăn việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình, các nhà máy...và mở
rộng quy mô sản xuất.
- Khoa học - công nghệ. Khoa học - công nghệ là một trong các yếu tố
quan trọng nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của ngành công nghiệp. Đối với các ngành
công nghiệp trọng điểm, yếu tố công nghệ lại càng trở nên quan trọng hơn, giữ
vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng, phát triển của ngành. Có thể nói cuộc
cách mạng khoa học - cơng nghệ đã làm thay đổi sâu sắc phương thức lao động
của con người, nó có vai trị quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển
của các quốc gia. Trong quá trình CNH việc thu hút vốn và công nghệ của nước


22
ngoài sẽ giúp cho một số ngành kinh tế quan trọng như thăm dị, khai thác dầu
khí, cơng nghiệp xi măng, sắt thép, lắp ráp ôtô xe máy phát triển mạnh mẽ.
1.2.2. Cơ chế kinh tế
Trong cơ chế thị trường, các hoạt động kinh tế đều chịu sự chi phối của
các quy luật thị trường. Vận dụng mặt tích cực của các quy luật này sẽ làm
cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả, trước hết là việc phân bổ nguồn lực
được thực hiện một cách tối ưu. Bởi vậy, cơ chế thị trường vận hành có sự

quản lý của nhà nước được coi là điều kiện cần thiết cho cho sự phát triển của
nền kinh tế nói chung, cho sự phát triển cơng nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, bên
cạnh những ưu điểm, cơ chế thị trường còn những khuyết tật khiến cho hoạt
động kinh tế, sự triển của cơng nghiệp có khi khơng hiệu quả. Vì vậy, việc
vận hành cơ chế kinh tế đúng đắn là hết sức quan trọng.
Khi các công ty của một ngành công nghiệp tạo ra được tri thức như bí
quyết, cơng nghệ mới thông qua dự án nghiên cứu và triển khai thì các cơng
ty này khơng thể chiếm được tồn bộ lợi ích từ dự án nghiên cứu và triển khai
vì một phần lợi ích sẽ do các cơng ty khác hưởng do việc sao chép ý tưởng và
kỹ thuật. Điều này dẫn tới việc các cơng ty thường ít có động cơ để thực hiện
dự án nghiên cứu và triển khai và mức đầu tư vào dự án này sẽ thấp hơn mức
hiệu quả, đó là ngoại ứng tích cực. Trên thực tế, ngành cơng nghiệp đó đã tạo
ra một khối lượng đầu ra bổ sung nào đó, làm tăng lợi ích xã hội.
Việc thông tin không đối xứng là một thất bại của thị trường khi các
bên tham gia thị trường ln khơng có đủ thơng tin hoặc có một bên có nhiều
thơng tin hơn bên kia làm các doanh nghiệp có thể có những quyết định sai.
Điều này xảy ra do việc thu thập các thơng tin khơng chính xác hoặc việc xác
định giá cả cho thông tin thường rất khó khăn. Khó khăn trong việc thu thập
thơng tin môi trường và thông tin thị trường sẽ khiến cho các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp cơng nghiệp nói riêng bị hạn chế trong việc thâm
nhập và tiếp cận thị trường.


23
Ở hầu hết các quốc gia, một ngành công nghiệp thường có tính chất
độc quyền đa phương, thể hiện ở phương diện là khi các công ty muốn gia
nhập ngành đều phải đầu tư một lượng vốn lớn và các thiết bị phụ trợ mà
sau đó khơng thể chuyển sang dùng vào việc khác được. Điều này đã làm
hạn chế sự gia nhập ngành của các công ty trong nước và khi đó tại một số
ngành cơng nghiệp chỉ có một số cơng ty cạnh tranh có hiệu quả. Do đó, thị

trường là cạnh tranh khơng hồn hảo và xuất hiện lợi nhuận siêu ngạch.
Các cơng ty có thể kiếm được những khoản lợi nhuận cao hơn so với những
khoản lợi nhuận có được từ việc đầu tư vào những lĩnh vực kinh tế khác có
mức độ rủi ro tương đương. Lúc này sẽ xuất hiện sự cạnh tranh quốc tế để
giành những khoản lợi nhuận này thông qua các công ty xuyên quốc gia, đa
quốc gia. Những công ty này có tiềm lực vốn lớn để đầu tư vào các ngành
này và do đó, việc xâm nhập vào ngành và chiếm lĩnh thị trường khá dễ
dàng.
1.2.3. Vai trò của nhà nước
Những thất bại thị trường như ngoại ứng, sự khơng đối xứng về thơng
tin của thị trường... có thể khắc phục và hạn chế được nhờ sự can thiệp của
nhà nước thơng qua các chính sách kinh tế. Những thất bại của thị trường
chính là căn cứ để nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế nói chung, chính
sách cơng nghiệp nói riêng. Chẳng hạn như:
- Khi xuất hiện ngoại ứng tích cực như trên, Nhà nước sẽ can thiệp
bằng cách trợ cấp cho các công ty hoặc trực tiếp tiến hành nghiên cứu và triển
khai nhằm tạo ra hiệu ứng lan toả về công nghệ, giúp nền kinh tế nói chung và
ngành cơng nghiệp nói riêng tăng trưởng nhanh. Đối với việc một ngành công
nghiệp gây ô nhiễm cao nhưng cũng mang lại lợi nhuận cao thì nhà nước sẽ
so sánh giữa lợi ích và chi phí của xã hội để xem xét có nên cho phép ngành
đó phát triển sau khi đã tiến hành những biện pháp nhằm hạn chế việc gây ô
nhiễm môi trường hay thực hiện việc hạn chế phát triển ngành.


