Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nhân vật tha hóa trong truyện ngắn nữ việt nam đương đại (lê minh khuê và nguyễn thị thu huệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

NHÂN VẬT THA HÓA TRONG TRUYỆN NGẮN
NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
(LÊ MINH KHUÊ VÀ NGUYỄN THỊ THU HUỆ)
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam

Hà Nội - 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn này, tôi đã nhận được
sự quan tâm và giúp đỡ rất lớn từ quý Thầy cô, đồng nghiệp và gia đình. Tơi
xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành của mình đến:
Thầy giáo, TS.Nguyễn Văn Nam - người trực tiếp hướng dẫn về mặt
chuyên môn, đã rất tận tình chỉ dẫn, định hướng và giúp đỡ tơi trong suốt q
trình thực hiện luận văn.
Q Thầy cơ trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội và
Phòng Sau Đại học, q Thầy cơ đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn tơi trong suốt
q trình học tập tại trường và nghiên cứu hoàn thành luận văn này.
Ban Giám hiệu, quý Thầy cô, đồng nghiệp trường trung học phổ thông


Vĩnh Tường – Huyện Vĩnh Tường – Tỉnh Vĩnh Phúc đã quan tâm, giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện
đề tài này.
Quý Thầy cô phản biện và hội đồng chấm luận văn đã đọc và có những
nhận xét, góp ý quý giá về luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã sát cánh, động viên và
giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.
Vĩnh Phúc, tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phượng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 9
NỘI DUNG ..................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1. CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT
NAM ĐƯƠNG ĐẠI ........................................................................................ 10
1.1. Quá trình đổi mới và cảm hứng phê phán trong văn học Việt Nam đương
đại .................................................................................................................... 11
1.2. Khái niệm con người tha hóa – một kiểu nhân vật tiêu biểu gắn liền với
cảm hứng phê phán ......................................................................................... 16
1.3. Khái quát về tác giả Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ..................... 21

1.3.1. Nhà văn Lê Minh Khuê ......................................................................... 21
1.3.2. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................................... 24
Tiểu kết ............................................................................................................ 27
CHƯƠNG 2. CÁC BIỂU HIỆN CỦA SỰ THA HÓA TÍNH CÁCH CON
NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ ........................................................ 28
2.1 Những biểu hiện của tha hóa bên trong tính cách nhân vật ...................... 29
2.1.1. Sự thui chột của lương tâm, đạo đức, trí tuệ ........................................ 29
2.1.2. Sự lấn át của dục vọng, bản năng, những ham muốn thấp hèn, những
đòi hỏi bệnh hoạn ............................................................................................ 37
2.2. Những biểu hiện tha hóa qua hành vi và quan hệ xã hội ......................... 43


2.2.1. Mất khả năng tự điều chỉnh .................................................................. 44
2.2.2. Mất khả năng giao tiếp lành mạnh với người khác .............................. 47
2.2.3. Sự thể hiện thái quá, lố bịch cái tôi ...................................................... 51
2.3. Phân hóa của nhóm ................................................................................. 54
2.4. Ý nghĩa nhân văn của hình tượng ............................................................ 57
Tiểu kết ............................................................................................................ 64
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SỰ THA HÓA CỦA CON NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ ...................................................................... 65
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 66
3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và tình huống ........................................ 71
3.3. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật ................................................ 78
3.4. Ngơn ngữ và giọng điệu ........................................................................... 83
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 98


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học là loại hình nghệ thuật dặc thù, quan tâm đến con người
trên nhiều phương diện, nhiều góc độ. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn văn học
khác nhau, số phận con người cũng được thể hiện khác nhau. Văn học dân
gian, văn học trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người cộng đồng.
Văn học hiện đại lại đi sâu vào khám phá từng cá nhân cụ thể. Tùy vào từng giai
đoạn văn học, phụ thuộc vào cơ sở tâm lý, mĩ học, phương thức tự sự và quan
niệm nghệ thuật về con người của từng thời đại mà hình tượng con người đi vào
trong các tác phẩm văn chương sẽ mang dáng vẻ riêng, tính cách riêng.
Từ sau năm 1986, đất nước chuyển sang phát triển theo xu hướng kinh
tế thị trường, mở cửa hội nhập.Vấn đề đạo đức của con người được cả xã hội
quan tâm, trong đó đặc biệt là nhà văn, những người rất nhạy cảm với vấn đề
đạo đức của con người. Sứ mệnh của nhà văn là xây dựng những nhân vật
hoàn thiện, hồn mĩ hơn. Đó là nhân vật lí tưởng. Bên cạnh việc xây dựng
những nhân vật lí tưởng, nhà văn cũng có trách nhiệm phê phán tố cáo cái xấu
cái ác thơng qua hình tượng các nhân vật tha hóa.
Nhân vật tha hóa là một góc khác, một phần khác của con người được
soi chiếu, được đặt trong nhiều mối quan hệ xã hội để từ đó bộc lộ đầy đủ
nhất bản chất của mình. Sự tha hóa của nhân vật trong văn chương đã được
quan tâm từ khá sớm, đặc biệt với văn chương hậu hiện đại thế giới, nhân vật
tha hóa, “biến dạng” đã trở thành một hình tượng nghệ thuật nổi bật với nhiều
ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Văn học Việt Nam cũng khơng nằm ngồi dòng
chảy ấy. Ngay từ văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám
năm 1945 chúng ta đã thấy hệ thống các nhân vật tha hóa được xây dựng để
tố cáo hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Do sự ngắt quãng của chiến tranh, phải
đến những năm sau đổi mới chúng ta mới lại thấy sự trở lại của hình tượng


