Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.92 KB, 8 trang )

DIỄN NGÔN CHẤN THƯƠNG TRONG TIỂU THUYẾT NỮ
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
NGUYỄN ÍCH CỎ MAY
Trường Đại học Sư phạm - Đại Học Huế
Tóm tắt: Nghiên cứu giới thiệu sơ lược diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ
Việt Nam đương đại. Mục đích của nghiên cứu là cung cấp cái nhìn tổng quan về sự
bất bình đẳng giới trong xã hội đương thời, qua lăng kính văn chương. Đồng thời đưa
đến thông điệp cho bạn đọc về giá trị của người phụ nữ, khát vọng tự cởi trói và sự
khơng ngần ngại chạm đến những vùng đất “cấm”.
Từ khóa: diễn ngơn chấn thương, tiểu thuyết nữ, Việt Nam, đương đại.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại là giai đoạn văn học có nhiều thành tựu và giá trị cũng
như nhiều thách thức mới mẻ. Hàng loạt cây bút như: Đồn Lê, Võ Thị Hảo, Y Ban, Thùy
Dương, Bích Ngân, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Dương Thụy,
Nguyễn Quỳnh Trang… đã cho thấy sự tài hoa của mình trong việc tạo lập văn bản. Qua q
trình tìm hiểu chúng tơi nhận thấy các nhà văn nữ Việt Nam đã tái hiện “nỗi đau chấn thương”
dưới một cảm quan mới.
Việc tìm hiểu diễn ngơn trong văn học, bản thân nó khơng mới, nhưng tìm hiểu về diễn
ngôn về nỗi đau chấn thương ở một giai đoạn có nhiều nỗ lực đổi mới như văn học nữ đương đại
thì có ý nghĩa rất to lớn.
2. DIỄN NGÔN CHẤN THƯƠNG QUA TIỂU THUYẾT NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Khái niệm diễn ngôn chấn thương trong văn học nữ
Trước tiên diễn ngôn là khái niệm nhiều nghĩa do các nhà cấu trúc luận A.J.Greimas và
J.Courtes đưa ra trong Từ điển giải thích lý luận ngơn ngữ của hai ông.
“Diễn ngôn được lý giải như một quá trình ký hiệu học, được thực hiện ở những dạng thức
thực tiễn diễn ngơn khác nhau. Khi nói đến diễn ngơn thì trước tiên người ta muốn nói đến
những phương thức hoặc quy tắc đặc trưng của việc tổ chức hoạt động ngôn từ. Chẳng hạn
J.C.Coquet gọi diễn ngôn là sự gắn kết các cấu trúc nghĩa vốn có những quy tắc tổ hợp và biến
đổi riêng. Do vậy đôi khi người ta dùng diễn ngôn như một khái niệm gần với phong cách, ví dụ
“diễn ngơn văn học”, “diễn ngơn khoa học” của phạm vi tri thức khác nhau: triết học, tư duy


khoa học tự nhiên cho đến tận biệt ngữ - phong cách cá nhân nhà văn. Ở trần thuật học người ta
phân biệt giữa các cấp độ diễn ngôn trên đó hoạt động những bậc trần thuật được ghi nhận
bằng văn tự trong văn bản tác phẩm: tác giả hiển thị, độc giả hiển thị, nhân vật kể chuyện, v.v...
và các cấp độ giao tiếp trừu tượng, hoạt động trên đó là tác giả ẩn tàng, độc giả ẩn tàng, người
trần thuật trong trần thuật phi cá nhân” [tr. 156].
Bên cạnh đó, diễn ngơn là một cấu trúc siêu văn bản, nó khơng nằm gọn trong bất kỳ một
văn bản cụ thể nào mà ẩn chứa ở nhiều văn bản khác nhau. Diễn ngôn là khi tác giả làm cho
chúng ta thấy được những dự định, những chủ kiến của họ. Mỗi giai đoạn lịch sử văn hóa có một
quy ước diễn ngôn nhất định. Chỉ trong những quy ước và chuẩn mực mọi người đặt ra diễn
ngôn mới được hình thành và vận hành. Diễn ngơn là sự kiến tạo thế giới theo một quan niệm, tư
tưởng nhất định. Diễn ngơn là cấu trúc biểu nghĩa. Nó có tầng bậc của nó. Nó được tạo thành từ
các cặp đối lập cơ bản.
44


