DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Công ty cổ phần
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng
Giá trị sản xuất
Giá trị tăng thêm
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao
Hợp đồng xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
Hệ số gia tăng vốn - sản lượng
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Nghị định - Chính phủ
Phát triển công nghiệp
Tổ chức Thương mại thế giới
Tổng sản phẩm quốc nội
Trách nhiệm hữu hạn
Thu nhập doanh nghiệp
Thu nhập cá nhân
Tiểu thủ công nghiệp
Ủy ban nhân dân
Liên Hợp Quốc
Tổng sản phẩm quốc nội
Sản xuất công nghiệp
Hệ thống thông tin di động toàn cầu
Đa truy nhập phân chia theo mã
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Chữ viết tắt
CTCP
CNH-HĐH
CN, TTCN-XD
GO
VA
BT
BOT
BTO
BOO
ICOR
KCN
KT-XH
NĐ – CP
PTCN
WTO
GDP
TNHH
TNDN
TNCN
TTCN
UBND
LHQ
GDP
SXCN
GSM
CDMA
AFTA
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
Trang
3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
1.1
CÔNG NGHIỆP Ở ĐỊA PHƯƠNG
Những vấn đề lý luận chung, tiêu chí đánh giá và các
1.2
nhân tố tác động đến phát triển công nghiệp
Kinh nghiệm phát triển công nghiệp ở một số địa
phương và bài học rút ra cho quận Dương Kinh, thành
Chương 2
10
25
phố Hải Phòng
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
QUẬN
DƯƠNG
KINH,
THÀNH
PHỐ
HẢI
2.1
PHÒNG THỜI GIAN QUA
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát
2.2
triển công nghiệp quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về
phát triển công nghiệp quận Dương Kinh, thành phố
Chương 3
10
32
32
48
Hải Phòng giai đoạn 2008-2014
ĐỊNH HƯỚNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP QUẬN DƯƠNG KINH, THÀNH
3.1
PHỐ HẢI PHÒNG THỜI GIAN TỚI
Định hướng phát triển công nghiệp quận Dương Kinh,
3.2
thành phố Hải Phòng đến năm 2020
Giải pháp phát triển công nghiệp của quận Dương Kinh
thành phố Hải Phòng đến năm 2020
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
73
73
79
89
90
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nghị quyết 32/NQ-TW ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị về xây dựng
và phát triển thành phố Hải phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
một mặt xác định vị trí vai trò của thành phố trong sự phát triển chung của
đất nước; mặt khác chỉ đạo tập trung xây dựng và phát triển thành phố trở
thành trung tâm công nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục,
y tế của vùng duyên hải Bắc bộ vào năm 2020. Quận Dương Kinh được
Thành ủy Hải Phòng xác định là trọng điểm phát triển kinh tế và đô thị phía
Đông Nam của thành phố trong tương lai gần đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030. Là một quận mới được tách và thành lập vào cuối năm 2007, sự
phát triển kinh tế - xã hội của quận trong những năm đầu mới thành lập nổi
lên khá rõ đó là, tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng
công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể,
đặc biệt Dương Kinh là khu vực trọng điểm thu hút đầu tư công nghiệp, dịch
vụ của thành phố Hải Phòng. Quận nằm ở vị trí đầu mối kết nối giao thông
đối ngoại đi và đến thành phố Hải Phòng, gần cảng hàng không sân bay Cát
Bi, cảng biển Đình Vũ, Lạch Huyện, đầu mối để kết nối với đường bộ cao tốc
Hà Nội - Hải Phòng. Với các lợi thế về quỹ đất nông nghiệp có thể chuyển
đổi mục đích sang thu hút đầu tư công nghiệp, dịch vụ, xây dựng mở rộng các
khu đô thị mới. Khu vực thu hút đầu tư được quy hoạch dọc theo trục đường
353 Hải Phòng - Đồ Sơn và đường 355 từ quận Dương Kinh đi quận Kiến An
có 50 doanh nghiệp quy mô tương đối lớn với diện tích hơn 219,46 ha. Tính
đến cuối năm 2014, trên địa bàn quận có trên 300 doanh nghiệp, công ty
TNHH, CTCP thuộc nhiều ngành như dệt may, giày da, cơ khí xây dựng, chế
biến thủy sản, đồ chơi trẻ em, giấy, văn phòng phẩm, bao bì nhựa... thuê đất
đầu tư với diện tích hơn 500 ha. Do đó, phát triển kinh tế nói chung cũng như
3
phát triển công nghiệp nói riêng luôn được cấp ủy đảng và chính quyền địa
phương quan tâm. Trong những năm qua, mặc dù bị ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế toàn cầu song công nghiệp của quận luôn đóng vai trò là ngành chủ
lực trong phát triển kinh tế - xã hội của quận với cơ cấu luôn chiếm trên 60%,
quy mô và tốc độ tăng trưởng thu hút đầu tư công nghiệp trên địa bàn đã đạt
và vượt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, sản xuất công nghiệp - xây dựng tiếp tục
phát triển khá do có sự cải thiện về môi trường đầu tư và khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế xã hội, nhiều sản phẩm công nghiệp có sức tiêu
thụ khá tại thị trường trong nước và xuất khẩu góp phần tích cực chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trên địa bàn Quận. Các dự án đầu tư công nghiệp đã thu hút
hơn mười nghìn lao động, thuộc quận Dương Kinh và các quận, huyện khác
trong thành phố Hải Phòng. Giải quyết việc làm và thu nhập khá ổn định cho
một bộ phận không nhỏ dân cư sinh sống trên địa bàn quận tích cực giải
phóng năng lực lao động xã hội, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác phát triển,
góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp của quận có trọng tâm, vững chắc,
từng bước hiện đại, tạo ra những bước đột phá phù hợp với bối cảnh phát triển
chung của thành phố và đất nước, đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ về thực
trạng công nghiệp để có cái nhìn tổng quát, từ đó đưa ra được định hướng và
giải pháp cho sự phát triển bền vững công nghiệp của quận. Với lý do đó,
chọn đề tài: “Phát triển công nghiệp tại quận Dương Kinh, thành phố Hải
Phòng” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển công nghiệp không phải là một đề tài mới mẻ, đã có rất nhiều
những đề tài, công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
- Đề tài “Xây dựng lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
Đồng Nai đến năm 2020” của tập thể tác giả PGS.TS Ngô Quang Minh, TS
Phạm Văn Sáng, TS Nguyễn Hữu Thắng, TS Đặng Ngọc Lợi (đồng chủ biên)
(2005), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Đề tài đã làm rõ ý luận cơ bản về
4
chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương trong quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phân tích làm rõ quan hệ tác động của các
chính sách phát triển công nghiệp từ phát triển công nghiệp quy mô lớn, hiện
đại tới công nghiệp truyền thống, công nghiệp nông thôn. Bên cạnh đó, đề tài
còn đánh giá vai trò của chính quyền địa phương trong quá trình quy hoạch,
thực thi, nhằm đưa ra các quan điểm, phương hướng và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp của tỉnh.
- Đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế - xã
hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một số khu vực
trọng điểm” do PGS.TS Ngô Doãn Vịnh làm chủ nhiệm năm 2012, đã đề cập
đến vấn đề về lý thuyết cũng như cơ sở khoa học của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội khu vực ven biển nước ta đồng thời nghiên cứu đề xuất một số mô
hình phát triển phù hợp đối với từng khu vực trọng điểm.
- Đề tài cấp Nhà nước “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay” do TS. Lưu
Đức Hải làm chủ nhiệm, năm 2013. Đề tài đề cập tới nhiều vấn đề về lý
thuyết và thực tiễn của nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay cũng như những
yêu cầu của nền kinh tế đang từng bước chuyển đổi từ nông nghiệp sang công
nghiệp, đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao từ đó đưa ra giải
phát hợp lý nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từng bước đáp ứng nhu
cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay.
- Đề tài cấp Bộ “Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam từ các nước công nghiệp mới châu Á”
do TS Phạm Thanh Hiển làm chủ nhiệm năm 2011, đã đề cập tới vấn đề về lý
thuyết, hệ thống chỉ tiêu cũng như phương pháp đánh giá chất lượng nguồn
nhân lực được rút ra từ kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới ở châu Á.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở đồng bằng sông Hồng” do TS
Đặng Lễ Nghi làm chủ nhiệm năm 1998. Đề tài đã đưa ra lý thuyết về phát
5
triển thủ công nghiệp theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực
trạng của phát triển thủ công nghiệp tại đồng bằng sông Hồng từ đó đưa ra
giải pháp của sự phát triển định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại đồng
bằng sông Hồng.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hữu Lục “Phát triển tiểu thủ
công nghiệp trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở đô thị
Việt Nam hiện nay” năm 1996. Đã đề cập tới lý thuyết về phát triển thủ
công nghiệp trong kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, những thuận lợi, khó
khăn đặt ra cũng như giải pháp trong phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Minh Phương “Phát triển kết cấu hạ
tầng giao thông đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”
đề cập đến vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là điều kiện cũng như
yêu cầu để có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Long “Vai trò của thương mại
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” năm 2004. Đề cập tới lý thuyết giữa thương mại và phát
triển kinh tế, từ đó làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của thương mại
đối với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập nền kinh tế
toàn cầu.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Công Toàn “Công nghiệp với sự
phát triển của tỉnh Long An” năm 2007. Đề cập tới lý thuyết phát triển công
nghiệp cũng như tầm quan trọng của công nghiệp đối với sự phát triển của
nền kinh tế của tỉnh. Đồng thời phân tích những mặt được và chưa được của
quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh.
6
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Hoa “Vai trò của khoa học
công nghệ đối với sự phát triển công nghiệp Việt Nam” năm 2007. Luận văn
chỉ ra tầm quan trọng của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của công
nghiệp trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, từ đó khẳng định vai trò
nền tảng và không thể thay thế của khoa học công nghệ đối với sự phát triển
công nghiệp của mỗi quốc gia.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Đình Phong “Giải pháp phát triển
công nghiệp Việt Nam trong thời kì sau gia nhập WTO - Bài học từ Trung
Quốc” năm 2010. Đề cập tới sự đổi thay trong phát triển kinh tế đất nước, tác
động của WTO tới phát triển công nghiệp của Việt Nam và những bài học rút
ra từ sự phát triển công nghiệp của Trung Quốc.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Đức Nam “Mô hình công nghiệp
hóa của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” năm
2009. Đề cập tới những cơ sở của công nghiệp hóa, tác dụng cũng như những
thế mạnh mà công nghiệp hóa tạo ra được vận dụng ở các quốc gia khác nhau
từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của LHQ về phát triển bền
vững RIO + 20 của Thủ tướng Chính phủ tại Hà Nội tháng 5 năm 2012
“Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam” đã đánh giá toàn cảnh 20 năm
thực hiện PTBV ở Việt Nam, trong đó đề cập đến việc xây dựng và hoàn
thiện các thể chế, cơ chế, chính sách nhằm thực hiện phát triển bền vững, định
hướng chiến lược phát triển của Việt Nam và định hướng chiến lược phát
triển bền vững của ngành và các địa phương.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Đức Sơn “Chính sách công nghiệp
của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế hiện nay” năm 2013. Đề cập
tới những vấn đề lý luận của chính sách công nghiệp, thực trạng của chính
sách công nghiệp Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện chính sách công
nghiệp Việt Nam.
7
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Lý Thế Dương “Đầu tư phát triển tại các
khu công nghiệp khu vực phía Bắc: Thực trạng và giải pháp” năm 2013. Đề
cập đến lý thuyết phát triển đầu tư, cho ta thấy thực trạng đầu tư phát triển tại
khu công nghiệp khu vực phía Bắc và một số giải pháp nhằm tăng cường đầu
tư phát triển tại các khu công nghiệp khu vực phía Bắc.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp
chí, báo, các bài tham luận tại các hội thảo quốc tế và trong nước đề cập đến
sự phát triển của công nghiệp.