24
- Khi thị trường xuất hiên tình trạng thông tin khơng đối xứng, thơng
qua chính sách cơng nghiệp, nhà nước có thể tiến hành thu thập, xử lý thơng
tin để cung cấp cho các doanh nghiệp cơng nghiệp có những thông tin đầy đủ
về thị trường, sản phẩm, sự phát triển của các ngành công nghiệp hiện nay và
khả năng phát triển trong tương lai... Điều này giúp các ngành công nghiệp

phát triển theo đúng định hướng mà nhà nước đã vạch ra.
- Khi xuất hiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo và lợi nhuận siêu ngạch,
với khả năng của mình, nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế để thay đổi
“luật chơi”, để chuyển các khoản lợi nhuận siêu ngạch từ các cơng ty nước
ngồi sang các cơng ty trong nước như cung cấp một khoản trợ cấp hoặc thực
hiện việc bảo hộ cho các công ty nội địa và kìm giữ, hạn chế đầu tư sản xuất
của các cơng ty nước ngồi.
Bên cạnh những kết quả tốt đẹp mà chính sách cơng nghiệp mang lại
cũng tồn tại nhiều vấn đề nảy sinh. Có nhiều giai đoạn chính sách công
nghiệp đã thúc đẩy được ngành công nghiệp và nền kinh tế của một quốc gia
phát triển nhưng có lúc nó cũng khơng đem lại kết quả như mong đợi. Lí do là
trong khi thực hiện các chính sách công nghiệp nhằm khắc phục các thất bại
của thị trường, nhà nước cũng có những khả năng thất bại. Sự thất bại của nhà
nước xảy ra khi khi việc can thiệp không dẫn tới việc phân bổ nguồn lực tối
ưu, việc phân bổ nguồn lực vào các ngành được lựa chọn khơng đạt hiệu quả
như mong muốn, gây lãng phí nguồn lực thậm chí dẫn tới việc kìm hãm sự
phát triển của ngành công nghiệp và của nền kinh tế.
1.3. KINH NGHIỆM VỀ CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia
- Kinh nghiệm của Thái Lan: trong những năm 60, Thái Lan vẫn là
nước lạc hậu, kém phát triển, và công nghiệp hóa là con đường đưa đất nước
phát triển. Lúc đầu, Thái Lan tập trung vào cơng nghiệp hóa đơ thị, lấy hóa


25
dầu và một số ngành công nghiệp khác làm trụ cột, dựa vào nguồn vốn vay và
công nghiệp kỹ thuật của nước ngoài; nhưng sau một thời gian kinh tế vẫn
khơng phát triển, mà cịn lâm vào trì trệ, cơng nghiệp vẫn lạc hậu. Trước tình

hình đó, Thái Lan đã chuyển hướng cơng nghiệp hóa từ chỡ tập trung vào đô
thị sang đa dạng cả đô thị và nông thôn, cả nông nghiệp và công nghiệp đều
theo hướng xuất khẩu. Kết quả, Thái Lan trở thành cường quốc về nông
nghiệp và ngành cơng nghiệp có bước phát triển vượt bậc. Có được kết quả đó
là nhờ Thái Lan tiến hành cơng nghiệp cơ khí phục vụ nơng nghiệp dựa theo
mơ hình chun mơn hóa và hợp tác sản xuất với mục tiêu tăng dần tỷ lệ nội
địa hóa; thực thi chính sách nhà nước - nhân dân, trương ương - địa phương
cùng thực hiện điện khí hóa nơng thơn; chú trọng phát triển các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn nhằm tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hóa.
- Kinh nghiệm của Hàn Quốc: vào cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX,
Hàn Quốc còn là quốc gia chậm phát triển, nơng nghiệp là hoạt động kinh tế
chính của nước này. Trong điều kiện đó, Hàn Quốc đã chủ trương phát triển
công nghiệp theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo nên sự phát triển rất
nhanh trong công nghiệp, tăng trưởng GDP 10 năm (1962 - 1971) đạt 9,3%
[19, tr.8]; tuy nhiên sự phát triển quá nóng này đã tạo ra sự mất cân đối giữa
thành thị và nông thôn, làm nảy sinh mâu thuẫn đe dọa đến sự phát triển ổn
định của đất nước. Trước yêu cầu đó, Hàn Quốc đã đề ra chiến lược “Tăng
trưởng cân đối giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp”, chủ trương thực
hiện “Phong trào làng mới”, tập trung xây dựng nông thôn với nhiều chương
trình, dự án. Kết quả đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, đời sống nông dân
được cải thiện rõ rệt. Từ thành quả đó họ rút ra một số kinh nghiệm sau: phải tổ
chức đào tạo huấn luyện cho lãnh đạo làng xã; có cơ chế chính sách phát huy
tính chủ dộng và tạo mơi trường cho các làng xã thi đua phát triển; gắn công
nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn với phát triển các xí nghiệp nông thôn.


×