Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.84 KB, 25 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ TƠN GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ TÍN NGƯỠNG, TƠN GIÁO HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Trước sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
nhất là cuộc Cách mạng Cơng nghiệp lần thứ tư, vai trị của tơn giáo trong đời
sống xã hội ngày càng thể hiện rõ nét, sâu sắc. Thoạt nghe, tưởng chừng mâu
thuẫn, song thực tế minh chứng, tôn giáo tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của đời
sống tinh thần, không chỉ ảnh hưởng trong phạm vi một quốc gia riêng lẻ mà
tầm ảnh hưởng cịn mang tính quốc tế. Một số học giả phương Tây cho rằng,
“Trong thế kỷ tới, cuộc đấu tranh trong ý thức hệ khơng cịn nữa mà chuyển
sang đấu tranh tôn giáo” [3, tr. 38].
Đảng cộng sản Việt Nam luôn ln xác định vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo và
cơng tác tơn giáo là vấn đề chính trị quan trọng, quan hệ đến sự phát triển của đất
nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội của các tầng lớp nhân dân.
Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là sự
vận dụng trung thành và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
không ngừng đổi mới nhận thức về tôn giáo và quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tơn giáo, tín ngưỡng. Đây là nền tảng để xây dựng chủ trương, chính sách, tạo
điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tơn giáo, tín ngưỡng của đồng bào có đạo và
nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

1


NỘI DUNG
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng
nhất của chủ nghĩa C.Mác, thì những quan điểm về tơn giáo là một trong những


biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể
hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn
gốc lẫn chức năng của tôn giáo.
Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tơn giáo có nguồn gốc siêu
nhiên, thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi
cá nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên,
thần thánh thì các nhà duy vật, vơ thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập.
L.Phoiơbắc - nhà triết học duy vật người Đức, trong “Bản chất đạo Cơ
đốc”, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo ra con người mà con
người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình; rằng: “Thượng đế siêu
hình khơng phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là tồn bộ những đặc tính chung
nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng tượng… lại đem
giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc lập” [3, tr. 41]. Tuy
nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh
này, ơng vẫn chưa thốt khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo
hiện thời chứ khơng phê phán tơn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự
phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tơn giáo. Thậm chí, ông còn
cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tơn giáo khác thay thế, đó là “tơn giáo tình
u” để xố bỏ đi những áp bức, bất cơng trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật
trước đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường
duy vật lịch sử để lý giải vấn đề bản chất của tôn giáo. Ph.Ăngghen, khi nghiên
cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như là sự phản ánh khát vọng của
những người nô lệ và trong bản thân nó có những điểm tương đồng với lý tưởng
của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm
2


giống đáng lưu ý với phong trào công nhân hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như
là một phong trào của những người bị áp bức; lúc đầu nó là tôn giáo của những

người nô lệ và nô lệ đã được tha, của người nghèo và người vô quyền, của các
dân tộc bị La Mã chinh phục hoặc đuổi đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa
xã hội cơng nhân đều tun truyền sự giải phóng con người trong tương lai khỏi
cảnh nô lệ và nghèo khổ” [13, tr. 663].
Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định. Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh
thần, xét đến cùng, đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tơn giáo là một hiện
tượng tinh thần của xã hội và vì vậy, nó là một trong những hình thái ý thức xã
hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng khác
với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện
thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược”, “hoang đường” thế
giới khách quan. Trên lập trường duy vật vô thần triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin
dù có thừa nhận những giá trị tích cực nhất định của tơn giáo, song vẫn phê phán
nó, vì xét cho cùng, tơn giáo vẫn hướng con người vào một thế giới ảo tưởng, an
ủi họ quên nỗi đau khổ ở cuộc sống hiện thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một
thế giới siêu nhiên. Trong khi đó, để khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần
thế, con người cần phải có phương tiện hiện thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo
vượt qua trong xã hội hiện thực. Ăngghen đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa
đạo Cơ Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó là: “Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thốt ấy trong
cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia sau khi chết, còn chủ nghĩa xã hội thì tìm nó
ở thế giới bên này, ở việc tổ chức lại xã hội” [15, tr. 663].
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sự phản kháng của tôn giáo về cơ bản vẫn
mang tính tiêu cực, thụ động, nó khun con người chấp nhận hiện thực để mỗi
người tự hoàn thiện mình, tách khỏi mọi mối quan hệ của xã hội hiện thực.
Vấn đề đặt ra ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang
đường”, “hư ảo” của tơn giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt
3


niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy? Đứng vững trên lập trường duy vật lịch

sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo
xuất phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tơn giáo
chính là điều kiện kinh tế - xã hội.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết:
“Trong những thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là
những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn
nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được
nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp... Nhưng chẳng bao
lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại cịn có cả những lực lượng xã hội
tác động - những lực lượng này đối lập với con người, một cách cũng xa lạ lúc
đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu
bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy” [14, tr. 562].
Tiếp tục quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lênin bổ sung, phát
triển, hoàn thiện thêm và chỉ ra vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, về cơ
bản, là tác động tiêu cực. Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng những đau khổ
để chờ đợi những điều tốt đẹp ảo tưởng, khơng có thực: “Những điều thiêng
liêng của đạo chính thống quý báu là ở chỗ nó dạy người ta chịu đựng đau khổ
“khơng một tiếng kêu ca”! Thực tế, điều thiêng liêng đó có lợi cho giai cấp
thống trị biết chừng nào!…tơn giáo dạy người ta chịu đựng “không một tiếng
kêu ca”cái địa ngục trần gian để chờ đợi một thiên đường nào đấy” [11, tr. 331].
V.I.Lênin cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ hồ,
răn dạy họ nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi sống
khác, mặt khác tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên những
người bị bóc lột hãy cam chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với những ai
suốt đời vẫn lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống theo
tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần gian, bằng cách làm cho
họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đường. Còn đối với những kẻ sống bằng
lao động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm điều thiện ở thế gian, biện hộ
4



một cách rẻ tiền cho tồn bộ cuộc đời bóc lột của chúng, và bán rẻ cho chúng
những tấm thẻ để lên thiên đường của những người hạnh phúc” [12, tr. 170].
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng
cụ chính trị thì nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của
tư bản mất phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ đòi hỏi để được
sống một cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người” [12, tr. 170].
Tôn giáo được V.I.Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và châu
Âu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, V.I.Lênin nói đến vai trị tiêu
cực của tơn giáo và giáo hội cũng trong một tình huống rất cụ thể: tơn giáo và
giáo hội tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng cụ để bảo vệ chế độ bóc
lột, đầu độc quần chúng bị áp bức. Lúc này, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội đó, “Tơn giáo là một trong
những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên
quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng,
vì phải chịu cảnh bần cùng cô độc” [12, tr. 169].
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tơn giáo có nguồn
gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó - một hiện thực cần có tơn
giáo và có điều kiện để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Trong tác phẩm “Phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen - Lời nói đầu”, C.Mác đã viết: “Sự nghèo nàn
của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng
chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp
bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những
trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [13, tr. 570].
Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng
của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử. Với C.Mác, tôn giáo như là “vầng
hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu sắc và đẹp một cách hoàn
mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn cho những
5



số phận bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện thực. Vì, trong cuộc sống hiện
thực, khi con người bất lực trước tự nhiên, bất lực trước các hiện tượng áp bức,
bất cơng của xã hội thì họ chỉ cịn biết “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu
đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ khơng thể tìm thấy “một trái tim”
để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong tưởng tượng nơi
tơn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức
mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác khơng chỉ
muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tơn giáo, mà cịn nhấn
mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau
được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc
giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào cịn đau đớn, thì chừng đó cịn
có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy
vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù
đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo mặc dù là sự phản
ánh hoang đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội
nhưng nó khơng phải khơng có những yếu tố tích cực. Tơn giáo chỉ là những
“bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện thực đầy xiềng xích. Nhưng nếu
khơng có những “bơng hoa giả” ấy thì cuộc sống của con người chỉ cịn lại
“xiềng xích” mà thơi. Và nếu khơng có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ
phải vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực với đầy rẫy những áp bức, bất
công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác khi quan niệm về tơn giáo chính là ở chỗ đó. Trong
khi các nhà duy vật vơ thần chỉ biết phê phán bản thân tơn giáo thì C.Mác lại
khơng phê phán tơn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn
giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con
người phải tìm đến với tơn giáo và ru ngủ mình trong tơn giáo. C.Mác đã nhận

thấy rất rõ quan hệ nhân - quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh
6


thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xố bỏ tơn giáo,
khơng có cách nào khác là phải xố bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo
C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bơng hoa giả” đi mà là xố bỏ bản thân
cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bơng hoa giả đó để con người có thể
“giơ tay hái những bơng hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật
sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xố bỏ
tơn giáo và giải phóng con người khỏi sự nơ dịch của tơn giáo thì trước hết phải
đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp
bức bất cơng, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội
mới không cịn tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong vận dụng quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo vào thực tế. Người khơng chỉ nhìn tơn
giáo dưới góc độ chính trị, ý thức hệ, mà Người đã phát hiện và chỉ ra những giá
trị văn hóa, đạo đức tích cực của tơn giáo. Nhận thức sâu sắc vai trị của tơn giáo
trong đời sống xã hội, bao hàm cả hai mặt tích cực và mặt tiêu cực, Hồ Chí
Minh ln tìm cách khai thác, phát huy các giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của
tôn giáo để phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đồng thời đấu tranh khắc
phục những tiêu cực.
Một là, xem xét vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng một cách tồn diện, trên quan
điểm lịch sử cụ thể.
Tơn giáo và tín ngưỡng được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét dưới góc độ
văn hóa, triết học và đạo đức. Đối với tôn giáo, ngay từ năm 1943, trong mục
đọc sách của tập Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho

sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố” [16, tr. 458]. Tuy khẳng định “tôn giáo
7


