MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
Trang
3
CÔNG NGHIỆP TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển doanh nghiệp công
11
nghiệp tư nhân.
1.2. Quan niệm và những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
11
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở thành phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG
20
NGHIỆP TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở
32
Thành phố Hà Nội
32
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra cần giải quyết về phát triển doanh nghiệp công
nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội
34
Chương 3
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP TƯ NHÂN ỞTHÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Quan điểm cơ bản phát triển doanh nghiệp công nghiệp
59
tư nhân ở thành phố Hà Nội
3.2. Những giải pháp chủ yếu phát triển doanh nghiệp công
59
nghiệp tư nhân ở Hà Nội trong thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
67
87
88
92
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là một chủ trương nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
2
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh. Nhờ có chính sách đúng đắn này mà khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta có những bước phát triển vượt bậc trong
những năm gần đây nhất là các doanh nghiệp tư nhân trong đó có doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân.
Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị và qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội Hà
Nội được Thủ tướng phê duyệt, đã xác định ngành công nghiệp là ngành kinh tế
quan trọng của Thủ đô. Những năm qua doanh nghiệp công nghiệp tư nhân đã
đóng góp rất lớn vào sự phát triển của ngành công nghiệp, có vị trí hết sức quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô, tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, huy động vốn trong dân để phát
triển sản xuất, giải quyết nhiều công ăn việc làm, đóng góp ngày càng lớn cho
ngân sách Nhà nước, tiếp cận với khoa học công nghệ mới, làm gia tăng tính
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, các doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức về năng lực
quản lý, công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu
thụ, chưa mạnh dạn đầu tư vào các ngành sản xuất lớn, chưa liên kết chặt chẽ
với các thành phần kinh tế khác... Bên cạnh đó doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân đang còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như: chỉ chạy theo lợi ích
ngắn hạn, khai thác không hiệu quả nguồn lực xã hội, hiệu quả kinh tế và khả
năng cạnh tranh thấp, gây ô nhiễm môi trường... Tình trạng trên đòi hỏi
Thành phố Hà Nội phải có định hướng và các giải pháp phù hợp để khuyến
khích doanh nghiệp công nghiệp tư nhân phát triển theo qui hoạch, kế hoạch
của Thành phố, phát huy được tiềm năng, thế mạnh sẵn có, thúc đẩy loại hình
doanh nghiệp này phát triển nhanh, bền vững, đóng góp ngày càng lớn cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Phát triển doanh
3
nghip cụng nghip t nhõn thnh ph H Ni" lm ti lun vn thc
s Kinh t chớnh tr ca mỡnh.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cu cú liờn quan n ti
T sau i mi, nc ta thc hin nn kinh t th trng nh hng xó hi
ch ngha, thỡ kinh t t nhõn l mt trong nhng thnh phn kinh t ó c
nhiu tỏc gi trong nc quan tõm, nghiờn cu, tiờu biu mt s cụng trỡnh nh:
Kinh t t nhõn v qun lý nh nc i vi kinh t t nhõn nc ta".
GS.TS H Vn Vnh ( ti cp b nm 2001). Tỏc gi ó khng nh vai trũ
to ln ca kinh t t nhõn nờu ra nhng nh hng phỏt trin kinh t t nhõn
v a ra cỏc gii phỏp v phỏp lut, v chớnh sỏch, v t chc khuyn
khớch kinh t t nhõn phỏt trin.
"Kinh t t nhõn Vit Nam trong tin trỡnh hi nhp". PGS.TS Trnh
Th Hoa Mai, Nxb Th gii, H Ni - 2005. Tỏc gi a ra nhng vn
chung v khu vc kinh t t nhõn; Phỏt trin kinh t t nhõn Vit Nam trong
iu kin hi nhp; trong ú tỏc gi cú a ra mt s danh mc hp nh: cỏc
loi hỡnh doanh nghip t nhõn Vit Nam, vn thc t ca doanh nghip t
nhõn nh th no, s lng doanh nghip t nhõn ca Vit Nam....
"Doanh nghip t nhõn trong lnh vc du lch H Ni. Lun vn thc
s Kinh t ca Lờ Th Hng, Hc vin Chớnh tr quc gia H Chớ Minh
(2006). Trong lun vn tỏc gi ó lm rừ c s lý lun v v trớ, vai trũ v xu
hng phỏt trin ca doanh nghip t nhõn núi chung và doanh nghiệp t nhân
trong lĩnh vực du lịch ở Hà Nội nói riêng. Đánh giá xu hớng phát triển của
doanh nghiệp t nhân trong du lịch Hà Nội. Đề ra các giải pháp khuyến khích
phát triển doanh nghiệp t nhân trong du lịch Hà Nội.
"Cỏc doanh nghip t nhõn Trung Quc: Nhng c trng" ca
Seung - Wook Baek (Kinh t t nhõn trong giai on ton cu húa hin nay.
Vin thụng tin khoa hc xó hi, Nxb Khoa hc xó hi, H Ni - 2003). õy,
tỏc gi ó núi lờn s tỏi xut hin cỏc ch doanh nghip t nhõn Trung Quc,
trong ú núi n chớnh sỏch ci cỏch kinh t v vic hỡnh thnh khu vc kinh
t t nhõn, tỡnh trng hin nay ca cỏc doanh nghip t nhõn; Cung cp cỏc
4
doanh nghiệp tư nhân thông qua hệ thống hiện tại, các hợp tác xã giả hiệu; Ba
đặc trưng của doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc đó là: Quản lý gia trưởng,
quản lý mang tính gia đình, đầu tư rất ít vào phát triển công nghệ.
Trần Thị Lan (2007), doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh
Hóa, Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã phân tích và làm rõ một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch, đồng thời
tác giả đưa ra phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy phát triển
doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa trong thời gian tới.
"Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay". Luận văn thạc sĩ Kinh tế của
Bùi Việt Hưng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2006. Tác giả
đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển doanh nghiệp tư nhân ở
Thái Bình. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra phương hướng cơ bản và những giải pháp
chủ yếu để phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình trong thời gian tới.
Trần Sửu (2006), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện
toàn cầu hóa, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội. Tác giả đã phân tích, đề cập đến
cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, chỉ rõ các nhân tố cấu thành và tiêu chí đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực
cạnh tranh của một số doanh nghiệp Việt Nam, tác giả đã đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong
điều kiện toàn cầu hóa.
TS.Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS Tô Xuân Dân (chủ biên), Phát triển và
quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nxb Khoa học và kỹ thuật.
Các tác giả đã phân tích làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn, sự cần
thiết phát triển thành phần kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đồng thời các tác giả đã đề
xuất những giải pháp nhằm tận dụng phát huy lợi thế để phát triển các doanh
5
nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu, rộng như hiện nay.
TS, Nguyễn Minh Phong (chủ biên) (2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở
Hà Nội, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã luận giải vai trò vị thế của Hà Nội trong phát triển
kinh tế tư nhân, đặc biệt tác giả nhấn mạnh lợi thế của Thành phố có nhiều
ngành nghề truyền thống có khả năng phát triển tốt trong nền kinh tế thị trường,
tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân là rất lớn. Trên cơ sở đó đề xuất một số quan
điểm, giải pháp tích cực nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội.
Phạm Quang Trung (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp ở Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 129 (2008). Tác giả phân
tích và luận giải những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trên địa bàn như: vấn đề khó khăn về vốn và sự hạn chế
trong tiếp cận các nguồn tài chính; nhiều doanh nghiệp trong nhận thức chưa
rõ ràng, còn mơ hồ về xây dựng và phát triển thương hiệu, chưa có chiến lược
Marketing để chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước; đội ngũ cán bộ và
đội ngũ công nhân lành nghề trong nhiều doanh nghiệp còn yếu và thiếu ;
trình độ máy móc, thiết bị, công nghệ rất lạc hậu nên đã ảnh hưởng không nhỏ
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn như: Đa dạng hóa các
kênh tài chính; nâng cao vốn điều lệ của doanh nghiệp; phát triển thương
hiệu; xây dựng và phát triển hệ thống phân phối, thúc đẩy đầu tư phát triển
công nghệ.
Nguyễn Văn Trường (2004), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam, Tạp chí Cộng Sản điện tử số 64 (2004).
Trên cơ sở trình bày khái quát về vai trò của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam và đề cập đến những vấn đề về thể chế, về chính sách, thủ tục
pháp lý… của nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thời gian qua và
những hạn chế của các hỗ trợ đó, tác giả đề xuất các giải pháp phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời gian tới gồm: Hoàn thiện
6
khung pháp lý; ưu tiên về một số chính sách; có biện pháp phát triển thị
trường chứng khoán; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các
định chế quốc tế; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, phát triển dịch vụ hỗ
trợ doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
và nâng cao trình độ của các chủ doanh nghiệp.
Nguyễn Công Tạn (2003), Vị trí chiến lược của doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam, Tạp chí Kinh tế
và Phát triển sổ 67 (01/2003). Tác giả đã đề cập đến những điều kiện cần và
đủ cho sự ra đời của doanh nghiệp vừa và nhỏ . Trên cơ sở những lợi thế như
tính năng động và khả năng thích ứng tốt; tinh thần tự lực, tự cường cao,
không dựa dẫm, ỷ lại vào Nhà nước nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước
ta đã có nhiều đóng góp quan trọng như việc thu hút đáng kể nguồn vốn trong
xã hội, thúc đẩy quá tình tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho khu vực
nông thôn, nâng cao thu nhập cho nông dân nông thôn. Mặt khác, tác giả đã
chỉ ra những yếu kém, khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi
phải có sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nuớc như vốn kinh doanh của từng
doanh nghiệp rất nhỏ, khả năng tiếp cận vốn tín dụng rất khó khăn, cách quản
lý ở nhiều doanh nghiệp chưa khoa học.
Phạm Văn Minh (2009), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở tinh Thải Bình, Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Học
vỉện Chính trị quân sự, Hả Nội. Trong đó tác giả tập trung luận giải một sổ
vấn đề về cạnh tranh, nâng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ làm
cơ sở để phân tỉch, đánh gía thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bỉnh, từ đỏ đề xuất một số quan điểm, giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tỉnh Thái Bình thời gian tới.
Nguyễn Thị Thanh Bình (2012), Một sỗ giải pháp tài chính hỗ trợ cho
sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính
7
trị, trường Đạỉ học kinh tế Thành phố Hổ Chí Minh.
Theo tác giả, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay, sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều loại
hình doanh nghiệp với những quy mô, trình độ khác nhau là tất yếu. Việc tập
trung sản xuất ở quy mô nhỏ sẽ khai thác tối đa lợi thế về tính đa dạng hóa
của sản phẩm, đáp ứng từng phân khúc rất nhỏ của thị trường, giúp các doanh
nghiệp tìm được chỗ đứng trên thị trường, đồng thời cũng giảm thiểu rủi ro do
biến động của thị trường. Do quy mô gọn nhẹ nên khả năng thu hút vốn trong
dân dễ dàng và nhanh chóng, phát huy được nội lực trong nền kỉnh tế.