2


nhân vật này một cách rõ nét. Nó cho thấy đây là một vấn đề được quan tâm
và có khả năng phản ánh sâu sắc, chân thực bối cảnh xã hội đương thời.
1.2. Văn xuôi Việt Nam từ sau thời kì đổi mới 1986 đã đạt được những
thành tựu đánh ghi nhận với các tên tuổi như: Nguyễn Minh Châu, Ma văn
Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Võ Thị Xuân
Hà, Y Ban … Trong những lớp nhà văn trên không thể không kể đến những
gương mặt các nhà văn nữ tiêu biểu, có nhiều cá tính và cũng có nhiều đóng
góp cho nền văn xi Việt Nam thời kì hậu hiện đại. Trong số những cái tên
nổi bật đó chúng tơi đặc biệt quan tâm tới Lê Minh Khuê và Nguyễn Thị Thu
Huệ. Đây là hai tác giả ln nỗ lực cách tân nghệ thuật, tìm kiếm sáng tạo
một lối viết khác và chính điều này để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người
đọc. Các nhà văn trăn trở trước cuộc sống thực tại của con người, nhanh
chóng phát hiện được bản chất của sự thật. Sự thật đó khơng lãng mạn, chẳng
lý tưởng cũng khơng cịn đơn giản để ngợi ca một chiều. Cuộc sống hiện đại
diễn ra với nhiều cạm bẫy, nhiều xô bồ, với nhiều hạng người, kiểu người, với
nhiều kiểu sống khác nhau. Sự đa dạng và phức tạp của hiện thực đời sống
khiến cho mỗi tác phẩm văn học cũng phải trở nên đa chiều hơn, sâu sắc hơn
để phản ánh được tồn diện. Vì vậy, khi xây dựng nhân vật, các nhà văn
không chỉ hướng tới ngợi ca, không chỉ nhìn thấy mặt phải mà dường như cịn
phải đi sâu vào những tiêu cực, mặt trái của xã hội để thấy một phần khác của
con người. Nắm bắt được yêu cầu đó của thực tế, hai nữ nhà văn đã hướng
ngịi bút của mình tới cuộc sống bộn bề, phức tạp để tái hiện con người trong
một bối cảnh mới – nơi mà sự tha hóa đang diễn ra như một hiện tượng đáng
báo động.
Nhân vật tha hóa trở thành một tuyến nhân vật rất quan trọng trong
sáng tác của hai nữ nhà văn. Hệ thống nhân vật tha hóa được Lê Minh Khuê
và Nguyễn Thị Thu Huệ tái hiện khá đầy đủ, đại diện cho nhiều tầng lớp xã