là duy tâm, cộng sản là duy vật” [18, tr. 200], nhưng theo Người, trong văn hóa
và đạo đức, tơn giáo “Cái gì tốt thì ta nên khơi phục và phát triển, cịn cái gì xấu,
thì ta phải bỏ đi”, điều này đã thể hiện sâu sắc quan điểm lịch sử cụ thể trong
xem xét, đánh giá về tôn giáo của Người.
Đối với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
định: “Người dân An Nam khơng có linh mục, khơng có tơn giáo theo cách nghĩ
của Châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội… Những
người già trong gia đình hay các già bản là người thực hiện những nghi lễ tưởng
niệm” [15, tr. 463]. Tuy một số chức sắc, tín đồ tơn giáo có những hành động làm
phương hại đến khối đại đoàn kết dân tộc, nhưng “phần lớn đồng bào tôn giáo…
đều yêu nước kháng chiến” và dù là lương hay giáo thì nhân dân ta đều tốt cả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề tôn giáo vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã tập trung nghiên cứu về
Kitô giáo trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra gay gắt ở phương
Tây, trong khi Hồ Chí Minh là người đã rất tường tận và chịu ảnh hưởng sâu
đậm từ văn hóa, tín ngưỡng của phương Đơng. Từ nhận thức đó, Người đã tiếp
cận và giải quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam để
phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Hai là, luôn thể hiện sự tôn trọng đối với những người sáng lập ra các tơn
giáo, đánh giá cao vai trị và sự hy sinh, đóng góp của các bậc “chí tơn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tơn trọng, khâm phục tinh thần hy sinh cao cả
của những người sáng lập ra Phật giáo, Kitơ giáo. Người nói: “Tín đồ Phật giáo
tin ở Phật; tín đồ Giatơ tin ở đức Chúa Trời;... Đó là những vị chí tơn nên chúng
ta tin tưởng” [17, tr. 169].

Người ln ca ngợi tấm lịng bác ái cao cả của Chúa, tinh thần từ bi, hỷ
xả, cứu độ chúng sinh của Phật và cho rằng mục đích cao cả của các vị ấy giống
8


nhau ở chỗ họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã
hội”. Người nhận thức rõ những điểm khác biệt của từng tôn giáo và chấp nhận
nó như một phần tất yếu của sự nghiệp cách mạng; đồng thời đã khai thác và
phát huy triệt để những điểm tương đồng trong quan điểm tư tưởng của các bậc
“chí tơn” để thu hút, động viên, tập hợp quần chúng theo đạo cùng đoàn kết để
tiến hành sự nghiệp cách mạng. Người đã gắn nhiệm vụ cách mạng với lý tưởng
của những người sáng lập ra các tơn giáo một cách hài hịa, tự nhiên, thể hiện
một phương pháp cách mạng độc đáo mang đậm phong cách Hồ Chí Minh.
Ba là, khẳng định sự tồn tại của tôn giáo là một tất yếu lịch sử, luôn đồng
hành cùng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Từ sự phân tích, đánh giá chính xác các hiện tượng tín ngưỡng, tơn giáo ở
Việt Nam, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước đang có những diễn
biến hết sức phức tạp, Người vẫn khẳng định tôn giáo đã và đang tồn tại tất yếu
dưới chủ nghĩa xã hội. Trả lời câu hỏi của cử tri Hà Nội: “Tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì tơn giáo có bị hạn chế không?”, Người khẳng định rõ: “Không. Ở các
nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hồn tồn tự do. Ở Việt Nam ta cũng vậy”
[19, tr. 405]. Điều đó lý giải quan điểm của Hồ Chí Minh rằng: trên con đường
cách mạng của dân tộc ta ln có sự tham gia, đồng hành của đồng bào các tôn
giáo, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh thế giới đang mâu thuẫn gay gắt giữa duy vật và duy tâm,
vô thần và hữu thần, tôn giáo và khoa học… ở nửa đầu thế kỷ XX, cịn trong
nước thì những tư tưởng mặc cảm, định kiến từ hai phía: Chức sắc, tín đồ Thiên
Chúa giáo với cán bộ, đảng viên, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức
một cách sâu sắc về sự tồn tại và đồng hành của tôn giáo với dân tộc cho thấy
Người đã vượt xa tầm nhìn hạn hẹp, định kiến với tơn giáo của khơng ít người

đương thời để đạt đến tầm cao mới nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề tôn giáo - dân tộc.
9