Mỗi đề tài, công trình nghiên cứu đều đem đến một kết quả, cũng như một
lời gửi gắm của chính tác giả. Chính vì vậy mà qua đề tài này thì tôi hy vọng có
thể góp một phần nhỏ của mình vào việc định hướng cũng như giải quyết vấn đề
phát triển công nghiệp của quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển công nghiệp ở địa phương, từ đó nêu ra định hướng và giải pháp phát triển
công nghiệp ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích rõ những vấn đề lý luận như: quan niệm, nội dung, tiêu chí,
các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp ở địa phương;
- Khảo sát kinh nghiệm phát triển công nghiệp ở một số địa phương
trong nước rút ra bài học cho quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng;
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân của
phát triển công nghiệp ở quận Dương Kinh trong thời gian qua;
- Đưa ra định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp
ở quận Dương Kinh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển công nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu sự phát triển công nghiệp của 1 quận thuộc
thành phố Hải Phòng dưới góc nhìn của Kinh tế chính trị.
- Về không gian: Quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
- Về thời gian: Từ khi thành lập quận năm 2007 đến nay.
5. Phương pháp luận và nghiên cứu của đề tài
8
* Phương pháp luận: Luận văn dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của Kinh tế chính trị như: Phương pháp trừu tượng hóa khoa học; phương
pháp hệ thống; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quan sát
thống kê; phương pháp sử dụng chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Qua luận văn có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong
nghiên cứu lý thuyết về phát triển công nghiệp. Góp phần cung cấp cơ sở lý
luận cho việc định hướng, xác định các biện pháp phù hợp trong phát triển
công nghiệp ở một địa phương.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy,
chính quyền quận Dương Kinh trong hoạch định kế hoạch phát triển công
nghiệp trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
Ở ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Những vấn đề lý luận chung, tiêu chí đánh giá và các nhân tố
tác động đến phát triển công nghiệp
9
Trong hệ thống kinh tế quốc dân, công nghiệp là một ngành kinh tế
thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất. Công nghiệp có phạm vi hoạt động hết sức
rộng, bao gồm từ việc khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên (công nghiệp
khai thác) đến việc chế biến các loại khoáng sản và nông, lâm, thủy sản (công
nghiệp chế biến). Công nghiệp sản xuất tất cả các loại tư liệu lao động (máy
móc, thiết bị, dụng cụ), nhiều loại đối tượng lao động (nguyên, nhiên vật liệu,
năng lượng) và sản phẩm tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu của sản xuất và đời
sống. Công nghiệp còn thực hiện việc sửa chữa một số loại tư liệu sản xuất và
vật phẩm tiêu dùng (dịch vụ mang tính chất công nghiệp).
Sự ra đời và phát triển công nghiệp gắn liền với sự phát triển của tiến
bộ kỹ thuật và phân công lao động xã hội. Trong thời kỳ đầu của xã hội loài
người, đã có một số hoạt động mang tính chất công nghiệp sản xuất các loại
sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất (công cụ sản xuất), đời sống (vật phẩm
tiêu dùng) và chiến đấu (vũ khí). Những loại hoạt động sản xuất này tồn tại
trong khuôn khổ nền kinh tế tự cấp với trình độ hết sức thấp kém: sản phẩm
sản xuất ra không phải là hàng hóa, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của chính
người sản xuất và công đồng của họ. Đến phân công lao động lớn lần thứ hai,
một số người sản xuất được chuyên môn hóa vào các hoạt động sản xuất
mang tính chất công nghiệp và trở thành những người thợ thủ công chuyên
nghiệp. Sản phẩm của họ là hàng hóa-sản xuất để trao đổi mua bán trên thị
trường. Đó là hình thức sơ khai, manh nha đầu tiên của nền đại công nghiệp
hiện đại ngày nay. Với các nước tư bản đi đầu thực hiện công nghiệp hóa (vào
thế kỷ 17-18), nền công nghiệp lớn hiện đại ngày nay của họ được phát triển
qua 3 giai đoạn: Hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp
cơ khí. Các giai đoạn này phát triển của công nghiệp không chỉ khác nhau về
trình độ khai thác lợi thế, trình độ phát triển sản xuất hàng hóa mà còn ở trình
độ quản lý.
10
Ngày nay, công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất lớn nhất
của xã hội và có cơ cấu hết sức phức tạp. Dựa vào những tiêu trí khác nhau,
người ta chia nền công nghiệp thành những bộ phận khác nhau. Dưới đây là
một số phân chia phổ biến thường gặp trong thực tế:
- Căn cứ vào tính chất tác động đến đối tượng lao động, công nghiệp
được chia thành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. Sự phân chia
này được sử dụng dể kế hoạch hóa quan hệ cân đối giữa công nghiệp khai
thác tài nguyên và công nghiệp chế biến các loại tài nguyên ấy. Trong giai
đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển, sản phẩm
của công nghiệp khai thác tạo nguồn hàng xuất khẩu quan trọng để thu ngoại
tệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Căn cứ vào công dụng kinh tế của sản phẩm, công nghiệp được chia
thành nhóm A và nhóm B. Nhóm A bao gồm các sản phẩm là tư liệu sản xuất;
nhóm B bao gồm các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng. Theo quy luật của tái sản
xuất mở rộng và xem xét trên góc độ toàn xã hội, nhóm A thường có tốc độ
phát triển nhanh hơn nhóm B. Nhưng trong phạm vi từng nước, trong những
giai đoạn nhất định, nhóm B có thể có tốc độ phát triển nhanh hơn nhóm A.
- Căn cứ vào sự tương đồng về những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, công
nghiệp được chia thành các ngành kinh tế - kỹ thuật (còn gọi là ngành công
nghiệp chuyên môn hóa). Mỗi ngành kinh tế - kỹ thuật đó được phân chia
thành những phân ngành hẹp. Trong phân tổ thống kê, công nghiệp là ngành
cấp I, các ngành kinh tế - kỹ thuật cấu thành công nghiệp là ngành cấp II, các
phân ngành hẹp trong mỗi ngành cấp II đó là các ngành cấp III. Số lượng các
ngành kinh tế đó và tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp được gọi là cơ cấu
ngành công nghiệp. Kế hoạch hóa cơ cấu ngành công nghiệp là nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng của công tác quản lý công nghiệp.