3

hội. Lê Minh Khuê và Nguyễn Thị Thu Huệ đã vượt qua lối mòn tư duy coi
văn học như một tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản để thể
hiện một cách chân thực sinh động cuộc sống con người như nó đang tồn tại.
Đó là bức tranh nguyên dạng của cõi nhân sinh đầy phức tạp, đa sự.
Tác phẩm của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại luôn nhận được sự
quan tâm của các tầng lớp công chúng bởi cách viết trẻ trung, cách nhận thức
đời sống sâu sắc. Hơn nữa, sáng tác của họ có nhiều cách tân với lối tư duy
nghệ thuật mới mẻ. Đặc biệt, nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hóa trong sáng
tác của hai nhà văn đã mang đến những bất ngờ cho độc giả. Để tìm hiểu nhân
vật tha hóa trong sáng tác của hai nhà văn nữ nói riêng và các nhà văn hiện
nay nói chung, tơi chọn đề tài: Nhân vật tha hóa trong truyện ngắn nữ Việt
Nam đương đại(Lê Minh Khuê và Nguyễn Thị Thu Huệ) làm đề tài luận
văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về truyện ngắn Lê Minh Khuê và Nguyễn Thị Thu Huệ
Lê Minh Khuê là một trong số ít các nhà văn mà các sáng tác không chỉ
thu hút được độc giả trong nước mà còn được biết đến ở nước ngồi. Lê Minh
Kh trưởng thành và đã có những sáng tác đầu tay ngay từ những năm kháng
chiến chống Mỹ. Chị là một nhà văn đã đi qua những biến động lịch sử của
dân tộc từ cuộc kháng chiến thần kỳ đến những năm hậu chiến đói nghèo cho
tới những năm tháng đổi mới nhiều xáo trộn. Với hơn 50 năm cầm bút, Lê
Minh Khuê đã khẳng định được chỗ đứng của mình trên văn đàn, đặc biệt là
với thể loại truyện ngắn. Mỗi tập truyện ngắn của nhà văn khi ra đời đều được
đón nhận nhiệt tình với nhiều bài viết phê bình, giới thiệu khác nhau.
Có thể kể đến những bài viết của các nhà nghiên cứu như Lê Thị Đức
Hạnh với Lê Minh Khuê cây bút truyện ngắn sung sức, Vũ Hà với Lê Minh
Khuê một cốt cách văn chương, Mai Thị Ninh với Truyện ngắn Lê Minh



4

Khuê, các bài viết của Bùi Việt Thắng, Thiên Hương, Cao Thị Hồng, Hồ Anh
Thái,… Bùi Việt Thắng trong những nhận định của mình đã cho rằng Đọc
văn Lê Minh Khuê chúng ta thấy khi viết dường như chị tựa hẳn vào những
ấn tượng, cảm giác. Nhận định ấy đã nhấn mạnh vào một đặc trưng của văn
chương Lê Minh Khuê: đó là hiện thực được cảm nhận bằng trực giác của nhà
văn, tinh tế, nhạy cảm và giàu cảm xúc. Đánh giá về văn chương Lê Minh
Khuê không phải lúc nào cũng có sự đồng thuận. Xung quanh những tập
truyện ngắn của Lê Minh Khuê đều có các cuộc tranh cãi với những góc nhìn,
những hướng tiếp cận sắc sảo cho thấy được sức hấp dẫn của Lê Minh Khuê
và các sáng tác của nhà văn đối với giới nghiên cứu phê bình.
Bên cạnh đó, các luận văn, luận án lấy truyện ngắn Lê Minh Khuê làm
đối tượng nghiên cứu cũng khá nhiều. Các luận văn, luận án nghiên cứu về
truyện ngắn sau 1975 cũng thường lấy các sáng tác của Lê Minh Khuê như
một trong các đối tượng nghiên cứu của mình. Có thể kể đến các cơng trình
như: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Đinh Lưu Hoàng
Thái, Truyện ngắn Lê Minh Khuê nhìn từ thi pháp thể loại của Cao Thị Hồng,
Truyện ngắn Lê Minh Khuê của Mai Thúy Ninh, Phong cách truyện ngắn Lê
Minh Khuê của Hoàng Thị Hải Yến,…
Nguyễn Thị Thu Huệ là một nhà văn nữ trẻ gặt hái được khá nhiều
thành công. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình nữ nhà văn đã gây
được chú ý với các nhà nghiên cứu phê bình.
Năm 1993 trong bài viết Khi người ta trẻ đăng trên báo Văn nghệ số
43, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã chỉ ra Nguyễn Thị Thu Huệ cùng với
một số cây bút trẻ cùng thời chính là những người đã làm nên sự khởi sắc của
thể loại truyện ngắn thời kỳ đổi mới. Sau đó, trong cuốn sách Truyện ngắn
những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại của mình, nhà nghiên cứu này tiếp
tục có những đánh giá và nhận xét khá xác đáng về truyện ngắn Nguyễn Thị