Tuy đã có những công trình nghiên cứu về kinh tế tư nhân nhưng chưa
có đề tài, công trình nào nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về phát triển
doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp ở Hà Nội dưới góc độ khoa học kinh
tế chính trị. Do đó, Doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong ở thành phố Hà
Nội vẫn đang là khoảng trống trong khoa học cần được nghiên cứu để vận
dụng vào thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển doanh nghiệp công
nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội trong những năm vừa qua, trên cơ sở đó
đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
của Thành phố Hà Nội hiện nay.
Phân tích thực trạng phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở
Thành phố Hà Nội thời gian qua.
Đề xuất một số điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
8
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu phát triển doanh nghiệp công nghiệp
tư nhân ở Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà
Nội.
Về thời gian: Nghiên cứu doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành
phố Hà Nội từ năm 2009 đến nay.
Về không gian: Doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các Nghị
quyết, Chỉ thị của thành ủy, UBND thành phố Hà Nội về phát triển doanh nghiệp
công nghiệp tư nhân.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
Hệ thống phương pháp nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế Chính trị Mác - Lênin
cùng các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa, khái quát
hóa và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
về phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội.
Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính
quyền Thành phố Hà Nội trong lãnh đạo, chỉ đạo thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu
và học tập, giảng dạy môn Kinh tế Chính trị ở các nhà trường trong và
ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
9
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương (6 tiết).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số vấn đề chung về phát doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
1.1.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm của doanh nghiệp công nghiệp
tư nhân
* Khái niệm doanh nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
- Khái niệm về doanh nghiệp
Để nhận diện doanh nghiệp công nghiệp tư nhân một cách có cơ sở khoa học
chúng ta đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Cho đến nay có nhiều cách
hiểu về doanh nghiệp.
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2013
giải thích: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh [ 40.tr10].
Luật doanh nghiệp năm 2014, giải thích: Doanh nghiệp là tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh [41, tr.9].
+ Kinh tế tư nhân
Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX của Ban chấp hành Trung ương Đảng
là văn bản có ý nghĩa quan trọng cho sự thúc đẩy phát triển của kinh tế tư
10
nhân ở Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình phát triển với những bước
thăng trầm, nhưng cho tới hiện nay ở nước ta vẫn chưa có một văn bản nào
định nghĩa rõ ràng về kinh tế tư nhân, những quan niệm về kinh tế tư nhân
vẫn chưa thống nhất và được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tiêu thức phân
loại vẫn chưa rõ ràng nhất quán. Tựu trung lại, kinh tế tư nhân chủ yếu vẫn
được xem xét chủ yếu trên khía cạnh sở hữu - sở hữu tư nhân.
Từ đó có thể hiểu khái niệm kinh tế tư nhân qua hai cấp độ khác nhau:
theo cấp độ khái quát, được xem xét trên góc độ khu vực nhà nước và khu
vực ngoài quốc doanh. Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc
doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và
ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân cần
được hiểu là tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà
nước về các yếu tố của quá trình sản xuất. Đặc trưng mang tính bản chất của
những doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là họ sử dụng nguồn vốn
của chính họ và có quyền được hưởng thành quả lao động mà họ làm ra
(DNTN hoạt động bằng tiền túi và cho chính cái túi tiền mình). Đó là điểm
khác biệt quan trọng giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế tư nhân
trong các nền kinh tế. Theo cấp độ hẹp hơn, kinh tế tư nhân gồm có kinh tế cá
thể, tiểu chủ; và kinh tế tư bản tư nhân.
Thông qua cách hiểu trên, chúng ta có thể đi đến nhận thức mang tính
cụ thể và rõ ràng về kinh tế tư nhân: “kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế
gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất tồn tại
dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần”.
Hiện nay vẫn đang tồn tại nhiều cách lý giải khác nhau về kinh tế tư
nhân. Có người cho rằng “Kinh tế tư nhân” đồng nghĩa với “Kinh tế tư bản tư
nhân”. Có người lại đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế ngoài quốc doanh,
theo đó một doanh nghiệp hay công ty ... sẽ được coi là ngoài quốc doanh nếu
11
như tư nhân làm chủ trên 50% vốn của doanh nghiệp. Niên giám của Tổng cục
Thống kê hiện nay vẫn thường dùng khái niệm “Ngoài quốc doanh”, theo đó các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gổm: Tâp thể, tư nhân, cá thể, hỗn hợp.
Riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại được tách riêng. Quan điểm khác lại
cho rằng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng nằm trong kinh tế tư nhân.
Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam thì: “Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân”.
Như vậy, thành phần kinh tế tư nhân có thể được hiểu và được phân
thành: Kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Đây là hai bộ phận
cấu thành kinh tế tư nhân giống nhau về nền tảng quan hệ sở hữu, nhưng khác
nhau về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và bản chất của quan hệ sản
xuất. Trong kinh tế cá thể, tiểu chủ, việc tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoạt động kinh tế phần lớn đều dựa hoàn toàn vào lao động của bản
thân, nếu có thuê thêm lao động cũng chỉ có tính chất phụ trợ trong một số
khâu, một khoảng thời gian nào đó. Về cơ bản, họ đều sản xuất kinh doanh
bằng nguồn vốn tự có của gia đình là chính, nếu có vay thêm cũng không
nhiều. Quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ, sự hợp tác, liên doanh,
liên kết giữa họ không có hoặc lỏng lẻo và về mặt pháp luật, tính ràng buộc,
quản lý về mặt pháp luật không chặt chẽ. Khác với kinh tế cá thể tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân hoạt động có quy mô lớn và chủ yếu sử dụng lao động
làm thuê để tạo ra lợi nhuận (giá trị thặng dư). Về mặt pháp luật, việc tổ chức
hoạt động, hình thức pháp lý của kinh tế tư bản tư nhân được pháp luật quy
định chặt chẽ và được tổ chức dưới hình thức các doanh nghiệp (công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân).