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

Diễn ngơn cịn là cách nói năng, phương thức biểu đạt về con người, thế giới, về các sự
việc trong đời sống. Diễn ngơn biểu hiện thành hình thức ngơn ngữ. Do đó nghiên cứu diễn ngôn
là nghiên cứu ngôn ngữ. Diễn ngôn là hiện tượng tư tưởng. Diễn ngôn không phải là công cụ
diễn đạt, mà là bản thể tư tưởng, bản thân tư tưởng, mọi tư tưởng đều biểu hiện thành diễn ngơn.
Ngồi diễn ngơn mọi tư tưởng khơng tồn tại. Do đó, nghiên cứu diễn ngơn là nghiên cứu tư
tưởng. Không phải tư tưởng trong dạng lý thuyết thuần túy mà tư tưởng ở dạng thực tiễn.
Theo bản dịch của Hải Ngọc trong hai cơng trình của Amos Goldberg và Cathy Caruth
“Chấn thương” vốn là một thuật ngữ y học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Chấn thương chia làm
hai dạng là chấn thương thể xác và chấn thương tinh thần. Chấn thương về mặt thể xác là thương
tổn một bộ phận cơ thể do tác động khách quan bên ngoài. Chấn thương về mặt tinh thần là trạng
thái đau đớn tuyệt vọng, vỡ mộng của con người tồn tại dai dẳng một cách khó hiểu khi gặp một

cú sốc về tâm lý, để lại một vết thương lòng không thể hàn gắn nổi. Chấn thương trong văn học
không phải là một tình trạng bệnh tật hay một sự đau đớn thể xác, mà là những vết thương tinh
thần tái diễn, chúng xuất hiện như một chuỗi sự kiện đau khổ mà người ta khơng có khả năng
kiểm sốt được.
Lý thuyết về chấn thương ra đời gắn liền với những chấn động kinh hoàng của thế giới.
Tiêu biểu là thảm họa khủng bố và hủy diệt người Do Thái của phát xít Đức. Đây là một trong
những tấm thảm kịch lớn nhất của nhân loại, là trận bom nguyên tử ném xuống thành phố
Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản. Người nghiên cứu về chấn thương là S.Freud. Ông đã
phác thảo nhiều luận điểm về chấn thương và kinh nghiệm chấn thương. Ơng dùng văn học để
mơ tả kinh nghiệm chấn thương vì cho rằng văn học chú ý đến mối quan hệ phức tạp giữa sự biết
và không biết. Những trang miêu tả chấn thương có sức hấp dẫn mạnh mẽ.
Chấn thương không đơn thuần chỉ thể hiện mức độ dữ dội, khốc liệt của sự rung động mà
còn tác động của chính bản chất khó hiểu của nó. Chấn thương kháng cự lại mọi cách hiểu đơn
giản về nó. Câu chuyện về chấn thương là một câu chuyện về một thứ kinh nghiệm đến muộn,
kinh nghiệm chấn thương. Đó là chứng nhân về sự tác động vơ hạn của chấn thương lên cuộc
đời. Chấn thương hoặc là đẩy con người đối mặt với cái chết, hoặc tồn tại trong trạng thái khổ sở
ngấm ngầm, dai dẳng và liên tục tái diễn vết thương trong phần đời còn lại. Ngôn ngữ chấn
thương là cả một sự chịu đựng câm lặng liên tục tái diễn. Cho nên việc viết về câu chuyện chấn
thương khơng chỉ có ý nghĩ miêu tả lại cuộc đời người viết mà nó cịn là câu chuyện thực sự cho
phép cuộc đời khả dụng.
Diễn ngôn chấn thương trong văn học là diễn ngôn về những con người mang nỗi đau, mất
mát. Đó là một khuynh hướng diễn ngơn đặc trưng của tiểu thuyết đương đại. Có thể nói sự
chuyển đổi tinh thần hi sinh tuyệt đối sang sự thức tỉnh ý thức nhân văn sâu sắc trong thời đại
hiện nay chính là cội nguồn quan trọng để làm nảy sinh khuynh hướng diễn ngơn chấn thương.
Đó là những tiếng nói đầy tủi hờn, uất nghẹn của những con người bé nhỏ. Họ chính là chủ thể
của những diễn ngôn chấn thương.
Diễn ngôn chấn thương trong văn học nữ giới với chủ thể là người phụ nữ cũng chính là
chủ thể của diễn ngơn chấn thương. Cuộc đời của những nữ nhân vật luôn đa đoan, không trọn
vẹn, khơng một cuộc tình êm ả, đối với gia đình thì tan tác, chia lìa, khơng một kết thúc nguyên
vẹn, tròn trịa ngay ngắn. Dường như hầu hết tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại đều viết về

người phụ nữ được xây dựng trên nỗi ám ảnh về cái tàn lụi, tan rã. Đàn bà trong thế giới của các
tác giả nữ là những nhân vật khơng hồn tồn tích cực. Họ dường như khơng làm chủ được
cuộc đời mình mà như những con rối dưới bàn tay của những người đàn ông trong xã hội đầy
phong ba.
45