Trên cơ sở nhận thức rõ Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn
giáo, mỗi tôn giáo tuy có lịch sử hình thành, du nhập, số lượng tín đồ, chức sắc,
cơ sở thờ tự, vị trí vai trò xã hội và đặc điểm khác nhau, nhưng mọi tơn giáo đều
tồn tại trong lịng dân tộc và do đó lợi ích của từng tơn giáo cũng gắn liền với lợi
ích của quốc gia, dân tộc… nên Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan hệ đặc
biệt này. Người cho rằng: Đối với người Công giáo, không có gì vui mừng hơn
khi họ vừa là con chiên ngoan đạo, vừa là người yêu nước theo tinh thần “kính
Chúa - yêu nước”, “phụng sự Thiên Chúa - phụng sự Tổ quốc”, “nước có vinh
thì đạo mới sáng”, “nước có độc lập thì đạo mới được tự do”, “Thượng đế và Tổ
quốc muôn năm!” … Theo Người, đối với đồng bào theo đạo thì đức tin tơn giáo
và lịng yêu nước luôn thống nhất với nhau. Một người dân Việt Nam yêu nước
đồng thời cũng chính là một tín đồ chân chính và ngoan đạo, ngược lại, một kẻ
chống lại dân tộc, Tổ quốc mình thì cũng chính là một kẻ phản Chúa; đồng thời
yêu cầu người Công giáo tốt phải là người cơng dân tốt, kính Chúa và yêu nước
vừa là trách nhiệm công dân, vừa là bổn phận con Chúa.
Ở một quốc gia đa tôn giáo như nước ta, dù là trong cách mạng giải phóng
dân tộc hay cách mạng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề dân tộc và tơn giáo vẫn ln
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khơng có độc lập dân tộc thì sẽ khơng có giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và ngay cả tơn giáo
cũng khơng có tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã. Người nói:
“Nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang” [17, tr. 228]. Trong mối quan
hệ đó thì vấn đề dân tộc ln được ưu tiên đặt lên hàng đầu, tuy nhiên Người
không tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc, xem nhẹ vấn đề tôn giáo mà thường giải
quyết mối quan hệ này một cách thỏa đáng, tạo cơ sở để sau này giáo hội các tơn
giáo đề ra tơn chỉ, mục đích hành đạo theo hướng gắn bó việc đạo với việc đời,

tơn giáo với dân tộc.
Năm là, xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của cơng tác tơn giáo là để đồn
kết đồng bào có đạo, đồn kết giữa các tơn giáo, đoàn kết toàn dân tộc.
10


Một trong những tư tưởng đặc sắc và đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh
vào sự phát triển lý luận Mác - Lênin về tôn giáo là đã xác định: Mục đích cao
nhất, nội dung xun suốt của cơng tác tơn giáo là để tăng cường khối đại đồn
kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc tôn giáo
khác nhau, làm cho “nước vinh, đạo sáng”, “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần ngày
càng to lớn vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Cho nên, ngay cả những lúc
vận mệnh của cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
vẫn xác định một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hịa phải thực hiện là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn
kết”(12). Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, Người đã
chỉ ra sự đồng thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục đích của những
người sáng lập tôn giáo. “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương
máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra
khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta
làm theo lịng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống
nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ” và với trách nhiệm của người đứng đầu Nhà nước,
Người khẳng định rõ: “… Những việc chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp
với tinh thần Phúc âm” [18, tr. 374]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta
lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân làm hết sức mình, kể cả hy sinh xương máu để giữ
gìn sự đồn kết đó, đồng thời phê phán sâu sắc cách nhìn thiển cận trong xây
dựng khối đồn kết lương giáo.
Hồ Chí Minh đấu tranh với các thế lực lợi dụng tơn giáo vào mục đích chính
trị. Bởi Người nhận thức được rất rõ ràng rằng, trong một quốc gia đa tơn giáo, khi
mà nhiệm vụ giải phóng dân tộc đang được đặt lên hàng đầu thì việc tập hợp sức

mạnh của tồn dân khơng phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề sống
cịn của cách mạng. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ việc phê phán, đấu tranh một
cách trực diện với giáo lý tơn giáo sẽ khơng có lợi cho việc đồn kết tồn dân. Cách
làm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đều đúng trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó càng thể hiện rõ, Hồ Chí Minh đã rất thấm nhuần
11


quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng một cách sáng tạo những quan
điểm đó vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
3. Sự vận dụng của Đảng ta về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo hiện nay
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tơn giáo, số lượng tín đồ tơn
giáo chiếm hơn ¼ (khoảng 27%) dân số, trong thời gian vừa qua, vấn đề tơn giáo
có nhiều ảnh hưởng đến đời sống xã hội của nhân dân - có cả những ảnh hưởng
tiêu cực và tích cực. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên tắc
giải quyết vấn đề tôn giáo. Việc giải quyết vấn đề tôn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tơn giáo và căn cứ vào đặc điểm
tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong lịch sử Việt Nam hiện đại, đã từng có một thời kỳ, do
siêu hình, máy móc, nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề tơn giáo, đã có một thời
kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống
tôn giáo. Chúng ta đã q nơn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo
cũng như với các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu
mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn cấm, người có đạo bị kỳ thị.
Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo khơng được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã
dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản
động lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. Ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã
không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Để
giải quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay, trước hết cần phải nhận thức rõ một số

vấn đề sau đây:
Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,
những điều kiện tồn tại của tơn giáo vẫn cịn; vì vậy, sự tồn tại của nó vẫn là một
tất yếu khách quan. Những điều kiện đó là: trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, của khoa học - kỹ thuật còn thấp nên khả năng cải tạo thế giới chưa cao;
12