5

Thu Huệ: truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ln có hai mặt như thế - vừa bụi
bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, vừa táo tợn vừa thanh khiết” [48,
50]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng cịn có bài viết Tứ tử trình làng giới
thiệu tập Truyện ngắn bốn cây bút nữ trong đó có một đánh giá mà chúng tôi
cho rằng đã khái quát được cái chất riêng của Nguyễn Thị Thu Huệ Chao chát
và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đau đớn và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn
Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực của ngịi bút nữ có dun trong lĩnh
vực truyện ngắn. Đọc Nguyễn Thị Thu Huệ ta bị cuốn hút trong niềm vui và
nỗi buồn bất tận. Đời sống hiện lên trong từng trang sách của chị bề bộn,
ngổn ngang, ấy vậy mà ngẫm nghĩ nó đâu vào đấy. Nhà văn nghiêng viết về
con người trong khối mâu thuẫn vừa cố dính kết với gia đình như một “hang
ổ cuối cùng”, lại vừa bị ngoại lực giằng xé, lơi kéo...[49, 35].
Có khá nhiều các bài viết đăng trên các báo, các tạp chí chun ngành
giới thiệu, phê bình về các tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ. Các bài viết
này có thể mang tính chất giới thiệu một tập truyện, một sáng tác của nhà văn,
có thể là đi sâu đánh giá, nghiên cứu, phê bình những đặc sắc trong một tác
phẩm nào đó, hoặc cũng có thể là khái quát hơn hướng tới việc chỉ ra đặc
điểm nổi bật trong văn chương của Nguyễn Thị Thu Huệ. Có thể kể đến các
bài viết như Những ngơi sao nước mắt của Đoàn Hương đăng trên báo Văn
nghệ trẻ năm 1996, Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của Hồ Sỹ
Vịnh trên báo Văn nghệ số 35 năm 2002, Những truyện ngắn hay của Lý Hoài
Thu trên Tạp chí Văn học, Nguyễn Thị Thu Huệ trở lại của Khải Ly, … Các
bài viết đăng trên báo điện tử như Ngôn ngữ độc thoại trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ của Lê Na, Nguyễn Thị Thu Huệ - nhà văn của nồng ấm
tình yêu của Nguyên Hương,… Các bài viết có những góc độ tiếp cận khác
nhau, hướng tới những nội dung khác nhau trong sáng tác của Nguyễn Thị

Thu Huệ và cũng có những đánh giá khác nhau về nhà văn này. Tuy nhiên


6

phần đa đều thống nhất ở chỗ khẳng định Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút
nữ tiêu biểu cho truyện ngắn Việt Nam đương thời, có sức hút mạnh mẽ đối
với độc giả.
Các tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ cũng trở thành đề tài luận văn,
khóa luận tốt nghiệp. Có thể kể tới luận án tiến sĩ của Hồng Dĩ Đình năm
2012 Ngơn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (trên tư liệu
truyện ngắn ba nhà văn nữ), các luận văn như Nhân vật truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu năm 2010 của Lê Thị Tuyết,
Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn một số cây bút nữ thời
kỳ 1986-2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy) năm
2009 của Nguyễn Thanh Hồng, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ năm 2014 của Tống Thị Minh,…
Có thể nói các bài nghiên cứu về Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ
khá phong phú, các góc độ của tác phẩm cũng đều đã được khai thác, từ các
tác phẩm cụ thể cho tới các cơng trình mang tính khái qt và hệ thống hơn.
Các ý kiến đánh giá cũng đa dạng nhiều chiều. Đây chính là những gợi mở
cho chúng tơi trong q trình tìm hiểu đối tượng nghiên cứu của mình.
2.2. Về nhân vật tha hóa
Khi nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh
Khuê, đã có khá nhiều các cơng trình chú ý vào nhân vật như một nhân tố độc
đáo của tác phẩm, thể hiện thành công của hai tác giả. Trong các cơng trình
nghiên cứu văn học Việt Nam sau chiến tranh, đặc biệt là truyện ngắn, các
vấn đề về nhân vật cũng đã được đặt ra. Thậm chí khi nghiên cứu phong cách
tác giả, đặc trưng sáng tạo, vấn đề về nhân vật cũng là vấn đề được đặt ra
hàng đầu. Và đặc biệt khi tìm hiểu về nhân vật truyện ngắn giai đoạn này,

nhiều công trình đã chỉ ra vấn đề nhân vật tha hóa. Tuy nhiên, các cơng trình
chỉ lấy vấn đề này làm đề tài trọng tâm thì chưa nhiều.


7

Có thể kể đến các luận văn nghiên cứu về vấn đề nhân vật tha hóa như
Nhân vật tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái của Vũ Đình Vụ, Nhân vật
tha hóa trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, bài viết về Nhân vật tha
hóa trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Cao Thị Hồng,… cho thấy vấn đề
này đã được đặt ra nhưng chưa thực sự được tìm hiểu một cách cơng phu và
thấu đáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra được những đặc sắc về nội dung cũng như về nghệ thuật khi xây
dựng nhân vật tha hóa của hai tác giả. Từ đó có một cách nhìn đầy đủ hơn về
thế giới nhân vật và cảm hứng sáng tạo của các nhà văn nữ đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ đi sâu vào tìm hiểu nhân vật tha hóa trong sáng
tác của hai nhà văn nữ: Nguyễn Thị Thu Huệ và Lê Minh Khuê, qua đó thấy
được giá trị của những sáng tác của hai tác giả trong đời sống văn chương,
thấy được phần nào cuộc sống hiện thực đồng thời thấy được hồi chng cảnh
báo về vấn đề suy thối của đạo đức, lối sống của con người trong xã hội hiện
nay. Bên cạnh đó luận văn cịn tìm hiểu bút pháp nghệ thuật trong một số
truyện ngắn, được hai nhà văn nữ Việt Nam thời đương đại sử dụng khi xây
dựng nhân vật tha hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu là những nhân vật tha hoá trong
truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, Lê Minh Khuê và các biện pháp nghệ