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

Đàn bà không phải là đàn bà, thiên chức của họ đã bị hủy hoại, triệt tiêu bởi chính những
tác động của xã hội. Có thể nói, qua những nhân vật nữ bị sang chấn về mặt tinh thần, mức tố
cáo xã hội, phủ nhận xã hội đạt hiệu quả cao hơn. Vì thế họ càng đào sâu vào những chấn thương
bằng con mắt của những con người bị chấn thương để thể hiện những mặt trái, những khuất lấp
trong thế giới nội tâm nữ giới mà từ trước đến nay ít ai chạm tới được. Nó tơ đậm những đau
thương, mất mát của người phụ nữ lúc bấy giờ. Diễn ngôn chấn thương đã chạm đến những tầng
sâu của bản năng giới.
Hầu hết, trong các tác phẩm, nhân vật nữ vừa là chủ thể diễn ngôn, vừa là chủ thể hành
động. Thông thường họ luôn hướng đến một thế giới thế tục của đàn bà. Tuy nhiên diễn ngôn
chấn thương trong văn học được biểu hiện rõ nhất là do người đàn ông trực tiếp gây nên đối với
người đàn bà. Hầu hết các nhân vật nữ đều bị chấn thương bởi những người đàn ơng vơ trách
nhiệm. Đó có thể là người cha, người chồng, người tình và đơi khi là người đàn ơng thống qua
trong cuộc đời họ. Chính những người đàn ơng đó đã biến cuộc đời người đàn bà trở nên đau
khổ, bất hạnh. Diễn ngôn chấn thương trong văn học nữ giới là hình thức phê phán đàn ông một
cách sâu cay nhất.
2.2. Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại qua một số tác phẩm
tiêu biểu
Tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại đã “mở cánh cửa vào thế giới phụ nữ” ở những mức
độ và biểu hiện khác nhau.

Diễn ngôn chấn thương về phạm trù tình yêu và tình dục là một phương thức để nữ giới thể
hiện sự nếm trải giới tính. Nó cũng làm nên nét khác biệt trong văn phong nữ giới. Tác giả nữ
với hình tượng nữ giới đóng vị trí trung tâm chi phối tồn bộ tác phẩm, đã tự cởi bỏ những ràng
buộc cũng như định kiến của xã hội để tạo nên nét khu biệt trong tác phẩm của mình. Thế giới
đàn bà này nhà văn nam ít chạm đến vì khơng có sự nếm trải. Thơng qua các tác phẩm của mình,
nhà văn nữ địi hỏi đối tượng tiếp nhận nói chung, nam giới nói riêng phải thơng hiểu và thừa
nhận sự hiện diện của chủ thể nữ tính.
Các tác giả nữ đương thời như: Võ Thị Xuân Hà, Y Ban, Thùy Dương, Bích Ngân, Đồn
Lê, Dạ Ngân, Phạm Thị Hồi, Phong Điệp, Trần Thu Trang, Nguyễn Quỳnh Trang, Đỗ Bích
Thúy mặc dù không gian sống khác nhau, thời gian sống không đồng nhất. Tuy nhiên bằng tài
hoa của mình, các tác giả nữ đã tạo nên những trang viết đặc sắc về phạm trù nếm trải giới tính.
“Thiên sứ” là tác phẩm đầu tay của Phạm Thị Hoài. Hoài - nhân vật chính của “Thiên sứ”
- lớn lên trong căn nhà độc một phịng, 16 mét vng, gạch nâu; phịng độc một cửa sổ. Là người
khao khát u thương, Hồi nhìn ngắm cuộc đời bằng đôi mắt yêu thương. Thế giới hỗn tạp, lộn
xộn, đau khổ mà Hồi chứng kiến, có hình ảnh người mẹ rít qua khẽ răng chì chiết ông bố không
xoay ra giấy dầu lợp nhà. Cô cảm nhận được sự vất vả của bố mẹ trước miếng cơm manh áo
cuộc đời. Trước ngưỡng cửa của việc nếm trải giới tính cơ đã dừng lại cuộc đời mình.
“Tiền định” của Đồn Lê khơng có khám phá mới mẻ gì về phong cách. Tác giả đã cung
cấp những sự kiện đầy ắp với những cảm xúc tinh tế, chú ý đến những rung động nhỏ của sự
sống, những xáo trộn và ám ảnh của tuổi dậy thì. Trong tác phẩm này, Đoàn Lê mơ đến một xã
hội mà ở đó người phụ nữ làm chủ. “Tiền định” là hồi ức của người phụ nữ tên Chín về cuộc đời
đã qua của mình với đầy rẫy những thăng trầm. Chín trở thành đàn bà ở tuổi 17, không lãng mạn
như trong tiểu thuyết, không ngọt ngào như cô hằng khao khát mà đó là cảm giác ân hận, đau
khổ lẫn tiếc nuối. Nó trở thành vết hằn ám ảnh cơ suốt một đời: “Cái thân thể mười bảy chưa hề
có kinh nghiệm va chạm, co rúm lại vì bỗng nhiên xé đau. Cô không tưởng tượng được sự xâm
phạm ấy mới ê chề làm sao, dơ dáy làm sao! Cô lặng lẽ khóc khơng thành tiếng, đau khổ, ân hận
46