trình độ nhận thức cịn hạn chế nên chưa cho phép giải thích đầy đủ, khoa học
những hiện tượng tự nhiên, xã hội; trình độ phát triển kinh tế cịn thấp nên đời
sống của người dân cịn gặp nhiều khó khăn; thời kỳ quá độ với những quan hệ
sản xuất cũ và mới đan xen nhau nên chưa thể xoá bỏ những hiện tượng bóc lột,
bất bình đẳng trong xã hội… Thêm vào đó, chiến tranh, đặc biệt là thiên tai, vẫn
xảy ra khiến cho con người cảm thấy không yên tâm và vì vậy, một bộ phận
người dân vẫn sẽ có nhu cầu tín ngưỡng tơn giáo như một tất yếu. Vấn đề là ở
chỗ, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với tôn giáo.
Thứ hai, cần phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo không phải là mọi tôn giáo và những sinh hoạt tôn giáo
hay tất cả những tín đồ tơn giáo nói chung, mà chỉ là những bộ phận người lợi
dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng, gây rối
trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
Thứ ba, để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, không thể
dùng mệnh lệnh hành chính hay tuyên truyền giáo dục đơn thuần mà phải chú
trọng đến việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Xoá bỏ dần phương thức
sản xuất tiểu nông lạc hậu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân, kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, trình
độ văn hố để người dân tự nhận thức được vai trị thực sự của tơn giáo trong
đời sống hiện thực của họ và chính họ, chứ khơng phải ai khác, tự quyết định
theo hay không theo một tôn giáo nào đó.
Những năm gần đây, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã có những thay đổi quan

trọng trong nhận thức về tôn giáo và giải quyết vấn đề tơn giáo, đưa ra nhiều chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Với tinh thần mạnh dạn đổi mới, khắc phục những hạn chế, sai lầm trong
nhận thức trước đây, Đảng ta, lần đầu tiên trong Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ
Chính ngày 16-10-1990 đã khẳng định: Tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài.
Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức
13


tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới… Có thể coi
đây là bước đột phá, khởi đầu trong việc đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo
của Đảng ta, bởi luận điểm này là cơ sở lý luận quan trọng để hạn chế các biểu
hiện sai sầm trong nhận thức và ứng xử với tơn giáo, làm cho chính sách của
Nhà nước về tôn giáo ngày càng đúng đắn và được đông đảo đồng bào có đạo
đồng tình, ủng hộ.
Đó là sự trở lại với quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã bổ sung thêm những nghiên cứu về vai trò
của tôn giáo mà trước đây các nhà kinh điển Mác - Lênin chưa có điều kiện đi
sâu tìm hiểu.
Qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX , X và XI của Đảng Cộng sản Việt Nam,
tinh thần đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo vẫn liên tục được phát triển và
hồn thiện thêm.
Khi thừa nhận tín ngưỡng, tơn giáo là hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu
dài, Đảng ta ý thức được rằng, tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Tôn giáo vẫn phát huy ảnh hưởng của nó trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Trong trường hợp
này, thái độ đúng đắn nhất, biện chứng nhất là khuyến khích phát huy các yếu tố
tích cực của tơn giáo, làm cho các yếu tố này thực sự có ý nghĩa khi tham gia
vào q trình phát triển, hồn thiện con người và xã hội Việt Nam hiện đại. Do
vậy, cũng trên tinh thần đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo, Đảng ta không
chỉ thừa nhận những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong các tơn giáo mà cịn

ln khuyến khích phát huy những giá trị đó trong việc xây dựng xã hội mới.
Chỉ thị 37/CT-TWcủa Bộ Chính trị ngày 2-7-1998 về cơng tác tơn giáo trong
tình hình mới đã khẳng định “Những hoạt động tơn giáo ích nước lợi dân, phù
hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được đảm
bảo. Những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và
khuyến khích phát huy” [4, tr. 14].
14


Nhận thức đúng vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội và những đóng
góp của nó cho nền văn hóa, đạo đức của dân tộc, Đảng ta, trong Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII, về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc đã chủ trương “Khuyến khích ý tưởng cơng bằng, bác ái,
hướng thiện... trong tôn giáo” [4, tr. 67]. Chủ trương này tiếp tục được khẳng
định và phát triển thêm qua các kỳ Đại hội IX, X, XI. Đại hội XI khẳng định:
“Tiếp tục hồn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với
quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá trị
đạo đức, văn hoá tốt đẹp của các tơn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ
chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [6, tr. 51].
Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rõ, bên cạnh vai trị tích cực, tơn giáo
cịn chứa đựng và tiềm ẩn trong nó nhiều mặt tiêu cực có thể gây nên những tác
động xấu đối với đời sống chính trị, xã hội, đó là vấn đề mê tín, dị đoan được
đan xen, dung dưỡng trong sinh hoạt tôn giáo và đặc biệt là vấn đề lợi dụng tơn
giáo vào mục đích chính trị... Vì vậy, bên cạnh việc thừa nhận và khuyến khích
phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tích cực trong tơn giáo, Đảng ta cũng kiên
quyết đấu tranh “tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan; chống việc
lợi dụng tơn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu” [4, tr. 67].
Hội nghị Trung ương 7 khóa IX khẳng định: “Việc theo đạo, truyền đạo
cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;

không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
khơng được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định
của Hiến pháp và pháp luật” [5, tr. 50 - 51]. Đại hội XI tiếp tục khẳng định chủ
trương: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý

15


nghiêm với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo làm tổn hại đến
lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [6, tr. 81].
Tại Đại hội XII của Đảng, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết
đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo trái quy định
của pháp luật [7, tr. 165].
Cũng tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục xác định rõ thêm những điểm tương
đồng của tôn giáo trong q trình thực hiện mục tiêu đại đồn kết dân tộc là: Lấy
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn
lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương
đồng; tôn trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của quốc
gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để
tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam…, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đảng ta xác định, để đoàn kết được toàn dân tộc cần phải coi trọng
phát huy những điểm tương đồng nhằm tập hợp, đoàn kết rộng rãi tất cả đồng
bào và chức sắc tơn giáo vào khối đại đồn kết dân tộc. Quan điểm Đại hội XII

của Đảng về vấn đề dân tộc, tôn giáo là đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của đất nước và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.
Như vậy, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và dựa trên đặc điểm, tình hình tơn giáo ở
Việt Nam, Đảng ta đã nhìn nhận vấn đề tơn giáo với tư duy mới và nhờ đó đã đưa
lại những cách làm mới trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Điều đó
chứng tỏ nhận thức của Đảng ta về vấn đề tơn giáo có sự vận động, phát triển rõ
nét, đồng thời nó cũng chứng tỏ bản lĩnh và sự trưởng thành vượt bậc của Đảng
16


ta. Sự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tơn giáo nói chung, về vai trị của
tơn giáo nói riêng hồn tồn khơng xa rời những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo. Hơn nữa, sự đổi mới
nhận thức này còn là sự tiếp tục những cơng việc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc
đương thời đã từng trăn trở, đó là cần phải bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa
Mác và củng cố chủ nghĩa C.Mác bằng dân tộc học phương Đông.
Từ nhận thức đúng đắn về nhu cầu tôn giáo của quần chúng, về vai trị của
tơn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã thường
xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo. Đảng, Nhà nước cũng luôn
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các tôn giáo phát huy giá trị nhân
văn, nhân bản của tôn giáo trong xây dựng cuộc sống; động viên đồng bào các
tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”; đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh chống các
biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, đấu tranh với các hành vi
lợi dụng tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.
Thực tế cho thấy, khi vai trị tích cực của tơn giáo được thừa nhận và
khuyến khích phát huy đã đem lại những hiệu quả thiết thực trong đời sống xã
hội. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được

đơng đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo được niềm tin, sự phấn khởi lớn trong
đồng bào có đạo. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được tăng cường,
củng cố vững chắc hơn. Đồng bào có đạo trên khắp các vùng miền cả nước đã
và đang tích cực hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, sống tốt đời, đẹp đạo,
hăng hái tham gia vào các phong trào phát triển kinh tế- xã hội, góp phần xây
dựng q hương, đất nước. Nhiều gia đình tín đồ tơn giáo từ nghèo đói triền
miên đã vươn lên thốt nghèo. Nhiều vùng đồng bào có đạo từ nghèo đói đã trở
nên giàu có và trở thành điển hình của cả nước. Hàng chục vạn gia đình tín đồ,
hàng ngàn làng, xã, khu dân cư của đồng bào có đạo được cơng nhận là gia đình
văn hóa, làng xã văn hóa, khu dân cư an toàn.
17


Những năm qua, đồng bào các tơn giáo cũng có những đóng góp rất tích
cực vào các hoạt động xã hội. Rất nhiều phịng khám chữa bệnh, cơ sở ni
dưỡng người già, trẻ em, người khuyết tật của các tôn giáo đã và đang góp phần
chia sẻ những khó khăn với Nhà nước trong công tác an sinh... là những minh
chứng rõ nhất cho thấy các tôn giáo ở Việt Nam đã và đang phát huy vai trị tích
cực của mình trong đời sống xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn cho thấy rằng ở một
vài “điểm nóng” về vấn đề Tơn giáo, trong đó có Tây Nguyên được chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch xác định là địa bàn trọng yếu để thực hiện âm mưu
chiến lược “diễn biến hồ bình”, kết hợp bạo loạn lật đổ (BLLĐ) chống phá
cách mạng Việt Nam. Sự chống phá, lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù
địch trong thời gian gần đây thường tập trung: Triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc
đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, lôi kéo, kích động ly khai, tự trị, nhằm tập hợp
lực lượng trong các vùng dân tộc thiểu số. Nuôi dưỡng, chứa chấp các phần tử
phản động cực đoan trong số người dân tộc thiểu số lưu vong để thành lập các tổ
chức, đảng phái phản động rồi tung vào các tỉnh ở Tây Nguyên hoạt động chống
phá chính quyền nhân dân. Chúng lợi dụng tôn giáo để thâm nhập, tác động

nhằm chia rẽ, lôi kéo, tập hợp và âm mưu sử dụng đồng bào dân tộc thiểu số vào
các hoạt động cực đoan, q khích, biểu tình, bạo loạn. Thơng qua con đường
viện trợ từ thiện để tuyên truyền, kích động các phần tử phản động, lơi kéo cán
bộ, trí thức người dân tộc thiểu số gây bạo loạn lật đổ.
4. Nhận thức và trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trong Quân
đội nhân dân Việt Nam về vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo
Những năm qua, các đơn vị qn đội đã tích cực quán triệt và tổ chức
thực hiện tốt quan điểm, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước, nhất là các
nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên về cơng tác tơn giáo trong tình hình
mới. Đặc biệt là thường xuyên tổ chức các đợt hành quân dã ngoại, kết hợp làm
công tác dân vận, tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo chấp hành
nghiêm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây
18