Cần phân biệt kinh tế tư nhân với kinh tế tập thể, kinh tế tập thể tuy cũng do
người dân hợp thành, nhưng vốn, phương thức quản lý và phân phối lợi nhuận
không còn mang tính tư nhân và nền tảng của nó là sở hữu tập thể.
12
Khái niệm doanh nghiệp công nghiệp tư nhân.
Trên cơ sở khái niệm doanh nghiệp chung nhất đã được Luật Doanh
nghiệp 2014 đưa ra, các phân tích, đánh giá về kinh tế tư nhân, có thể đưa ra
khái niệm về doanh nghiệp tư nhân như sau: Doanh nghiệp tư nhân là loại
hình doanh nghiệp trong đó các cá nhân hoặc nhóm cá nhân làm chủ trên
50% vốn điều lệ của doanh nghiệp và được tổ chức dưới các hình thức pháp
lý khác nhau như công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân một chủ, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Trong hoạt động kinh tế, theo đặc thù kinh tế kỹ thuật mà hoạt động kinh
tế được phân thành những ngành khác nhau, như công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ, xây dựng,.... Trong đó, “Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản
xuất vật chất - một bộ phận cấu thành nền sản xuất vật chất của xã hội. Công
nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo
ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ; sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp
khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu
cầu khác nhau của xã hội; khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu
dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt”. [26, tr5].
Trong xu thế kinh tế hội nhập ngày càng sâu, rộng, các lĩnh vực kinh tế
và hoạt động kinh tế được tiến hành đan xen nhau. Ngày nay, khó có một nền
kinh tế, một lĩnh vực hay một ngành kinh tế hoạt động độc lập mà không liên
quan, ràng buộc với các nền kinh tế, lĩnh vực kinh tế hay ngành kinh tế khác.
Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp ngày nay đều có xu hướng đa dạng hoá
ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn kinh doanh. Việc phân ngành, lĩnh vực, địa
bàn hoạt động của doanh nghiêp hiện nay cũng chỉ mang tính tương đối và
nhất thời. Có thể thời điểm này doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh
doanh trong lĩnh vực công nghiệp là chính, nhưng một vài năm sau hoạt động
sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp của doanh nghiệp lại xuống
thứ yếu mà hoạt động từ lĩnh vực khác mới là hoạt động chính của doanh
nghiêp. Chính vì vậy, phân loại doanh nghiệp theo ngành kinh doanh cũng chỉ
13
mang tính tương đối và còn nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm truyền
thống cho rằng việc phân loại doanh nghiệp theo ngành kinh doanh được tiến
hành khi doanh nghiệp đó chỉ sản xuất kinh doanh ngành nghề được phân
loại. Ví như doanh nghiệp công nghiệp là doanh nghiệp chỉ tiến hành các hoạt
động sản xuất sản phẩm công nghiệp; doanh nghiệp dịch vụ là doanh nghiệp
chỉ tiến hành các hoạt động dịch vụ,....Tuy nhiên, hiện nay nhóm quan điểm
có tính phổ biến hơn cả về phân loại doanh nghiệp theo ngành là lấy ngành,
nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp làm căn cứ, cơ sở để phân loại.
Ngành kinh doanh chính của doanh nghiệp được hiểu là ngành mà doanh thu
và lợi nhuân từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lớn nhất trong số
các ngành mà doanh nghiệp kinh doanh.
Trên cơ sở quan điểm này và xu thế đa dạng hoá ngành nghề kinh
doanh của các doanh nghiệp hiện nay, ta có thể đưa ra khái niệm doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân như sau:
Doanh nghiệp công nghiệp tư nhân là doanh nghiệp tư nhân có hoạt
động sản xuất - kinh doanh chính trong ngành công nghiệp. Doanh thu từ
hoạt động kinh doanh trong ngành công nghiệp của doanh nghiệp chiếm trên
50% tổng doanh thu từ tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp, người ta chia doanh
nghiệp ra thành những loại hình doanh nghiệp cụ thể theo quy định của pháp
luật về doanh nghiêp.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014 của Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân nói
chung và doanh nghiệp công nghiệp tư nhân nói riêng được chia ra thành:
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp [42.Tr.108].
- Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: phải có ít nhất 2 thành
viên là chủ sở hữu của công ty. Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể
14
có thêm thành viên góp vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; thành viên
góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty [42.Tr.101].
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: Là doanh nghiệp;
thành viên có thể là tổ chức, cá nhân góp vốn thành lập và chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Số
lượng thành viên tối đa của công ty là 50 thành viên [42.Tr. 25].
- Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau (gọi là cổ phần); cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp [42. Tr.62].
- Căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp, người ta chia doanh nghiệp ra
thành doanh nghiệp có quy mô lớn, vừa và nhỏ. Tiêu thức để phân loại doanh
nghiệp theo quy mô chủ yếu dựa vào vốn, lao động hay doanh thu của doanh
nghiệp và tuỳ từng nền kinh tế khác nhau mà việc phân loại khác nhau. Hiện
nay ở Việt Nam, phân loại doanh nghiệp theo quy mô dựa vào vốn và lao
động, được chia ra thành:
- Doanh nghiệp quy mô lớn: Là doanh nghiệp có vốn đăng ký trên 10 tỷ
đổng hoặc số lao động trung bình hàng năm trên 300 người.
- Doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ: Là doanh nghiệp có số vốn đăng
ký không quá 10 tỷ đổng và số lao động trung bình hàng năm không quá 200
người [phụ lục 1].