- Căn cứ vào trình độ trang bị kỹ thuật, công nghiệp được chia thành
công nghiệp hiện đại và thủ công nghiệp. Cách phân chia này cho phép thấy
11
được trình độ phát triển công nghiệp và nhiệm vụ đổi mới nâng cao trình độ
kỹ thuật của sản xuất công nghiệp. Tuy thủ công nghiệp có trình độ trang bị
kỹ thuật thấp và do đó, năng xuất lao động thấp, nhưng lại có vai trò quan
trọng trong việc thu hút lao động và cung cấp hàng hóa đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu.
- Căn cứ vào quan hệ sở hữu của các doanh nghiệp, công nghiệp được
chia thành công nghiệp quốc doanh (Nhà nước), công nghiệp ngoài quốc
doanh và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong quá trình đổi mới
kinh tế ở nước ta, đã hình thành cơ cấu công nghiệp nhiều thành phần, các
thành phần kinh tế đó tạo thành những trụ cột của nề công nghiệp và nền kinh
tế quốc dân.
Mỗi cách phân loại nêu trên có tác dụng riêng trong công tác quản lý
công nghiệp và chúng thường được sử dụng đồng thời trong quản lý nhằm
những mục tiêu cụ thể riêng.
1.1.1.Khái niệm phát triển công nghiệp
Công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, lĩnh vực sản xuất hàng hóa
vật chất mà sản phẩm được “chế tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục
vụ sản xuất kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn,
được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật.
Công nghiệp gồm ba loại hoạt động chủ yếu là khai thác nguồn nguyên liệu
nguyên thủy (khoáng sản, động thực vật); sản xuất và chế biến sản phẩm của công
nghiệp khai thác và sản phẩm của nông nghiệp; các ngành sữa chữa, khôi phục giá
trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và sinh hoạt.
Công nghiệp là một bộ phận hợp thành nên nền kinh tế, do đó khái
niệm về phát triển công nghiệp cũng được đưa ra dựa trên khái niệm phát
triển kinh tế. Phát triển công nghiệp là một quá trình biến đổi cả về mặt lượng
và mặt chất của ngành công nghiệp. Sự biến đổi về lượng thể hiện ở sự gia
12
tăng về quy mô và giá trị sản xuất đóng góp của ngành công nghiệp vào GDP.
Sự biến đổi về chất của ngành công nghiệp thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nội tại của ngành công nghiệp cũng như những tác động của sự phát
triển công nghiệp đến xã hội.
Qua khái niệm ở trên có thể thấy rằng phát triển công nghiệp là một
quá trình tăng tiến toàn diện về mọi mặt, mọi lĩnh vực trong ngành công
nghiệp của một quốc gia, vùng lãnh thổ hay một địa phương. Quá trình phát
triển này bao hàm các nội dung cơ bản sau:
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của phát triển công nghiệp: quy mô tăng
trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít của quá trình phát triển công nghiệp,
còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản
ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp: nội dung này được thể
hiện ở sự thay đổi về quy mô, tỷ trọng các bộ phận cấu thành nên ngành công
nghiệp; vị trí và tác động qua lại giữa các bộ phận này với nhau trong quá
trình phát triển công nghiệp.
Kết quả phát triển công nghiệp: hay ở đây áp dụng cụ thể cho một địa
phương chính là kết quả sản xuất công nghiệp. Nội dung này xét đến mặt biểu
hiện, sự hiện hữu nổi bật của quá trình phát triển công nghiệp, sự kết hợp giữa
những thay đổi về chất và lượng của hai nội dung nói trên dẫn đến sự hình
thành các khu vực trọng tâm tiêu biểu cho sự phát triển công nghiệp của cả
vùng, địa phương. Đó chính là các khu vực, vùng trọng điểm như khu công
nghiệp, khu chế xuất tận dụng được những lợi thế so sánh của địa phương,
qua đó hình thành nên các sản phẩm chủ lực, mũi nhọn cho địa phương.
Tác động của sự phát triển công nghiệp tới xã hội: phát triển công nghiệp
nói riêng cũng như phát triển kinh tế nói chung luôn có sự phát triển song hành
của các lĩnh vực xã hội và mục tiêu phát triển của mọi quá trình phát triển suy cho
cùng vẫn phải hướng tới con người. Vì vậy nâng cao trình độ phát triển nguồn
nhân lực trong phát triển công nghiệp và thông qua phát triển công nghiệp thực
13
hiện quá trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cũng như giảm bất bình
đẳng xã hội là những mục tiêu sâu xa cần vươn tới của quá trình phát triển này, tác
động của sự phát triển công nghiệp tới xã hội - là một nội dung đòi hỏi phải có
quá trình nghiên cứu sâu để phản ánh được sự tác động không chỉ biểu hiện qua
tiêu thức số lượng mà cần kết hợp chung của nhiều tiêu thức số lượng. Do đó,
trong quá trình nghiên cứu của tôi chỉ đề cập chủ yếu đến ba nội dung cơ bản là
quy mô và tốc độ tăng trưởng của phát triển công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành công nghiệp và kết quả phát triển công nghiệp.
Trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp được coi là ngành chủ
đạo của nền kinh tế thông qua việc tạo ra thu nhập cho đất nước cũng như địa
phương, cung cấp hàng hóa trung gian cho các quá trình sản xuất cũng như
cung cấp hàng hóa tiêu dùng cuối cùng cho nền kinh tế, tạo ra nguồn thu từ
xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Công nghiệp được đánh giá là
ngành chủ đạo của nền kinh tế, do đó phát triển công nghiệp là rất cần thiết
đối với mỗi địa phương, sự cần thiết này thể hiện ở:
- Công nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển của địa phương;
- Công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và dịch vụ phát triển theo hướng CNH - HĐH;
- Công nghiệp quyết định sự thành công của quá trình CNH - HĐH;
- Phát triển công nghiệp cũng là góp phần phát triển lực lượng sản xuất.