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016


11/2016

và chợt hiểu sự dại dột của mình khơng cứu vãn được nữa. Cô bỗng ghê tởm cái thân người xa
lạ không một mảnh vải, trắng trợn cọ xát, quấn xiết lấy cô. Cô ghê tởm thứ nước nhầy nhụa lẫn
với mùi máu đỏ chảy ra từ cơ thể mình… Cơ thống thấy mùi tanh tưởi của nó và run bắn người
vì xấu hổ” [tr.42].
Trong “Gió từ thời khuất mặt” sự nếm trải giới tính đã trở thành vết đau hằn sâu trong tâm
khảm như Tiền định nhưng nó vẫn gợi cho người đọc phần nào nỗi đau của đàn bà. Cái thời tất
cả được kêu gọi sống, chiến đấu, lao động theo đủ loại gương mẫu. Thời gian lịch sử lắng lọc
qua trí nhớ của Ngân. Cịn lại khơng phải là hào hùng mà là đắng cay tức tưởi thời chiến tranh,
không phải là tự hào mà là chua xót hoang mang sau đó - đã lưu lại trong mắt cơ bé - cô gái - đàn
bà. Đến việc nếm trải giới tính cũng trong hồn cảnh thật đặc biệt: “Tiếng lục đục hối hả dưới hố
tăng xê giữa giờ báo động. “Nhanh lên anh, nhanh lên anh, báo yên rồi…”, “Em…”, Tiếng
chàng trai rên trong cực lạc khơng khác gì tiếng người sắp chết” [tr.61].
Những bạn trẻ sinh vào những năm 90 của thế kỷ trước, phải đối mặt với nhiều tiềm ẩn bất
thuận cho việc phát triển lành mạnh tâm sinh lý lứa tuổi đến từ gia đình, xã hội, đó là Ken, em
trai Shu và em gái Shi những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết “9X’09” của nhà văn Nguyễn
Quỳnh Trang. Có thể nói, với “9X’09”, Nguyễn Quỳnh Trang đã phát triển sự đào sâu cõi tâm
thức đưa người đọc đi trên con đường tìm kiếm thế giới mới. Trước những sóng gió cuộc đời,
Ken đã chọn bng xi, chấp nhận và sống bám vào đòi hỏi vật chất. Vậy cịn Shi - cơ em gái
đã lựa chọn như thế nào? Cơ đã tự nếm trải giới tính, nhưng sau đó nó đã để lại cho cơ những
hậu quả khác.
“Ra là cô đã biết làm cái ấy rồi đấy, phải khơng?”
Len gật đầu. Rồi vênh mặt lên.
“Thì sao nào? Bằng này tuổi mà chưa biết đến chuyện ấy có phải là ngu khơng?”
“Thế nên mới dính cái vết kia, vì ngu! Cịn gì nữa.”
Len lí nhí.
“Đừng nói cho ai biết nhé, anh Ken, không em chết mất.”
“Thằng khốn kiếp đó là thằng nào?”