- Căn cứ vào ngành kinh tế - kỹ thuật, người ta chia doanh nghiệp
theo ngành sản xuất công nghiệp chính của doanh nghiệp. Tùy theo cấp độ
phân ngành công nghiệp mà việc phân loại doanh nghiệp cũng được tiến
hành khác nhau. Theo hệ thống phân ngành của Chính phủ tại Nghị định
số 75/CP ngày 27/10/1993 thì doanh nghiệp công nghiệp có mặt tại tất cả
3 ngành cấp I về công nghiệp là: doanh nghiệp công nghiệp khai thác mỏ;
15
doanh nghiệp công nghiệp chế biến, doanh nghiệp sản xuất và phân phối
điện, khí đốt và nước.
- Căn cứ vào vùng lãnh thổ, người ta chia doanh nghiệp theo vùng
lãnh thổ, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở và có cơ sở sản xuất kinh doanh chính.
* Đặc điểm chủ yếu của doanh nghiệp công nghiệp tư nhân.
Đặc điểm của doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có những nét đặc thù
khác với doanh nghiệp Nhà nước và khác với doanh nghiệp tư nhân các nước
trên thế giới. Dưới đây là một số đặc điểm cụ thể:
Một là, Phần lớn doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, phân
tán, hình thức hộ cá thể chiếm tỷ trọng lớn về số lượng cơ sở và thu hút lao động.
Phần lớn chủ doanh nghiệp xuất thân từ kinh tế cá thể hoặc từ cán bộ, viên chức
Nhà nước do quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước và tổ chức lại bộ máy
Nhà nước. Do đó chủ doanh nghiệp thường thiếu kiến thức và kinh nghiệm kinh
doanh, kém năng động, chưa quen với cách làm ăn lớn trong cơ chế thị trường.
Hai là, Trình độ phát triển của doanh nghiệp công nghiệp tư nhân nước
ta thấp cả về công nghệ, kỹ năng lao động và quản lý, chưa đủ trình độ vươn
ra các địa bàn trong nước và quốc tế, kinh doanh trên từng địa bàn là chủ yếu.
Trong khi đó công nghiệp tư nhân ở nước ngoài đã có những bước phát triển
lớn, đầu tư chiều sâu, áp dụng công nghệ hiện đại và công nghệ cao, chuyển
từ cơ khí hoá sang tự động hoá, điện tử hoá, tin học hoá cao độ, hàm lượng
chất xám trong hàng hoá rất cao.
Ba là, Trình độ xã hội sản xuất và sở hữu chưa cao, thể hiện rõ nét nhất
là loại hình một chủ vẫn chiếm ưu thế. Hình thức công ty, Công ty cổ phần
còn chiếm tỷ trọng thấp, các hộ kinh tế cá thể làm ăn nhỏ lẻ là phổ biến. Sự
liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân với nhau và với
các khu vực kinh tế khác còn hạn chế.
Bốn là, Trình độ quốc tế hoá còn thấp, một mặt do khu vực tư nhân còn
non trẻ, mặt khác do chính sách mở cửa nền kinh tế cho đến nay vẫn chưa
được thực hiện triệt để, nhất là đối với khu vực tư nhân. Các cơ sở này gặp rất
16
nhiều trở ngại trong hoạt động xuất nhập khẩu, liên doanh với nước ngoài,
vay vốn nước ngoài và xuất cảnh đi nước ngoài để học tập kinh nghiệm
nghiên cứu thị trường. ...
Năm là, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân phân bố không đều: Chủ
yếu phân bố tập trung vào những vùng mà cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư
đông đúc trong một số ngành có suất sinh lãi cao. Trình độ phát triển doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp công nghiệp tư nhân.
Vai trò của các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân thể hiện ở các khía
cạnh sau đây:
Một là, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân là nơi trực tiếp sản xuất một
khối lượng sản phẩm tương đối lớn đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, làm giảm
bớt áp lực cầu của thị trường, đồng thời đóng góp vào Ngân sách Nhà nước.
Hai là, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân góp phần quan trọng thu hút
vốn nhàn rỗi của xã hội và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương. Việc
thành lập các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân không đòi hỏi quá nhiều vốn,
nhất là với doanh nghiệp quy mô nhỏ. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân
cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác trong quá trình hoạt động các loại hình
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có thể dễ dàng huy động vốn vay dựa trên
quan hệ họ hàng, bạn bè... Chính vì vậy, việc đẩy mạnh các loại hình doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc
huy động vốn, sử dụng các khoản tiền đang phân tán, nằm im trong dân cư
thành các khoản vốn đầu tư riêng.
Các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân thường có quy mô vừa và nhỏ,
lại được phân tán ở hầu hết các địa phương, các vùng lãnh thổ nên chúng có
khả năng sử dụng các tiềm năng về nguyên vật liệu, lao động và kinh nghiệm
sản xuất các ngành nghề truyền thống của địa phương.
Ba là, Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, từng bước hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới, các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có thể thu hút
vốn, kỹ thuật, công nghệ sản xuất và là người bạn đồng hành tạo ra sự tin
17
tưởng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Bốn là, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân góp phần quan trọng trong
việc giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp - một vấn đề hết sức nan giải
và bức thiết khi mà sự phát triển của khoa học - công nghệ cùng với việc đẩy
mạnh việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước đã dôi ra một số lượng lớn lao
động. Các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có khả năng tạo ra việc làm với
mức đầu tư thấp và chủ yếu là vốn của dân mà lẽ ra Nhà nước phải tốn rất
nhiều vốn đầu tư để giải quyết việc làm cho số lao động dôi dư này.