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá phát triển công nghiệp
Để có thể biết được kết quả thực hiện, sự phát triển của một quá trình
đang đến đâu, ở mức độ nào thì luôn cần phải có những tiêu chí, chỉ tiêu để có
thể đánh giá quá trình đó. Phát triển công nghiệp cũng vậy, để đánh giá được
về quy mô, cơ cấu cũng như chất lượng, kết quả của quá trình phát triển công
nghiệp, ta có thể sử dụng nhiều tiêu chí khác nhau. Dưới đây là những chỉ tiêu
hay dùng để đánh giá sự phát triển công nghiệp:
* Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp
14
Phát triển công nghiệp là sự gia tăng cả về số lượng cũng như chất
lượng của quá trình sản xuất công nghiệp. Do đó, để xem xét quy mô và tốc
độ phát triển của ngành công nghiệp, trước hết có thể thông qua hai chỉ tiêu
đánh giá về mặt lượng của phát triển công nghiệp, đó là: giá trị sản xuất và
tốc độ tăng trưởng của GO qua các năm. Giá trị sản xuất của ngành công
nghiệp phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử
dụng có ý nghĩa tương đối về phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các
thời kỳ và các khu vực với nhau. Sự gia tăng về lượng của ngành có thể được
biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị, và có thể xem xét qua các chỉ tiêu
về giá trị gia tăng hay tổng giá trị sản xuất ngành tạo ra trong một thời gian
nhất định.
Ngày nay, yêu cầu của sự tăng trưởng trong ngành công nghiệp cũng
như của nền kinh tế được gắn liền với tăng trưởng bền vững hay việc đảm
bảo chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được
nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả cả về chỉ tiêu quy
mô và tốc độ phát triển. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên bởi
nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học - kỹ thuật, vốn, nhân lực trong
một cơ cấu công nghiệp hợp lý. Đối với các khu vực, các nước có nền công
nghiệp kém phát triển thì tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đạt ở
mức cao, tuy nhiên quy mô của ngành lại thấp hơn rất nhiều so với khu vực,
nước có nền công nghiệp phát triển. Đồng thời, sự phát triển này lại mang
tính không bền vững, đôi khi lại phát triển quá nóng, thể hiện chất lượng
phát triển còn hạn chế.
* Sự hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất
Công nghiệp là ngành có thể tận dụng tốt lợi thế so sánh của địa
phương, đất nước để phát triển với quy mô lớn và hiện đại nhờ áp dụng được
công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Do đó tất yếu của quá
trình phát triển công nghiệp là sự hình thành nên các khu, cụm, điểm công
15
nghiệp, khu chế xuất tập trung, đây cũng chính là một trong những biểu hiện
cụ thể cho kết quả sản xuất của quá trình sản xuất công nghiệp.
Khu công nghiệp là nơi có vị trí thuận lợi cho việc sản xuất, thương
mại, đầu tư trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý,
môi trường đầu tư..., với đặc trưng của mô hình sản xuất quy mô lớn, mức độ
tập trung và trình độ chuyên môn cao nên có năng suất lao động cao và hiệu
quả, là đầu tàu, mũi nhọn cho sự phát triển công nghiệp của địa phương. Vì
vậy mà số lượng, quy mô, mức độ, hiệu quả hoạt động của các KCN là tiêu
chí để đánh giá kết quả sản xuất công nghiệp của địa phương.
* Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp chủ lực
Sự hình thành các sản phẩm chủ lực là kết quả của quá trình sản xuất
công nghiệp của địa phương. Các sản phẩm này số lượng nhiều hay ít, đa
dạng về mẫu mã, chủng loại hay không, chất lượng như thế nào chính là tiêu
thức phản ánh kết quả của sản xuất công nghiệp. Đây là tiêu chí đánh giá khả
năng đáp ứng nhu cầu trên thị trường cũng như chất lượng và khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm trên thị trường đối với các sản phẩm của khu vực khác.
Năng lực cạnh tranh hay chất lượng của các sản phẩm chủ lực đến đâu
được biểu hiện qua quá trình nhập khẩu các nguyên vật liệu để sản xuất ra sản
phẩm chủ lực cũng như quá trình xuất khẩu mặt hàng này ra khỏi hay địa
phương và quốc tế. Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để
trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình
chung trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ sản xuất và
xuất khẩu hàng sơ chế sang các hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các loại
sản phẩm công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp
ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản... chuyển dần sang các
loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao như sản phẩm cơ khí chế
tạo, hóa chất, điện tử... Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
công nghiệp từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến
dựa trên cơ sở công nghệ kỹ thuật cao luôn được cho là một trong những
16
thước đo rất quan trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình phát triển
công nghiệp.
Đối với những nước chậm phát triển, những chỉ số tiêu chuẩn kỹ thuật
quốc gia thấp hơn chỉ tiêu kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu sản phẩm xuất khẩu là
một tiêu chí tốt để bổ sung đánh giá kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Chuyển dịch cơ cấu nội tại ngành công nghiệp
Trong quá trình phát triển của công nghiệp, cơ cấu giá trị gia tăng giữa
các bộ phận cấu thành nên ngành công nghiệp là một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của công
nghiệp hóa. Sự chuyển dịch cơ cấu nội tại của ngành công nghiệp theo các
phân ngành kinh tế cấp I và cấp II là tiêu chí thể hiện chất lượng của quá trình
phát triển ngành công nghiệp. Đặc biệt là việc phân tích cơ cấu các phân
ngành trong ngành công nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá sát
thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Thông thường cơ cấu phân ngành phản ảnh sát hơn khía cạnh
chất lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, những ngành công
nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại
như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược phẩm, hóa mỹ phẩm... chiếm tỷ
trọng cao chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao
hơn so với những ngành công nghiệp khai khoáng, sơ chế nông sản, công
nghiệp lắp ráp...