“Tình một đêm.”
“Cơ đi khám bác sĩ nhanh, rồi còn lo thuốc thang điều trị. Nếu anh khơng nhầm, mày bị
dính mụn cơm hoa liễu rồi.”
“Làm gì có chuyện. Em bắt thằng ấy dùng bao từ đầu đến cuối mà.”
“Từ đầu của cô là khi nào? Khốn nạn cho thân cơ. Nó chỉ cần gại chim vào mơng cơ vài
cái, cơ cũng đủ dính hàng trăm con virus rồi. Rồi cô phải mang chúng theo cả đời” [tr.55].
Như vậy, diễn ngôn chấn thương về nếm trải giới tính đã làm nên nét khu biệt của văn
chương đương đại. Mỗi nhân vật trong một tác phẩm lại có sự nếm trải giới tính khác nhau.
Trong những hồn cảnh không tưởng của cuộc sống đầy biến động, bản thân mỗi nhân vật trực
tiếp nếm trải giới tính đồng thời cũng trải qua những chấn động tâm lý khác nhau. Bởi họ chưa
sẵn sàng về tâm lý cũng như sự giáo dục giới tính. Tuy nhiên dù trải nghiệm như thế nào đi nữa,
khơng ít thì nhiều đều mang lại những chấn thương cho các nữ nhân vật.
Hôn nhân - gia đình như là sự sắp đặt giành cho phụ nữ. Ngày xưa, một người phụ nữ kiểu
mẫu truyền thống, trước hết họ phải sống vì gia đình, con cái để xây dựng một mái ấm hạnh
phúc. Chính những điều mà xã hội áp đặt này đã làm cho người phụ nữ chịu đựng những nỗi đau
47


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

trong hơn nhân để rồi họ trăn trở và kiếm tìm hạnh phúc như một quyền sống, quyền tự khẳng
định chính mình.
Từ khi chưa có lý thuyết chấn thương, lịch sử văn học đã biết đến với những nỗi đau trong
hôn nhân. Con người đặc biệt là nữ giới luôn phải sống trong những quy định của xã hội. Hạnh
phúc hôn nhân là khát khao của mỗi một người phụ nữ. Đối với một người phụ nữ, nhất là người
phụ nữ đa cảm thì một khi hạnh phúc của họ bị chà đạp, nó như một vết thương khó lành trong
tâm hồn. Số phận người phụ nữ bị nhốt chặt khi tiến vào ngưỡng cửa hơn nhân. Cũng chính vì
thế mà chấn thương trong hôn nhân không chỉ mang đến những hệ lụy về thân xác mà còn cả về

tinh thần.
Trong dịng văn chương đang ngày càng khẳng định vị trí, diễn ngôn chấn thương trong
phạm trù hôn nhân dường như chưa bao giờ bị lãng quên. Với diễn ngôn chấn thương, hình
tượng người phụ nữ là trung tâm kiến tạo văn bản. Có thể, đó là chấn thương do hệ lụy chiến
tranh, có thể là chấn thương do xung đột văn hóa, nhưng bộc lộ mạnh mẽ nhất đó là do người
đàn ông trực tiếp gây nên đối với chủ thể diễn ngôn là người đàn bà. Hầu hết các nhân vật nữ
đều bị chấn thương bởi thế giới đàn ông tàn nhẫn, giả dối, thô lỗ. Chính họ biến cuộc đời những
người đàn bà thành bất hạnh.
Trước hết, đó là thế giới tồn tại những con người có nỗi đau trong quá khứ. Những nhân
vật mang thai là kết quả của cuộc tình ngồi hơn nhân. Bản thân cuộc sống là một dòng chảy tự
nhiên mà những nhu cầu, đam mê, khát vọng của người phụ nữ đều đáng được trân trọng. Trân
trọng, bảo vệ cuộc sống tự nhiên với tất cả những gì hồn nhiên, tươi mát, sinh động là một thái
độ sống, một quan điểm sống tích cực của những người phụ nữ. Ai cũng cần có một gia đình bởi
gia đình là nơi trở về, là điểm tựa vững bền cho con người trong cuộc sống. Hình ảnh những
người phụ nữ truyền thống thủy chung, nhân ái đã gieo vào lòng ta những niềm tin tốt đẹp nơi
con người. Song đôi khi những vấp váp, bộn bề trong cuộc sống đã khiến cho sự không hiểu
nhau giữa mọi người dẫn đến những bi kịch đáng tiếc Những tâm sự, nỗi niềm của người phụ nữ
cô đơn như nhắc nhở chúng ta về cách cư xử giữa con người với con người. Con người cần phải
xem xét lại vai trị, vị trí, trách nhiệm của mình trong gia đình, xã hội để có cách ứng xử cho hợp
lý. Các nữ văn sĩ đã khiến cho người đọc khơng ít lần phải rơi nước mắt trước bất hạnh của
người phụ nữ trong cuộc hành trình tìm kiếm sự đồng cảm của người thân. Điều ấy có nghĩa là
người phụ nữ hiện đại dẫu có mạnh mẽ, tự tin, quyết liệt hơn vẫn là người phụ nữ truyền thống,
dịu dàng, nhân ái, thủy chung, đáng thương và hết sức cơ đơn. Nhưng rồi trong tổ ấm đó, họ
khơng tìm được tiếng nói chung. Chính vì sự cơ đơn đó họ tìm đến người đàn ơng mà họ u
thương với hi vọng được sưởi ấm. Và rồi họ mang giọt máu kết tinh của tình u. Nhưng rồi họ
khơng đủ dũng cảm để nắm lấy tình yêu này. Trong những trường hợp này nhân vật nữ lựa chọn
“chối bỏ một phần thân thể”. Tuy nhiên họ thường có những sang chấn tâm lý nặng nề. Với
người phụ nữ tình yêu ln là cõi thiêng liêng, được hịa trộn bằng máu, bằng nước mắt và bằng
cả những kỷ niệm yêu thương. Tình u ấy ln gọi họ tìm về, khơng phải để ru mình trong hơn
nhân khơng hạnh phúc, để rồi dằn vặt, để rồi trăn trở. Tuy nhiên khi họ có được kết tinh của tình