Năm là, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng kinh tế thị trường,
nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. Sự tham gia với mức độ ngày
càng lớn của khối doanh nghiệp công nghiệp tư nhân vào các ngành sản xuất
công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp Nhà nước, buộc các
doanh nghiệp này phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức sản xuất kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị
trường. Nói cách khác, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân đã thúc đẩy sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Sáu là, doanh nghiệp công nghiệp tư nhân là nơi đào tạo và sàng lọc các
nhà quản lý doanh nghiệp thông qua thực tiễn sản xuất kinh doanh, góp phần
xây dựng một đội ngũ các doanh nhân, lực lượng cán bộ quản lý doanh
nghiệp có chất lượng cao cho đất nước. Cơ chế quản lý mềm dẻo trong các
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân cũng tạo điều kiện cho sự phát triển năng
lực của người lao động, từng bước thực hiện công bằng xã hội.
1.2. Quan niệm và những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội
1.2.1. Phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Phát triển là sự vận động, tiến triển theo
chiều hướng tăng lên” [8. Tr.1321]
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Phát triển là phạm trù triết học chỉ
ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới, không đơn giản
chỉ có biến đổi, mà luôn luôn chuyển sang những trạng thái mới tức là những
18
trạng thái trước đây chưa từng có và không bao giờ lặp lại hoàn toàn trạng
thái đã có”[29.Tr.434].
Từ những quan niệm trên về phát triển nói chung, tác giả cho rằng, phát
triển doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp: là sự vận động, biến đổi của
các doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp được thể hiện thông qua sự gia
tăng về số lượng, quy mô của doanh nghiệp, trình độ sản xuất, kinh doanh
cùng với sự hoàn chỉnh hơn về cơ cấu doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ,
ngành sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.2.2. Phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở thành phố Hà Nội
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về phát triển doanh nghiệp công
nghiệp tư nhân, vận dụng vào điều kiện phát triển doanh nghiệp công nghiệp
tư nhân cụ thể ở Thành phố Hà Nội, tác giả khái quát quan niệm về phát triển
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội như sau:
Phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội là
hoạt động tích cực, chủ động của Đảng bộ, chính quyền các cấp, các ban
ngành và các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân sử dụng tổng thể các giải
pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
cả về số lượng, quy mô; phát triển về chất lượng và cơ cấu doanh nghiệp theo
vùng lãnh thổ, ngành sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp công nghiệp tư nhân góp phần hiện thực hóa các mục tiêu
kinh tế - xã hội mà Đảng bộ, chính quyền thành phố Hà Nội đề ra.
Nội hàm khái niệm trên chỉ ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, chủ thể phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân bao
gồm: Đảng bộ, chính quyền các cấp, các ban ngành và các doanh nghiệp
công nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành phố. Mỗi lực lượng có vị trí, vai
trò khác nhau trong quá trình này, cụ thể:
Đảng bộ các cấp là người lãnh đạo, đề ra chủ trương, mục tiêu và
biện pháp thực hiện trên tất cả các lĩnh vực có liên quan đến phát triển
19
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân. Tổ chức triển khai sự lãnh đạo và
kiểm tra, giám sát sự lãnh đạo của mình đối với tất cả các lực lượng chịu
sự lãnh đạo các cấp, các ngành trong thành phố. Để thực hiện được chức
trách này, vấn đề cấp thiết hiện nay là cần phải nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng các cấp trong thành phố. Đặc biệt
là năng lực quán triệt nghị quyết của cấp trên, cụ thể hóa các biện pháp
nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân sát với các điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương mình.
Chính quyền các cấp trong Thành phố là người tổ chức triển khai
thực hiện các nội dung, yêu cầu phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân. Vai trò của các cấp chính quyền Thành phố đối với phát triển doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân được thể hiện ở việc xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có phù hợp và có tính
khả thi hay không? Tính chủ động trong việc sử dụng tổng hợp các giải
pháp để phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh của các doanh nghiệp công
nghiệp tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội; khả năng điều hành và
giải quyết những vấn đề phát sinh từ các hoạt động sản xuất- kinh doanh
của các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân thông qua các công cụ và
chính sách kinh tế; tính năng động, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách
nhiệm của bộ máy công quyền của thành phố trong thực hiện các nhiệm
vụ, mục tiêu phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân đã đề ra.
Các sở, ban, ngành liên quan là cơ quan trực tiếp tham mưu cho
Đảng bộ, chính quyền về công tác phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân, tiến hành kiểm tra, giám sát, đôn đốc quá trình thực hiện. Trong quá
trình tổ chức, các sở, ban, ngành cần phối hợp một cách chặt chẽ, tránh
tình trạng mạnh ai người ấy làm. Đối với Sở Công Thương: Chủ trì, phối hợp
với các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố
trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển công nghiệp
20
5 năm và hàng năm theo đúng định hướng quy hoạch; Xây dựng cơ chế, chính
sách để phát triển công nghiệp trên địa bàn. Kiểm tra, giám sát các tổ chức,
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có phương án phát triển
sản xuất kinh doanh; Tham mưu cho UBND Thành phố điều chỉnh Quy hoạch
phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân kịp thời khi không phù hợp.