Ngoài ra một số chỉ tiêu kinh tế khác cũng thường được sử dụng là cơ cấu
giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế, chỉ tiêu này phản ánh giá trị
hàng năm được sản xuất ra thuộc sở hữu của khu vực kinh tế nào, Nhà nước, khu
vực tư nhân hay khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ tiêu này cho thấy được
mức độ tham gia đầu tư cho phát triển công nghiệp của các thành phần kinh tế.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến phát triển công nghiệp
* Nhân tố tự nhiên
17
- Vị trí địa lý
Nhân tố này là các điều kiện về vị trí, phân bố địa lý của một địa
phương đối với các địa phương hay vùng lãnh thổ khác. Nhân tố này là cơ sở
ban đầu ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, vùng nguyên liệu cho
phát triển công nghiệp. Các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, gần
các trục đường giao thông, bến cảng, nhà ga, sân bay, sự hấp dẫn về thị
trường các yếu tố đầu vào (nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực) và thị trường
tiêu thụ đầu ra ... có ảnh hưởng quan trọng cho sự lựa chọn của các nhà đầu tư
khi quyết định đầu tư vào phát triển công nghiệp ở địa phương hay không vì
nếu địa phương có vị trí thuận lợi, đặc biệt về giao thông thì việc giao lưu,
vận chuyển hàng hóa được diễn ra dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí, tăng
lợi nhuận cho nhà đầu tư.
- Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản...) và các điều
kiện tự nhiên cần thiết cho sự phát triển công nghiệp (đất đai, khí hậu...) là
các yếu tố trở thành đối tượng lao động phát triển các ngành công nghiệp khai
thác và chế biến, tạo điều kiện xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp.
Tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng lớn, điều kiện khai thác thuận
lợi cho phép phát triển công nghiệp với một nền tảng vững chắc, là cơ sở để
phát triển công nghiệp dựa vào lợi thế so sánh của các ngành, địa phương hay
quốc gia.
Tài nguyên đất: là nhân tố quan trọng hàng đầu vì nếu với quỹ đất hạn
hẹp thì địa phương đó không thể phát triển công nghiệp với quy mô lớn, hình
thành các khu, cụm, điểm công nghiệp được. Nếu địa phương có quỹ đất chưa
sử dụng lớn thì sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc quy hoạch, xây dựng phát
triển công nghiệp một cách có hệ thống và hiệu quả.
Tài nguyên nước: nước là nhân tố không thể thiếu trong sinh hoạt cũng
như trong sản xuất. Vì vậy, nếu địa phương nào không thuận lợi trong việc
18
cung cấp nước sạch sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp, đặc
biệt là các hoạt động sản xuất ngành chế biến lương thực, thực phẩm.
Tài nguyên khoáng sản: khoáng sản đóng vai trò là nguyên liệu đầu vào
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cho các ngành công nghiệp nặng –
những ngành đóng vai trò định hướng cho phát triển công nghiệp ở nước ta.
Nếu một địa phương có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú thì sẽ không
chỉ phát triển mạnh được ngành công nghiệp khai khoáng mà còn giúp cung
cấp nguồn nguyên vật liệu giá rẻ cho phát triển ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo nhờ tiết kiệm được chi phí vận chuyển.
* Nhân tố kinh tế - xã hội
- Nguồn nhân lực
Dân số và lao động được coi là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh
tế nói chung và công nghiệp nói riêng. Các yếu tố về chất lượng nguồn nhân
lực như trình độ dân trí, khả năng tiếp thu kỹ thuật của lao động tạo thành cơ
sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Nguồn nhân
lực dồi dào cũng như giá cả rẻ cũng là yếu tố để thu hút phát triển công
nghiệp của địa phương cũng như thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài. Việt Nam là một nước có gần 93 triệu dân (năm 2014) cung cấp một
nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, cơ cấu lao động trẻ, năng động, cần
cù... đây là một lợi thế của nước ta trong quá trình phát triển các ngành, các
lĩnh vực, đặc biệt là ngành công nghiệp thiên về sử dụng nhiều lao động như
dệt may, chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp gia công. Tuy nhiên thì
chất lượng của nguồn nhân lực vẫn luôn là bài toán thách thức đối với không
chỉ các doanh nghiệp mà của cả nền kinh tế, đòi hỏi phải có các chính sách
đúng đắn và kịp thời.
Nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp bao gồm nhân lực quản lý, cán
bộ kỹ thuật và công nhân lao động với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, kỹ
thuật lao động phù hợp, tác phong lao động và ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Nếu địa
phương nào hay quốc gia nào có nguồn lao độngcó chất lượng, trình độ lành nghề,
19
năng lực chuyên môn cao sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ sẽ làm cho hoạt động
sản xuất kinh doanh tốt hơn, bên cạnh đó là tiết kiệm được chi phí để đào tạo.
- Nguồn vốn
Nguồn vốn đầu tư là một yếu tố tác động trực tiếp tới phát triển công
nghiệp, đây còn là đầu vào không thể thiếu được trong quá trình phát triển
công nghiệp cũng như phát triển nền kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển
đều rất thiếu vốn, do đó vấn đề huy động vốn được coi là vấn đề lớn nhất
trong việc huy động các nguồn lực. Chỉ có tạo được nguồn vốn cho phát triển
kinh tế thì mới có thế tiến hành đầu tư, tạo chuyển dịch cơ cấu công nghiệp
nhanh. Giữa hai nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, vốn đầu tư trong nước
được coi là giữ vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài được xác định là
quan trọng để tạo ra sự đột phá cho sự phát triển của ngành công nghiệp cũng
như cho chuyển dịch cơ cấu của ngành.
- Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến phát triển công nghiệp,
nó bao gồm hệ thống giao thông (đường, cầu, bến bãi...), mạng lưới cấp điện,
cấp nước, thông tin liên lạc. Kết cấu hạ tầng được đầu tư và phát triển đồng
bộ sẽ là điều kiện thuận lợi thúc đẩy công nghiệp phát triển. Vì vậy mà việc
xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển công nghiệp là điều kiện cần thiết để
phát triển công nghiệp, đặc biệt là cho việc hình thành các khu, cụm công
nghiệp trọng điểm, khu chế xuất hiện đại. Do đó, kết cấu hạ tầng là một nhân
tố quan trọng ảnh hưởng đến tính hấp dẫn các nhà đầu tư công nghiệp. Nếu
địa phương nào có kết cấu hạ tầng thuận lợi, đồng bộ, hiện đại sẽ thu hút các
nhà đầu tư vì cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng đến nhiều hoạt động sản xuất kinh
doanh của các nhà đầu tư sau này. Nếu địa phương nào kết cấu hạ tầng yếu
kém, thiếu đồng bộ thì khi đầu tư vào, các nhà đầu tư phải bỏ ra chi phí
không nhỏ ra để xây dựng, điều này làm tăng chi phí kinh doanh của doanh
nghiệp. Kết cấu hạ tầng thể hiện ở các khía cạnh sau:
20
Mạng lưới giao thông: phải được xây dựng đạt tiêu chuẩn về bề rộng, chất
lượng mặt đường, phân bố hợp lý... vì nó phục vụ cho nhu cầu đi lại của công
nhân viên, nhu cầu vận chuyển hàng hóa một cách thuận tiện, dễ dàng hơn.