u, họ lại khơng đủ dũng cảm để nắm bắt hạnh phúc của mình. Người đàn bà lựa chọn “chối bỏ
một phần thân thể”.
Với Chín nỗi đau đã xâm chiếm cơ thể. Và người đàn bà ấy đã chối bỏ đứa con đang thành
hình của mình. Bởi cơ chưa kịp chuẩn bị cho mình tâm thế với cuộc sống hiện tại, lại luôn bị hút
theo tiếng gọi của tình yêu, tình dục bởi những thằng đàn ơng khơng trách nhiệm. Và người đàn
bà đó khơng thể chịu nổi áp lực của dư luận xã hội, khơng thể chịu nổi điều tiếng của thiên hạ.
Đồn Lê đã thành công miêu tả nỗi đau của người đàn bà bằng những từ ngữ gợi hình: cơn rét
48


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

đột ngột xâm chiếm cơ thể, sợ hãi, chết mất thôi, trả giá cho sự dại dột. Bên cạnh nỗi đau thân
xác là nỗi đau về tinh thần, là sự tự dằn vặt bản thân. Đoàn Lê đã lên tiếng để bảo vệ quyền sống
của thai nhi. Một mặt họ thể hiện nỗi đau, sự dằn vặt, ám ảnh của người mẹ. Mặt khác, các tiểu
thuyết gia này tạo nên giá trị trong mối quan hệ gia đình và tình yêu. Họ đã gửi đến bạn đọc một
thông điệp về giá trị sự sống của con người, từ khi còn là một bào thai trong lòng mẹ cho đến lúc
bị chối bỏ.
Tiếp theo, người chồng không đồng ý giữ thai cũng tác động đến quyết định chối bỏ thân
thể. Bởi cuộc sống mưu sinh của họ còn quá nhiều vất vả (Từ trong Xuân Từ Chiều, Tiệp trong
Gia đình bé mọn). Với nỗi đau của Từ “Từ đẩy chồng ra. Chồng hỏi, sao vậy, giận à? Từ ngấm
nguẩy, Bống có em rồi. Chồng Từ giật mình, nới lỏng vịng ơm ra, thật à? Gần một tháng rồi để
đẻ nhé. Lấy gì mà ni, ni bống cịn khơng đủ nữa là. Thế thì sao? Thì em biết rồi cịn gì”
[tr.107]. Nhân vật Từ, trong Xuân Từ Chiều đã trải qua nỗi đau đớn chối bỏ thân thể.
Hơn ai hết, Từ từng là sinh viên trường y, cô biết phá thai là một tội ác, việc đó khơng phải
một lần mà nó lặp lại lần này đến lần khác. Từ dằn vặt, sợ hãi nhưng người chồng lại để cô cô
đơn đi vào nhà hộ sinh: “Đến trước cửa nhà hộ sinh thì chồng bảo, em vào đi anh ở ngoài này
chờ. Từ xịu mặt nhưng không muốn nài chồng” [tr.108]. Và nỗi đau đớn, ám ảnh của người đàn