Các sở, ban, ngành, ủy ban nhân dân các quận, huyện, thị xã theo chức
năng, nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với Sở Công Thương trong quá trình triển
khai thực hiện quy hoạch phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân có vai trò quyết định trong sự
tồn tại, phát triển hay suy vong của doanh nghiệp mình. Do đó, doanh nghiệp
công nghiệp tư nhân phải biết khai thác và tận dụng những điều kiện và
nhân tố thuận lợi của môi trường bên ngoài; phải chủ động tạo ra những điều
kiện, nhân tố cho chính bản thân mình để phát triển. Muốn nâng cao hiệu quả
kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân phải sử dụng tổng hợp các biện pháp từ nâng cao năng lực quản trị, điều
hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến việc tăng cường và
cải thiện mọi hoạt động bên trong doanh nghiệp, biết làm cho doanh nghiệp
luôn luôn thích ứng với những biến động của thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân cần tích cực, chủ động
tìm ra các giải pháp để phát triển doanh nghiệp của mình, đồng thời đóng góp
vào phát triển kinh tế - xã hội chung của Thành phố. Do đó chủ thể đề cập đến
là Đảng bộ, các cấp chính quyền Thành phố, các ban ngành và các doanh
nghiệp công nghiệp tư nhân trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Thứ hai, mục tiêu phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân: Nhằm
phát triển cả về số lượng, chất lượng; có quy mô, cơ cấu hợp lý, trình độ công
nghệ thích hợp với tiềm năng và đặc điểm của các vùng, miền trong Thành phố;
tạo dựng mối quan hệ hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp công
nghiệp tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác trên địa bàn Hà Nội để phát
21
huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, mang lại ngày càng
nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
và đóng góp ngày càng cao vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Thứ ba, Nội dung phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở
Thành phố Hà Nội
Phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội
cần tập trung vào những nội dung cơ bản:
Một là, Gia tăng số lượng doanh nghiệp
Gia tăng số lượng doanh nghiệp là làm tăng số lượng tuyệt đối các
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân. Nói cách khác là các đơn vị, các cơ sở
kinh doanh là doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ngày càng nhiều. Gia tăng
số lượng doanh nghiệp công nghiệp tư nhân thể hiện sự quan tâm đầu tư của
người dân vào kinh doanh công nghiệp hay không. Số lượng doanh nghiệp
công nghiệp tư nhân càng nhiều cho thấy ngành công nghiệp hấp dẫn và thu
hút được nhiều nhà đầu tư kinh doanh.
Hai là, mở rộng quy mô doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh năng lực sản
xuất của doanh nghiệp, năng lực cung cấp sản phẩm cho xã hội và được biểu
hiện tổng quát, trực tiếp ở tiêu chí giá trị sản phẩm làm ra, giá trị sản phẩm
cung cấp cho xã hội. Quy mô của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô về
vốn, lao động, công nghệ. Khi quy mô của doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân tăng sẽ kéo theo sản lượng của doanh nghiệp ngày càng tăng, tạo ra
nhiều cơ sở vật chất để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Quy
mô của doanh nghiệp được phản ánh qua hai chỉ tiêu:
Chỉ tiêu phản ánh trực tiếp quy mô doanh nghiệp như số lượng sản
phẩm chủ yếu và giá trị sản phẩm của doanh nghiệp; số lượng và giá trị sản
phẩm hàng hóa chủ yếu của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu phản ánh gián tiếp quy mô doanh nghiệp: tổng số vốn và từng
loại vốn; tổng số lao động và từng loại lao động; tổng số cơ sở vật chất; diện
22
tích mặt bằng sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu phản ánh quy mô ở trên đồng
thời là chỉ tiêu phản ánh năng lực doanh nghiệp, thông qua đó phản ánh năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ba là, mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh
Mở rộng thị trường là các doanh nghiệp tìm cách gia tăng doanh số qua
việc đưa ra các sản phẩm vào thị trường mới. Làm cho các yếu tố thị trường,
thị phần, khách hàng của nó ngày càng tăng. Sự gia tăng năng lực cạnh tranh
trong cơ chế thị trường được thể hiện qua sự tăng trưởng ngày càng tăng của
thị phần. Thị phần của doanh nghiệp ngày càng tăng thể hiện rằng sản phẩm
của doanh nghiệp đang ngày càng được người mua ưa chuộng. Đây không chỉ
là chỉ tiêu phản ánh kết quả xu hướng tiêu thụ hiện tại mà còn là điều kiện để
doanh nghiệp gia tăng sức mạnh cạnh tranh của mình. Thị phần ngày càng
tăng, khối lượng sản phẩm sản xuất sẽ ngày càng lớn, điều đó cho phép doanh
nghiệp có giá thành sản phẩm sẽ hạ. Thị phần ngày càng tăng, doanh số đạt
được sẽ ngày càng cao cho phép doanh nghiệp có thể có được ngân quỹ lớn
hơn cho hoạt động kinh doanh.