dựng cơ sở địa phương vững mạnh,đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn
lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch.
Tuy vậy, việc phát huy vai trò của các đơn vị quân đội trong thực hiện
chính sách tơn giáo cịn bộc lộ hạn chế: hoạt động tuyên truyền, vận động đồng
bào các tôn giáo chưa thường xuyên, liên tục; nội dung, hình thức và phương
pháp chưa sát với đặc điểm từng đối tượng và địa bàn cụ thể; chưa kết hợp chặt
chẽ giữa tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng với tuyên
truyền,giáo dục, thuyết phục nhân dân. Do đó, hiệu quả chưa tương xứng với
cơng sức và tiền của đã đầu tư. Một số đơn vị chưa linh hoạt trong thực hiện vai
trò làm tham mưu cho các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng cơ sở chính
trị vùng đồng bào tơn giáo. Cơng tác tuyển chọn, đào tạo, bố trí và sử dụng
những qn nhân cùng tộc người, cùng tín ngưỡng, tơn giáo trong các đơn vị có
nơi chưa được quan tâm đúng mức.
Thực hiện chính sách tơn giáo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách
mạng Việt Nam, đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính
trị, các tổ chức đoàn thể xã hội và của toàn dân. Trong đó,tổ chức qn đội giữ
vai trị rất quan trọng, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo. Để
phát huy vai trò của tổ chức qn đội trong thực hiện chính sách tơn giáo thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các đơn vị quân đội cần tập
trung thực hiện tốt mấy vấn đề cơ bản sau:
Một là, thường xuyên tuyên truyền, vận động đồng bào tôn giáo chấp
hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, “sống tốt
đời, đẹp đạo”, “kính Chúa, u nước”.
Cơng tác tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của cán bộ, chiến sĩ,
phải nhằm giúp đồng bào nhận thức đúng và chấp hành nghiêm những quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng: “Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi
hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không được lợi
19


dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan hoặc truyền đạo trái
phép”. “Động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tơn giáo sống tốt đời, đẹp đạo”.
Làm cho đồng bào các tôn giáo thực sự tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng và tham
gia đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các văn bản luật, pháp lệnh, chỉ thị,
thông tư, hướng dẫn thực hiện các hoạt động tự do tín ngưỡng, tơn giáo, giúp
đồng bào hiểu đúng và làm tròn nghĩa vụ cơng dân. Hình thức tiến hành phải đa
dạng, phong phú, linh hoạt thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các
cuộc mít tinh, hội họp và hoạt động phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ở
địa phương để tuyên truyền,phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Qua đó,
động viên, hướng dẫn, giúp đỡ họ thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, thực
hiện bình đẳng trước pháp luật, vừa tự do tham gia các hoạt động theo lễ nghi
tôn giáo, vừa chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
“sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất
nước, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động hướng dẫn, giúp đỡ nhân
dân trong sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của đồng bào vùng sâu,
vùng xa, các dân tộc ít người, các thành phần tơn giáo đặc biệt khó khăn nhằm
không ngừng củng cố, tăng cường mối quan hệ quân - dân. Đẩy mạnh công tác
dân vận của các đơn vị trong các đợt hành quân dã ngoại với hoạt động của các
tổ, đội cơng tác, đồn kinh tế - quốc phịng,bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ có điều
kiện tiếp xúc với đồng bào,củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, tích cực hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào tôn giáo trong sản xuất,
phát triển kinh tế,nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đây vừa là chức năng, nhiệm vụ, vừa là yêu cầu đặt ra cho tổ chức quân
đội trong giai đoạn mới. Theo đó, cần đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các
20


chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội góp phần cải thiện và từng bước
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào các dân tộc,
tôn giáo. Thông qua thực hiện các mơ hình kết hợp kinh tế với quốc phịng, xây
dựng các khu dân cư - xã hội, chung sức xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh
hoạt động của các tổ, đội cơng tác, đồn kinh tế - quốc phịng của quân đội, các
đợt lao động của các đơn vị để giúp đồng bào định canh, định cư, phát triển sản
xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở ở nông thơn, miền núi, tham gia các cuộc
vận động xố đói, giảm nghèo, phịng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ, bảo
vệ tài nguyên môi trường theo chức trách và nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.
Thực tế, với lực lượng hùng hậu và khả năng cơ động cao, bảo đảm tốt hậu
cần, kỹ thuật tại chỗ, quân đội là lực lượng rất quan trọng trong phòng - chống
thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Mặt khác,
lực lượng quân đội còn góp phần quan trọng định hướng tư tưởng, nâng cao nhận
thức cho nhân dân, qua đó góp phần xây dựng cuộc sống mới, làm cho các hoạt