bà: “Bác sĩ bảo Từ, mềm người ra, thở đều đi, đặt hai tay lên ngực, mở mắt ra, nhanh thơi mà.
Từ muốn gồng mình lên để đỡ đau. Bác sĩ ra lệnh, mềm người ra, thở đều đi. Cái đau như rứt
ruột ra” [tr.108].
Không chỉ dừng ở đây, Từ lại một lần nữa chối bỏ đứa con của mình: “Nào, thuốc ngấm
rồi đấy, Từ đâu lên bàn đi. Từ bắt đầu run lên. Từ nãy cố nói chuyện với chị Xuân cho quên đi.
Từ lập cập trèo lên bàn. Mềm người ra, để hai tay lên ngực, há mồm thở đều đi, nhớ mở mắt ra,
khơng được nhắm mắt đâu đấy. Một cái đau nhói, rồi ruột gan như đang bị kéo ra. Từ cố gắng
thở. Từ sợ cái cảm giác đau này cứ kéo dài mãi thì chết mất” [tr.109]. Nỗi đau đó khơng chỉ về
thể xác, mà hơn thế là những ám ảnh về tinh thần. Bên cạnh đó là những dằn vặt, lo lắng khi đợi
thai ra: “Sáng hôm sau cũng chỉ có vài giọt máu dây trên quần lót. Đã học qua bốn năm trường y
Từ biết đó là hiện tượng khơng bình thường” [tr.109], “Cái thứ Tuột trong người Từ ra chính là
máu, chảy thẫm xuống đùi. Nhìn thấy máu đỏ tươi thẫm đùi Từ hơi hoảng sợ. Cơ bình tĩnh lại
ngay. Từ lấy cái xô màn chùi máu, rồi gấp cái xơ màn đó đóng thành khố lớn” [tr.111].
Với Tiệp, nỗi đau đó được Dạ Ngân miêu tả đến tận cùng với những hình ảnh bàn sản, mùi
máu: “Nàng bấu chặt hai bàn tay vào thành inox của bàn sản, tưởng như có từng nhát cuốc bổ
xuống, âm âm nhói buốt, cào xé, hai bắp đùi run bắn như bị người ta xé đôi như xé một con ếch.
Hai hàm răng va vào nhau lập cập, lạnh quá, lạnh như đã chui xuống tận âm ti nhưng những thứ
cuốc thuổng ấy vẫn cứ đào khoét và chúng cứ ghì nằng xuống, xuống mãi, xuống đến cái nấc
cuối cùng của con đường địa ngục” [tr.51]. Không chỉ tồn tại bởi nỗi đau thân xác Tiệp đau đớn
hơn khi tất cả những người cùng cảnh đều có người thân đến cịn nàng - một người đàn bà có
chồng thì lại như một con mẹ hoang dơ dáy.
Cuối cùng, nhân vật trong tiểu thuyết đương đại là những người làm mẹ chưa sẵn sàng để
đón nhận đứa con của mình. Họ quyết định chối bỏ một phần thân thể vì khơng vượt qua được
định kiến xã hội với lý do mang thai trước hôn nhân. Các nhân vật thường phải chịu áp lực q
lớn của gia đình người đàn ơng, họ bị dồn nén trong nỗi cô đơn để đi đến quyết định kinh khủng
này. Vì là những người mẹ, trong những giây phút cô đơn ấy, một cách bản năng họ biết rằng họ
vừa kết liễu sự sống của một con người đang lớn lên từng ngày trong lịng mình. Quyết định chối
bỏ một phần thân thể là một quyết định rất khó khăn.

49



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

Trong không gian ảo, nhà văn đã dụng công và xây dựng được một thế giới sinh động, đa
dạng, phức tạp. Đó là những con người bình thường trong cuộc sống thường nhật mà bất kỳ ai
cũng có thể bắt gặp hoặc đơi khi thấy mình ở trong đó. Bao bọc trong cái vỏ của thế giới mạng là
cuộc sống chốn thị thành của giới trẻ được bóc ra từng mảng đến trần trụi nhất. Con người hiện
đại với những toan tính, lo lắng, giằng xé để tồn tại đã được tác giả khắc họa thành cơng. Trong
đó có cả những con người có tên và khơng tên với nhiều thành phần giai cấp, nghề nghiệp trong
xã hội. Đặc biệt Phong Điệp đã tạo ra được một thế giới phụ nữ trong tác phẩm. Đa phần trong
số đó là những con người bất hạnh trong cuộc sống, tình u, hơn nhân. Họ sống cô đơn, bế tắc
trước cuộc sống thực tại. Bên cạnh đó là những người phụ nữ lấy cái tơi đầy bản lĩnh của mình
để chống chọi lại sự hỗn độn, bề bộn của cuộc sống. Sự bất hạnh của người phụ nữ trong tác
phẩm chủ yếu xuất phát từ sự ngoại tình, phản bội, ham mê dục vọng của đàn ông. Trong cuộc
sống, nhất là trong xã hội hiện đại khi mà những giá trị vật chất có chiều hướng lấn át giá trị tinh
thần. Nó sẽ xảy đến với bất kỳ ai không làm chủ được bản thân mình hoặc tìm cách thỏa hiệp với
cái xấu, cái ác. Tha hóa có mn hình vạn trạng và được biểu hiện rất phức tạp.
Đặc biệt, vấn đề này được Phong Điệp thể hiện qua tiểu thuyết Blogger. Trong Blogger,
nhà văn đã nhìn thấy nỗi đau của người đàn bà qua việc chối bỏ thân thể. Hạ vẫn biết là người
mẹ đau khổ nhất là không được sinh con, cô thấy tội lỗi quá, cô tự dằn vặt bản thân mình cùng
với nỗi đau thân xác mà cơ đang chịu đựng. Đó là tiếng thảng thốt của chính mình, là tiếng trách
móc, ốn thương của đứa con chưa kịp chào đời: “Cơ nhận ra sự thèm khát của nó từ cái mắt
duy nhất, ngằn ngặt nước” [tr.90]. Nó thèm khát có mẹ cịn cơ thèm khát được làm mẹ. Cuộc đời
của một người đàn bà trẻ không kinh nghiệm, rơi vào cạm bẫy của đàn ông. Cô đã không để lại
cho bản thân mình một con đường nào khác. Khi một cánh cửa này đóng lại sẽ có một cánh cửa
khác mở ra nhưng đối với cơ phía trước là một khoảng khơng đen ngịm.
Với hồn cảnh sống ln phải chịu những thiệt thòi, những người đàn bà mang chung nỗi