thuật xây dựng nhân vật tha hóa của hai nhà văn. Để hồn thành tốt cơng việc,
luận văn tìm hiểu thêm một số tác phẩm văn học đương đại để có cái nhìn
tồn diện và sâu sắc hơn.


8

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ và Lê Minh Khuê in trong
các tập sau:
- Làn gió chảy qua, Màu xanh man trá, Lê Minh Khuê truyện ngắn
chọn lọc, Quỹ đạo những mảnh đời (Lê Minh Khuê)
- Thành phố đi vắng, 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Cát đợi,
Hậu thiên đường, Nào ta cùng lãng quên (Nguyễn Thị Thu Huệ)
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Tùy theo yêu cầu của từng phần, từng chương mà chúng tôi vận
dụng linh hoạt phương pháp đó.
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là cơng trình nghiên cứu về Nhân vật tha hóa
trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. Từ đó, nó cho thấy vai trò của
nhân vật trong việc nghiên cứu tác phẩm văn học. Đồng thời, thông qua
hướng nghiên cứu này ta sẽ hiểu rõ hơn về tác phẩm, về ý đồ mà nhà văn gửi
gắm trong đứa con tinh thần của mình.

Về mặt thực tiễn: Luận văn góp thêm một phần nhỏ vào những thành tựu
nghiên cứu về truyện ngắn của hai nữ nhà văn . Luận văn cũng góp phần làm
giàu vốn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy về hai tác giả
: Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ và chuyên đề văn học Việt Nam


9

đương đại nói chung trong các trường trung học, cao đẳng, đại học. Từ đó
giúp học sinh có điều kiện hiểu hơn vẻ đẹp văn chương trong sáng tác của Lê
Minh Khuê và Nguyễn Thị Thu Huệ.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần thư mục tài liệu tham khảo, luận
văn của chương tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Cảm hứng phê phán trong văn chương Việt nam đương đại.
Chương 2: Các biểu hiện của sự tha hóa tính cách con người trong
truyện ngắn nữ
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện sự tha hóa của con người trong truyện
ngắn nữ


10

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CẢM HỨNG PHÊ PHÁN
TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Đối tượng hướng tới của văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung
là cái đẹp, chức năng của văn chương là hướng con người tới chân, thiện, mỹ.

Có nhiều cách để văn chương nghệ thuật thực hiện chức năng cao q đó của
mình. Muốn hướng con người tới cái đẹp, văn chương có thể ngợi ca cái đẹp,
tạo dựng nên một quy chuẩn thẩm mỹ để hình thành cho bạn đọc của mình
một quan điểm thẩm mỹ đúng đắn, tiến bộ. Nhưng cũng có một cách khác là
văn chương vạch trần cái xấu xa, phê phán những mặt trái cịn tồn tại, nhìn
thấu vào bản chất của cái xấu, cái ác, giúp con người nhận thức được đầy đủ
về hiện thực, có cái nhìn tỉnh táo hơn để biết đấu tranh khơng chỉ với cái xấu
của bên ngồi mà cịn biết nhìn vào chính mình, nhận diện những mặt trái
đang cịn tồn tại trong mình, để tự phản tư, tự vượt lên.
Có lẽ vì vậy mà bên cạnh cảm hứng ngợi ca ln có cảm hứng phê
phán. Bên cạnh việc xây dựng con người lý tưởng mang vẻ đẹp thời đại là
việc tái hiện những nhân vật “phản diện” thể hiện những góc khuất ẩn sâu
trong mỗi người. Cảm hứng phê phán đi cùng cảm hứng ngợi ca nhưng ở mỗi
giai đoạn mỗi thời kỳ nó lại được thể hiện khác nhau. Có nhiều khi cảm hứng
ngợi ca là dịng chủ lưu, có nhiều khi cảm hứng phê phán lại mạnh hơn phụ
thuộc nhiều vào hoàn cảnh xã hội, bối cảnh thực tế của mỗi giai đoạn. Văn
học Việt Nam bước ra khỏi cuộc chiến, lại bước vào một thời kỳ mới, một
cuộc chiến mới không kém phần gay go ác liệt. Sau 1975, đặc biệt là sau
1986, khi Đảng và Nhà nước bắt đầu những năm tháng xây dựng đất nước
theo hướng Đổi mới, văn chương Việt Nam có nhiều bước phát triển với