động sinh hoạt tôn giáo ngày càng lành mạnh, phong phú, phù hợp với các chuẩn
mực, đạo đức xã hội, pháp luật. Bên cạnh đó cần phát huy vai trị của qn đội
trong tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, thể thao ở các địa phương, hoạt
động đền ơn đáp nghĩa, phòng chống tệ nạn xã hội, bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục
lạc hậu, qua đó góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân.
Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo đối với qn nhân
là con em các tơn giáo làm nịng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động đồng
bào giáo dân ở địa phương.
Coi trọng việc giáo dục, bồi dưỡng quân nhân gốc đạo trở thành những
người con ưu tú, nhằm phát triển lực lượng quan trọng thực hiện công tác tuyên
truyền, vận động đồng bào các dân tộc, tôn giáo, qua đó tác động trực tiếp đến tâm
tư, tình cảm và thái độ của toàn thể người dân theo đạo sinh sống trên địa bàn.
Cần tập trung tuyên truyền, quán triệt sâu sắc đến mọi cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, của Quân ủy Trung
21


ương về Cơng tác tơn giáo trong tình hình mới, đặc biệt là Pháp lệnh tín ngưỡng
tơn giáo, Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX), Chỉ thị số 01 của Thủ tướng
Chính phủ, Chỉ thị 36 của Quân ủy Trung ương, Hướng dẫn số 456/HD-CT của
Tổng cục Chính trị; đồng thời vạch rõ những âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tơn giáo để chống phá Nhà nước. Chú trọng
giáo dục cho quân nhân bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng, phong
cách, tác phong chính quy, lối sống mẫu mực, làm nịng cốt trong cơng tác tun
truyền vận động đồng bào tơn giáo.
Bốn là, tăng cường đồn kết dân tộc, sẵn sàng đấu tranh có hiệu quả với
những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù địch.
Đồn kết dân tộc và tơn giáo là sức mạnh vĩ đại góp phần quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó chính là tư tưởng trong chiến lược đại
đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Với cái gọi là Đạo “Vàng Chứ” của “Vương quốc HMông tự trị”; Đạo Tin lành
Đề-ga độc lập của “Nhà nước “Đề-ga độc lập”, hay “Nhà nước Khmer Krôm”,
các thế lực thù địch đã và đang sử dụng những thủ đoạn tinh vi để lơi kéo, kích
động, tổ chức quần chúng biểu tình và bạo loạn hịng phá hoại an ninh quốc gia,
đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vì vậy
các đơn vị quân đội cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ đảng, chính quyền địa
phương tiến hành điều tra, khảo sát, nắm vững tình hình dân tộc, tín ngưỡng, tơn
giáo, nắm diễn biến hoạt động và những thủ đoạn chống phá của các lực lượng
thù địch trên từng địa bàn, từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh phịng,
chống có hiệu quả nhất, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra.
Khi có vụ việc phức tạp liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, quân đội
là lực lượng tham mưu cho cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, chủ động hiệp
đồng chặt chẽ nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong quá trình giải quyết vụ
việc. Cần phát huy tốt vai trò của các tổ, đội công tác tăng cường ở từng địa
phương, lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên trong tuyên truyền giáo dục,
22


thuyết phục đối với đồng bào, cô lập những phần tử quá khích, làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
trong tình hình mới.

KẾT LUẬN
Vấn đề tơn giáo trên thế giới hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng,
khơng chỉ riêng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, mà là vấn đề của tất cả các
quốc gia trên thế giới. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần
phải được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết, địi hỏi phải có những phương pháp
giải quyết đúng đắn.

Mỗi cán bộ, đảng viên trong Quân đội cần quán triệt sâu sắc và toàn diện
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về tơn giáo, tín ngưỡng. Đồng thời, cần vận dụng
linh hoạt, khoa học, sáng tạo vào thực tiễn, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động
lợi dụng tôn giáo xâm phạm đến an ninh quốc gia. Kiên quyết đấu tranh làm thất
bại âm mưu, thủ đoạn chiến lược “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch,
phản động đang lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống phá
sự nghiệp cách mạng nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Chấp hành Trung ương (1998), Chỉ thị 37/CT-TW ngày 2 - 71998, về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Hà Nội.
[2] Ban Tư tưởng Văn hóa - Trung ương (2002), Vấn đề tơn giáo và chính
sách tơn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23


[3] Phạm Văn Chúc (2016), Đặc điểm ý thức tôn giáo, Tạp chí Khoa học
xã hội Việt Nam, số 7 (104)/2016.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8] Nguyễn Nguyên Hồng (2018), Quan điểm đổi mới của Đảng về tơn
giáo, tín ngưỡng, Tạp chí Cộng sản điện tử, />[9] Đỗ Quang Hưng (2016), Từ sự đổi mới nhận thức đến sự đổi mới về
chính sách tơn giáo, />[10] Hồng Thị Lan (2014), Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai
trị của tơn giáo và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lý

luận Chính trị, số 4, tr. 24 - 30.
[11] V.I.Lênin, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
[12] V.I.Lênin, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
[13] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
[14] C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
[15] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[16] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
24


[17] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[18] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[19] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

25


×