Hệ thống điện, cấp thoát nước: để hoạt động sản xuất của các doanh
nghiệp công nghiệp được diễn ra thuận lợi thì hệ thống điện và cấp thoát nước
phải ổn định, đảm bảo chất lượng, có công suất lớn. Bên cạnh đó là hệ thống
xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn để tránh gây ô nhiễm môi trường.
Hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: đây là một trong những yếu
tố không thể thiếu đối với các doanh nghiệp vì mọi hoạt động của doanh
nghiệp liên quan đến nhu cầu về vốn như mua bán nguyên vật liệu đầu vào,
đầu ra, đầu tư chứng khoán, bất động sản... Nếu chỉ sử dụng nguồn vốn tự có
của doanh nghiệp thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất với quy mô
lớn được, do đó mà cần có sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng để
đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên
cạnh đó thì là hệ thống bảo hiểm cho người lao động, bảo hiểm cho cơ sở vật
chất của các doanh nghiệp cũng rất cần thiết.
Hệ thống các hoạt động dịch vụ khác: nhà ở cho người lao động, quán ăn,
khu vui chơi giải trí, trường học, bệnh viện... cũng rất cần thiết vì hệ thống này
giúp người lao động có thể làm việc, nghỉ ngơi thuận tiện hơn. Các dịch vụ này
phát triển góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
- Nhu cầu thị trường
Các quan hệ cung - cầu, giá cả cũng như dung lượng của thị trường là
những yếu tố tác động trực tiếp tới sự phát triển công nghiệp mỗi quốc gia.
Thị trường tác động trực tiếp tới sự hình thành và phát triển của các ngành
công nghiệp vì đây là những tín hiệu để các doanh nghiệp phân bổ các nguồn
lực vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Hạt nhân cơ bản của nền công
nghiệp là các doanh nghiệp và là những người phân tích và nắm bắt được quy
mô và xu hướng vận động của thị trường khi quyết định đầu tư kinh doanh
một loại sản phẩm nào đó. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, phải
xuất phát từ quan hệ cung cầu hàng hóa và các hoạt động dịch vụ của thị
21
trường để từ đó hoạch định chiến lược kinh doanh cho riêng mình. Thị trường
tác động vào đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp và làm biến đổi nhiệm vụ
kinh doanh của doanh nghiệp, tổng hợp lại tạo thành sự chuyển dịch cơ cấu
công nghiệp của đất nước.
Thói quen tiêu dùng cũng là nhân tố quan trọng mà các nhà kinh doanh
cần quan tâm khi quyết định đầu tư và lựa chọn sản phẩm để đưa ra thị
trường. Tính ưa thích theo thói quen tiêu dùng loại sản phẩm nào đó đòi hỏi
các nhà đầu tư phải nghiên cứu đề tìm cách đáp ứng và vì thế thỏa mãn thói
quen tiêu dùng của khách hàng đã trở thành một chỉ tiêu tác động vào chuyển
dịch cơ cấu công nghiệp. Bên cạnh thị trường hàng hóa thì sự phát triển của
công nghệ còn chịu sự tác động của thị trường lao động, thị trường vốn – tài
chính, thị trường khoa học công nghệ...
- Tiến bộ khoa học - công nghệ
Khoa học công nghệ là chìa khóa cho con người khám phá tự nhiên.
Những thành tựu khoa học công nghệ được ứng dụng trong công nghiệp
nhằm khai thác tự nhiên, sản xuất cung cấp sản phẩm cho xã hội. Vai trò của
công nghệ tới phát triển công nghiệp được thể hiện qua các cuộc cách mạng
công nghiệp. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ là nguyên nhân cơ bản
để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Công
nghiệp là ngành đại diện cho tiêu biểu nhất trong ứng dụng công nghệ hiện
đại để khai thác tài nguyên và chế biến sản phẩm phục vụ lợi ích con người.
Năng lực của ngành công nghiệp ngày càng lớn cùng với sự xuất hiện và trợ
giúp của các thành tựu công nghệ mới.Sự phát triển của công nghiệp phản ánh
xu thế phát triển khoa học, công nghệ và khả năng ứng dụng những thành tựu
của khoa học công nghệ. Sự ảnh hưởng của tiến bộ khoa học công nghệ đến
phát triển công nghiệp được thể hiện trên các mặt như:
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và hình thành các ngành công
nghiệp chuyên môn hóa. Đây là yếu tố thúc đẩy phát triển công nghiệp theo cơ cấu
công nghiệp ngày càng phức tạp và phù hợp với sự phát triển chung của đất nước.
22
- Việc thực hiện các nội dung của tiến bộ khoa học công nghệ trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đòi hỏi phát triển mạnh một số
ngành công nghiệp như việc thực hiện điện khí hóa phụ thuộc trực tiếp vào
ngành công nghiệp điện.
- Tiến bộ khoa học công nghệ không những tạo ra khả năng sản xuất
mới, đẩy nhanh nhịp độ phát triển một số ngành công nghiệp mà còn tạo ra
nhu cầu mới. Chính những nhu cầu mới này đòi hỏi sự ra đời và phát triển
một số ngành công nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ hạn chế tác động bất
lợi của tự nhiên, cho phép phát triển công nghiệp ngay cả khi điều kiện tự
nhiên bất lợi. Cụ thể, sự phát triển của công nghiệp hóa dầu sẽ tạo ra những
loại nguyên liệu phong phú, bổ sung cho nguồn nguyên liệu tự nhiên.