11

những thay đổi lớn lao từ quan điểm đến tư duy nghệ thuật. Những sự thay
đổi đó đã đưa văn học quay trở về với chính đời sống của nó. Trong khơng
khí cởi mở và dân chủ đó, cảm hứng phê phán lại trở thành cảm hứng chủ đạo
của một số nhà văn, một số tác phẩm.
1.1. Quá trình đổi mới và cảm hứng phê phán trong văn học Việt Nam
đương đại

Gần trọn vẹn thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam chìm trong khói lửa của
chiến tranh với những chiến thắng oanh liệt nhưng dẫu oanh liệt thế nào thì đó
cũng là một hiện thực “bất thường”, một cơn “nguy biến” của đất nước. Hiện
thực bất thường đó chi phối mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống từ kinh tế, chính
trị tới văn hóa, giáo dục. Văn học khơng nằm ngồi dịng chảy đó. Những
năm đầu thế kỉ XX, nhờ vào cuộc gặp gỡ và tiếp xúc với văn học Pháp và văn
học Phương Tây mà văn học Việt Nam có một cuộc lột xác, diễn ra q trình
hiện đại hóa, thốt ly dần khỏi ảnh hưởng của văn học Trung Quốc. Nhưng
bối cảnh của một dân tộc nô lệ khiến văn học cũng mang những dấu ấn nhất
định. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ, văn học vừa
có những bước phát triển mạnh mẽ hướng dần tới đại chúng, có sự nở rộ về
lực lượng sáng tác, về thể loại cũng như tác phẩm. Cùng với đó, văn học nghệ
thuật cũng phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình với dân tộc, đất nước.
Văn học thời chiến gác lại những vấn đề riêng tư, gác lại những câu chuyện
cá nhân, những cảm xúc đời thường để đề cập tới những vấn đề lớn lao của
dân tộc, của lịch sử. Tính sử thi của văn học thời kì này khá rõ ràng và cùng
với đó là cảm hứng lãng mạn, là xu hướng ngợi ca, lý tưởng hóa nhằm thể
hiện những hình tượng nghệ thuật lớn lao phù hợp với bối cảnh lịch sử mang
tính cộng đồng dân tộc. Trong một hoàn cảnh như vậy đến những tình cảm cá
nhân nhất như tình yêu cũng trở thành một tình cảm lý tưởng, mang cái chung
của thời đại.


12

Sau chiến tranh, theo đà quán tính, văn học vẫn tiếp tục viết về cuộc
chiến, hoặc các vấn đề hậu chiến theo cảm hứng ngợi ca. Chỉ đến khi đối mặt
với những vấn đề bỏng rát của hiện thực, chúng ta mới thấy văn chương đang
đi theo hướng xa rời hiện thực hoặc nhìn hiện thực một chiều, hời hợt. Nhu
cầu được nhận thức lại, được nhìn và phản ánh hiện thực ở một tầng sâu hơn

trở nên ngày càng bức thiết. Và nó cũng khơng phải là những bức bối của
riêng văn chương mà trở thành bức bối, ngột ngạt chung cho cả bầu khơng khí
xã hội.
Năm 1986, khi Đảng và nhà nước chủ trương công cuộc Đổi mới, cả
dân tộc một lần nữa đứng trước một thử thách. Nhưng đó cũng là một cú
huých cho sự thay đổi, lột xác lần nữa. Một khơng khí cởi mở hơn, dân chủ
hơn đã tạo điều kiện cho các nhà văn được sống, cảm nhận, nghĩ và viết một
cách chân thực và trung thực với lịng mình. Trong cơng tác lãnh đạo, Đảng
đã chỉ đạo tránh có những can thiệp thơ bạo vào các vấn đề của văn học nghệ
thuật, thận trọng trong các đối xử với văn nghệ sĩ, với những cá tính sáng tạo
và khuyến khích văn nghệ sĩ phát huy tài năng của mình. Chính quan điểm đó
đã tác động rất lớn tới việc thay đổi tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách viết của
các nhà văn. Có thế nói mốc 1986 với những chủ trương đúng đắn, mới mẻ,
kịp thời của Đảng và Nhà nước không chỉ mở ra một thời kỳ phát triển mới
cho đất nước mà còn là một cuộc thay máu trong văn học nghệ thuật.
Nếu trong chiến tranh mỗi nhà văn là một chiến sĩ và “Chưa lúc nào
bằng lúc này thái độ của nhà văn trước vận mệnh chung của dân tộc lại được
đặt ra cấp bách và nghiêm túc đến thế” (Nguyễn Minh Châu – Trang giấy
trước đèn) khiến cho nhiều nhà văn đôi khi chọn cách né tránh, lãng quên đi
một phần nào đó bất như ý của hiện thực thì nay nhà văn được cởi trói. Nhà
văn thay vì ghi chép hiện thực thì nay phải đào sâu hiện thực. Trước đó, họ có
thể bị “bao cấp về tư tưởng” thì nay họ cần tự tìm lại mình, cần tìm lại cá tính