Bốn là, tăng kết quả sản xuất và đóng góp cho xã hội. Việc tăng kết
quả sản xuất và đóng góp cho xã hội bao gồm các tiêu chí đánh giá: Kết quả
sản xuất và tích lũy của doanh nghiệp ngày càng tăng; gia tăng thu nhập cho
chủ sở hữu doanh nghiệp và người lao động; gia tăng phần đóng góp của các
doanh nghiệp đối với nhà nuớc, doanh nghiệp có cơ hội cùng với Nhà nước,
địa phương thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển doanh nghiệp công
nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Thành phố Hà Nội chịu tác động
của rất nhiều nhân tố, nhóm nhân tố trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, qua
thực trạng phát triển và nghiên cứu thực tế của một số công trình, có thể nhận
thấy những nhân tố cơ bản sau:
Một là, Nhân tố vốn kinh doanh
23
Được coi là mạch máu trong các hoạt động của doanh nghiệp, vốn là
một trong những nhân tố có tác động rất lớn và thường xuyên đến hoạt động
của doanh nghiệp. Thông thường doanh nghiệp phải tiến hành vay vốn từ các
tổ chức tài chính tín dụng phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình bao gồm cả vốn cho tài sản cố định và vốn lưu động. Liên quan đến
nhân tố vốn là vấn đề tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp với các tổ chức
tín dụng (nguồn chính thức), hay các nguồn hỗ trợ từ Chính phủ cũng như
các tổ chức tài trợ khác . Vì vậy các thủ tục liên quan đến vay vốn hoặc xin hỗ
trợ : hồ sơ, thế chấp, bảo lãnh tín dụng...là những hoạt động có ảnh hưởng đến
việc tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Hà Nội
hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó khả năng tiếp cận
vốn vay rất khó khăn: Chính phủ đã triển khai các chính sách, chương
trình hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như bảo lãnh tín dụng
và hỗ trợ tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế mới có một số lượng nhỏ các
doanh nghiệp đã được thụ hưởng chính sách hỗ trợ này. Nguồn vốn bổ
sung của doanh nghiệp chủ yếu từ nguồn vốn vay ngân hàng nhưng hơn
3/4 số doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết gặp nhiều khó khăn khi vay
vốn ngân hàng. Cuộc khảo sát 100 doanh nghiệp tại Hà Nội cho thấy,
có tới 94% doanh nghiệp trả lời là không vay được vốn, trong khi chỉ
có 6% doanh nghiệp được phỏng vấn cho rằng có khả năng vay được
vốn. Tài sản đảm bảo và thủ tục, quy trình vay vốn, giải ngân, thanh
toán là những nguyên nhân chính hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn
tín dụng ngân hàng.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp công nghiệp tư
nhân thiếu kế hoạch phát triển kinh doanh thuyết phục, và nhà cung cấp tài
chính thường đưa ra các lý do để không cho các doanh nghiệp công nghiệp
tư nhân vay vốn như: Rủi ro cao, thiếu tài sản thế chấp, đa số doanh nghiệp
24
thiếu chứng từ kế toán cần thiết mà nhà cung cấp tài chính luôn mong muốn ở
người đi vay có năng lực. Các khó khăn tiếp cận tài chính là một trở ngại đối
với tăng trưởng đầu tư, sản xuất và việc làm. Các doanh nghiệp công nghiệp
tư nhân ở đây đặc biệt bất lợi trong tiếp cận tài chính do chính sách hạn chế
sự linh hoạt của tổ chức tín dụng trong việc định giá rủi ro khi đưa ra mức lãi
xuất. Thiếu cơ hội huy động vốn cổ phần cũng là một trở ngại lớn đối với
tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở thành phố
Hà Nội hiện nay.
Hai là, Nhân tố trình độ về công nghệ, kỹ thuật của doanh nghiệp
Công nghệ kỹ thuật là một yếu tố cơ bản bảo đảm quá trình phát triển và
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách vững
chắc. Công nghệ, kỹ thuật quyết định đến chất lượng sản phẩm, năng suất lao
động, chi phí sản xuất… của doanh nghiệp; do đó việc ứng dụng và làm chủ
được kỹ thuật, công nghệ là một đòi hỏi tất yếu để phát triển và nâng cao kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở thành phố Hà Nội trình
độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu: Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
ở Thành phố Hà Nội được trang bị máy móc thiết bị có nguồn gốc từ nhiều nước
khác nhau như: Trung Quốc, Liên xô cũ, Đông Âu, Hàn Quốc, Đài Loan…thuộc
các thế hệ khác nhau và lạc hậu so với thế giới 10-20 năm. Trình độ công nghệ
lạc hậu làm cho hao phí nguyên, nhiên, vật liệu tăng 1,5 lần so với thế giới, năng
suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp đã hạn chế năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân.
Ba là, Nguồn nhân lực và khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp
Nhân lực, đặc biệt là khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp luôn được
xem là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên thành công hay thất bại của doanh
nghiệp; nếu một doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, cơ sở hạ tầng vững chắc
nhưng thiếu lực lượng lao động, nhất là khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp
thì khó có thể tồn tại. Có thể nói chính con người tạo ra sự khác biệt giữa các
25
doanh nghiệp; con người là yếu tố đầu vào quan trọng bậc nhất của quy trình
sản xuất kinh doanh, quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh. Ngày nay, sự
tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, tính hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng, tính chính xác, khoa học, kịp thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh
ngày càng cao; doanh nghiệp đứng vững và phát triển, làm chủ được khoa học,
kỹ thuật, công nghệ hiện đại thì nguồn nhân lực có trình độ, tay nghề và kỷ luật
cao là một yếu tố vô cùng quan trọng. Do vậy, doanh nghiệp phải luôn nắm bắt
sự biến đổi của kỹ thuật, công nghệ để có chiến lược đào tạo, tuyển dụng lực
lượng lao động phù hợp cho từng giai đoạn.
So với doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trên địa bàn cả nước, thì
nguồn nhân lực của các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trên địa bàn Hà
Nội được đánh giá là cao hơn. Trong đó, tỷ lệ chủ doanh nghiệp có trình độ
trên đại học cao hơn hẳn so với đánh giá chung của doanh nghiệp tư nhân trên
địa bàn cả nước (6% so với 1.34% tính trung bình chung của cả nước). Tuy
nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân
ở thành phố Hà Nội nói chung vẫn ở trình độ thấp. Nguyên nhân dẫn đến chất
lượng lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tư nhân thấp chủ yếu là do
quy mô nhỏ nên nguồn vốn đầu tư để đào tạo chuyên môn cho người lao động
còn thấp. Hầu hết doanh nghiệp công nghiệp tư nhân không đủ kinh phí để
đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Thêm vào đó,
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân còn hạn chế nhiều mặt từ môi trường làm
việc, các chế độ chính sách, phương thức quản lý nên khó thu hút được nguồn
nhân lực chất lượng cao vào làm việc. Việc thực hiện chưa đầy đủ các chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất
lượng công việc trong khu vực doanh nghiệp công nghiệp tư nhân, do vậy các
doanh nghiệp công nghiệp tư nhân càng rơi vào vị thế bất lợi.
Về khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp cũng là một điều đáng lo
ngại vì đội ngũ chủ doanh nghiệp công nghiệp tư nhân ở Hà Nội cũng mới
26