Sự ảnh hưởng của nhân tố này tới phát triển công nghiệp phụ thuộc vào
chính sách khoa học công nghệ của từng vùng cũng như của đất nước.
* Nhân tố thể chế
Cơ chế chính sách của Nhà nước có vai trò rất quan trọng với việc phát
triển công nghiệp trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Nó đề ra mục tiêu,
phương hướng và các chiến lược, quy hoạch kế hoạch... cho từng thời kỳ,
từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự phát triển công nghiệp
nói riêng của đất nước. Huy động phân bổ, điều chỉnh nguồn lực theo yêu cầu
của phát triển công nghiệp. Đề ra các chính sách cần thiết để khai thác mọi
tiềm năng trong và ngoài nước để thực hiện nhanh và hiệu quả quá trình phát
triển bền vững công nghiệp. Chính sách phù hợp sẽ thúc đẩy nhanh việc phát
triển công nghiệp, phát triển kinh tế xã hội cũng như đảm bảo các yếu tố bền
vững về môi trường, con người hiện tại cũng như tương lai.
Cơ chế chính sách của nhà nước có vai trò quyết định trong việc xây
dựng cơ cấu và định hướng ngành công phát triển công nghiệp nào (khai thác
hay chế biến...). Các chính sách thu hút vốn đầu tư các nguồn trong và ngoài
nước, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư bằng cách tạo
23
điều kiện ưu đãi về mọi mặt, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, lập các khu mậu
dịch tự do...
Chính sách đổi mới mở cửa làm cho các doanh nghiệp phải đổi mới và
nâng cao trình độ công nghệ. Nhà nước đề ra các chính sách khuyến khích
phát triển công nghiệp như: ưu đãi trong việc vay vốn ngân hàng để đầu tư
xây dựng, mở rộng quy mô sản xuất, mua máy móc thiết bị, tạo điều kiện
thuận lợi trong xuất nhập khẩu. Chính sách mở cửa với những điều kiện ưu
đãi trong việc đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước
ngoài đến liên doanh, đem theo những máy móc dây chuyền hiện đại, các
chuyên gia kỹ thuật, chuyên gia quản lý tiên tiến của thế giới. Việc đó đã tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước học hỏi nhanh các công nghệ
nước ngoài, tiến hành chuyển giao khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Quá trình phát triển công nghiệp đạt được các mục tiêu đề ra khi thực
hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự phát triển công
nghiệp tuân theo quy luật của quan hệ cung cầu trên thị trường. Điều đó có
nghĩa là cơ chế thị trường và các bộ phận cấu thành nên nó như cung, cầu, giá
cả và cạnh tranh sẽ quyết định các phương án lựa chọn đầu tư trong phát triển
công nghiệp. Nhưng cơ chế thị trường có những khuyết tật và hạn chế riêng
của nó. Cho nên quá trình phát triển công nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố thị
trường sẽ không đạt được những mục tiêu công bằng xã hội, an ninh quốc phòng
và sự bền vững của môi trường. Do đó thực tế khách quan đòi hỏi phải có sự
quản lý của Nhà nước thông qua các công cụ như luật pháp, kế hoạch phát triển,
các định hướng, chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài khóa, tiển tệ...).
Tóm lại, cơ chế chính sách và sự quản lý của Nhà nước có vai trò vô
cùng quan trọng trong việc phát triển công nghiệp nói riêng và quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
1.2. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp ở một số địa phương và
bài học rút ra cho quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
1.2.1.Kinh nghiệm phát triển công nghiệp ở một số địa phương
* Huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc
24
Bình Xuyên là một huyện nằm gần trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh
Phúc, cách thành phố Vĩnh Yên 7 km dọc theo quốc lộ 2, cách Thủ đô Hà Nội
khoảng 50km theo hướng Tây - Tây Bắc, có diện tích tự nhiên là 14.847,31ha.
Huyện có vị trí địa lý thuận tiện cho sự giao lưu hàng hóa, phát triển dịch vụ và
là huyện trọng điểm phát triển khu công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc.
Bình Xuyên là huyện chiếm tỷ trọng cao về tỷ trọng công nghiệp trên
địa bàn so với các thành phố, thị xã của tỉnh Vĩnh Phúc. Trong thời gian qua,
huyện Bình Xuyên đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về phát triển
kinh tế, đặc biệt là phát triển công nghiệp, cụ thể:
Giai đoạn 2008-2014, kinh tế Bình Xuyên đã có bước phát triển khá
với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 28,57%/năm, trong đó khu vực công
nghiệp - TTCN và xây dựng đạt 37,15%/năm.
Cơ cấu kinh tế của huyện trong thời kỳ 2005 - 2014 đã chuyển dịch
mạnh mẽ theo hướng phát triển công nghiệp. Năm 2008 cơ cấu khu vực công
nghiệp - xây dựng trên địa bàn huyện chiếm 53,6% lên 83,50% năm 2014.
Đặc biệt, công nghiệp - xây dựng đã liên tục khởi sắc trong nhiều năm, đã thu
hút được nhiều dự án đầu tư, hình thành mới 04 khu công nghiệp với tỷ lệ giải
phóng mặt bằng khoảng 50%/ tổng diện tích các khu, cụm công nghiệp trên
địa bàn huyện.
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế của huyện vẫn bộc lộ sự phát triển chưa
hài hòa khi so sánh với tỉnh Vĩnh Phúc và cả nước: nền kinh tế của huyện
tập trung nhiều vào khu vực công nghiệp - xây dựng khi mà ngành dịch
vụ còn chiếm tỷ trọng quá nhỏ (năm 2008 là 82,7/5,92 và năm 2014 là
89,63/6,34%). Tỷ lệ giữa khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực
dịch vụ của hai mốc so sánh cho thấy khu vực dịch vụ của huyện còn nhỏ
bé, chưa tương xứng với tiềm năng của một huyện trọng điểm phát triển
công nghiệp - đô thị của tỉnh. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh
Phúc và đạt mức độ hài hòa hơn (tỷ trọng công nghiệp - xây dựng so với
dịch vụ lần lượt là 40,68%/30,38% năm 2008 và năm 2014 là
25