13

của riêng mình. Sự thay đổi về quan điểm và tư tưởng đó dẫn tới những sự
thay đổi khác trong sáng tạo văn chương nghệ thuật. Mỗi nhà văn cũng đứng
trước một cơ chế thị trường khốc liệt của hiện thực. Tìm cho mình một hướng
đi, một phong cách được đặt ra như một vấn đề sống còn. Hầu hết các nghệ sĩ

trưởng thành từ các giai đoạn trước đó đều bước vào một cuộc lột xác mới,
một chặng đường sáng tác mới trong hành trình nghệ thuật của mình. Không
phải ai cũng bắt nhịp được ngay với sự thay đổi đó, song khơng ai có thể
đứng ngồi cuộc.
Đáng lưu tâm hơn cả là sự thay đổi về cách nhìn hiện thực. Đời sống
của những năm tháng hậu chiến không còn là hiện thực đơn giản mà bộn bề
,mới mẻ và phức tạp đòi hỏi nhà văn phải phản ánh cho được, cho sâu. Thay
vì chỉ quan tâm tới đời sống chính trị xã hội, tới những vấn đề lớn lao của dân
tộc và đất nước, văn học cần hướng tới đời sống cá nhân với những vấn đề
của đời thường, của cuộc sống hàng ngày. Từ đây hiện thực được nhìn từ
những mảnh ghép nhỏ, để hướng tới một hiện thực tồn vẹn hơn, phong phú
hơn. Nếu vẫn cịn viết về các đề tài cũ như chiến tranh, người lính thì cũng
phải với một cách nhìn mới mẻ đa chiều. Chúng ta có thể kể đến hàng loạt các
tác phẩm ra đời thời kỳ hậu chiến gây được tiếng vang như: Bến không chồng
(Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai), Thời xa vắng (Lê Lựu),… Một gương mặt khác, một góc khuất khác của
chiến tranh được soi chiếu. Chiến tranh nếu trước đó được phản ánh trên một
bình diện rộng, với các gương mặt anh hùng, với hình ảnh cả “đất nước đứng
lên” với những chiến cơng và những phẩm chất chói ngời của con người thời
đại mới, thì nay chiến tranh được nhìn từ nhiều góc độ trong đó có mất mát hi
sinh, có đê hèn yếu đuối, trong đó hạnh phúc của một cá nhân, cuộc đời của
một cá nhân là gốc của vấn đề được phản ánh. Chiến tranh đã tước đi cuộc đời
“bình thường” của biết bao người phụ nữ làng Vạn Chài (Bến không chồng).


14

Họ chỉ ước ao một người đàn ông, một hạnh phúc gia đình nhỏ bé và giản dị.
Nhưng chiến tranh đã tước đi của họ cả cơ hội có được hạnh phúc đơn sơ ấy.
Dường như bom đạn của chiến tranh khơng cịn đáng sợ bằng cuộc sống hậu