đau chối bỏ thân thể. Đó là nỗi đau mà khơng có bất kỳ một người đàn ơng nào có thể trải qua
được. Chính vì vậy, khi nghĩ về người đàn bà thì vết khắc sâu nhất trong tâm khảm mọi người là
thân phận, là nỗi đau và là sự bất công.
3. KẾT LUẬN
Tiểu thuyết nữ đương đại đã đi sâu vào thế giới bí ẩn của người phụ nữ để thể hiện những
bất công, những sang chấn tinh thần của người đàn bà. Có thể nói tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại là một cuộc hành trình về những nỗi đau. Thông qua một vài tác phẩm tiêu biểu,
người đàn bà đã đi từ cõi cô đơn để rồi lạc bước. Tất nhiên, họ đã phải trả cái giá rất đắt cho việc
lạc lối của mình. Trong diễn ngơn chấn thương, chủ thể diễn ngơn dựa trên tiếng nói và kinh
nghiệm cá nhân. Chủ thể diễn ngôn gắn liền với nỗi đau chấn thương đã nói lên được những mặt
trái, những khuất lấp, những ẩn ức trong cuộc sống.
Dưới góc nhìn diễn ngơn chấn thương, văn học đương đại đang có xu hướng phản ánh trực
diện những vấn đề sâu kín của phụ nữ. Khơng cịn tránh né, nhà văn đã khắc họa đầy đủ thông
qua tuyến nhân vật nữ. Thế giới nội tâm của giới nữ được thể hiện chân thực, tinh tế, phong phú
hơn bao giờ hết đồng thời tái hiện được những thiệt thòi của người đàn bà thông qua nối đau
chấn thương dưới một cảm quan mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]

Tuấn Anh (2008), Mỹ học tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học
nghệ thuật, Tạp chí Sơng Hương, số 23.
M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
50


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

[3]
[4]

[5]

[6]
[7]
[8]

11/2016

Betty Friedan (2015), Bí ẩn nữ tính, Nguyễn Vân Hà dịch, Nxb Hồng Đức.
Dạ Ngân (2010), Tiểu thuyết Gia đình bé mọn, NxbThanh Niên.
I.P.Ilin và E.A.Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu
văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Đoàn Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đoàn Lê (2010), Tiểu thuyết Tiền Định, Nxb Hội Nhà văn.
Phong Điệp (2013), Tiểu thuyết Blogger, Nxb Văn học.
Trần Huyền sâm (2016), Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại, Nxb
Phụ Nữ.

Title: TRAUMA DISCOURSE IN CONTEMPORATORY NOVELS OF VIETNAMESE FEMALE
AUTHORS
Abstract: The paper briefly introduces trauma discourse in contemporatory novels of Vietnamese female
authors. The purpose of this paper is providing informations of sexism in society then. As well as sending
a message to all readers about the female’s values, frankly expressing the equality of ambition of arising
by themselves and also demonstrating that they don’t hesitate to come close to the forbidden lands.
Keywords: trauma discourse, female authors, Vietnam.

NGUYỄN ÍCH CỎ MAY
Học viên Cao học, chuyên ngành Lý luận văn học, khóa 23 (2014-2016), Trường Đại học Sư phạm - Đại
học Huế.
Số điện thoại: 0911257207, Email:


51



×