chiến với những đau thương mà nó để lại. Nỗi buồn chiến tranh lại xốy sâu
vào thân phận người, thân phận tình yêu, thân phận của cái đẹp trong chiến
tranh. Bước lên chuyến tàu vào nam để trở thành một người lính năm ấy, Kiên
đã bỏ lại không chỉ tuổi trẻ, không chỉ Hà Nội, khơng chỉ giảng đường mà cịn
bỏ lại tình yêu của mình, cái đẹp của đời mình. Trong chuyến tàu năm đó,
Phương đã bị người ta hãm hiếp ngay trước mắt Kiên. Cái đẹp mong manh,
tình yêu mong manh đang bị con “quái vật” chiến tranh nuốt chửng. Bước vào
cuộc chiến, dịng kí ức của Kiên nhắc ta về những mặt trái của con người
trong chiến tranh. Có đê hèn, có ích kỉ, có đau thương, có chết chóc,… Chiến
tranh gớm ghiếc tới nỗi nó là nơi để con người bộc lộ đến tột cùng mọi xấu tốt
của mình, gớm ghiếc tới nỗi đã bước khỏi cuộc chiến Kiên vẫn mãi mãi
không thể trở về đời thường. Cuộc đời của một văn phường sau chiến tranh,
cứ bị lẫn lộn cứ bị chìm vào cuộc chiến. Thế nên hậu chiến rồi mà con người
vẫn khơng thể tìm thấy hạnh phúc của mình. Bảo Ninh khơng né tránh bất cứ
điều gì. Ơng miêu tả cả cái vơ thức, cả cái bản năng, cả tình dục và những
điều ẩn sâu nhất trong mỗi con người để dựng lại một bức tranh chiến trận từ
những số phận người chân thực nhất, ám ảnh nhất.
Khơng chỉ có vậy các tác giả cịn đi sâu vào cuộc sống đời thường,
nhận thấy những biến đổi trong tâm thế con người, nhận thấy nhiều giá trị đã
bị đảo lộn, những điều tốt đẹp đang đứng trước những thử thách, đang dần bị
xói mịn như trong Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), các truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp,… Bên cạnh đó cịn có xu hướng giải thiêng các giá
trị của giai đoạn văn học trước đó, xu hướng mở rộng hiện thực với các đề tài
về lịch sử, về vô thức,…


15

Càng về sau các tác phẩm càng xóa nhịa đi các vùng cấm, đề cập tới
hiện thực xã hội một cách toàn vẹn và đa dạng. Các vấn đề của đời sống được

phơi bày, được tái hiện trần trụi và thấu đáo. Càng đi sâu vào đời sống người
ta càng nhìn thấy ẩn sau nó những vấn đề mà nếu chỉ nhìn lướt qua có thể sẽ
bị bỏ sót, bị né tránh. Từ những phát hiện đó, văn chương khơng thể tiếp tục
cảm hứng ngợi ca một cách đơn thuần và duy nhất, cảm hứng phê phán trở
thành một dòng chủ lưu trong văn học thời kỳ này. Không chỉ là phê phán xã
hội, không chỉ là sự phân tuyến thiện – ác mà dường như ngay trong chính
mỗi cá nhân cũng tồn tại tất cả các mặt trái – phải, những điều tốt đẹp và
những điều xấu xí. Phê phán lúc này là lời nói cảnh tỉnh, là sự thúc đẩy để
mỗi cá nhân tự đấu tranh với chính mình để vượt lên những cám dỗ, tha hóa
của hồn cảnh.
Khơng chỉ thay đổi cách nhìn về hiện thực mà văn học thời kỳ này còn
thay đổi cả quan niệm về con người. Mỗi cá nhân được nhìn nhận trong đầy
đủ tư cách tồn tại của mình chứ khơng chỉ ở một góc độ con người trách
nhiệm, con người chính trị, con người xã hội nữa. Thế giới nội tâm của con
người được khai thác ở cả phần ý thức, vô thức hay tiềm thức. Đời sống cá
nhân với những vấn đề đời thường cũng được đề cập. Những vấn đề được coi
là nhạy cảm như tình dục, bản năng,…khơng còn bị né tránh. Đi sâu vào
khám phá con người, giải thiêng dần hình ảnh người anh hùng lý tưởng của
văn học giai đoạn trước, văn học giai đoạn này trả con người về với đời sống
thường nhật để thừa nhận cả những giá trị khác nhau ở con người. Có lẽ vì
vậy mà trong tổng thể nhân vật văn học thời kỳ này xuất hiện nhiều mẫu hình
mới như con người bi kịch, con người kỳ dị, con người tha hóa,…Trong mỗi
cá thể dường như có cả con người xã hội, con người tự nhiên và con người
tâm linh với các biểu hiện khác nhau. Văn học khơng cịn nhìn nhận con
người một chiều, khơ cứng, khn phép mà ngày càng tìm tịi để nhìn nhận


16

đánh giá con người một cách đầy đủ, vẹn toàn nhất. Không chỉ ngợi ca những

điều tốt đẹp, thiện lương trong mỗi cá thể mà còn thẳng thắn dũng cảm đấu
tranh với phần tiêu cực trong họ. Cảm hứng phê phán không hướng đến mục
tiêu hạ thấp con người, vùi dập con người mà nó chính là một biểu hiện khác
của tính nhân văn trong văn học giai đoạn thời kỳ này. Văn học sau 1975
khơng cịn nhiều những nhân vật để ta ngưỡng mộ, tơn thờ nhưng lại có rất
nhiều những số phận để ta ám ảnh, đau đáu mãi những vấn đề nhân sinh.
1.2. Khái niệm con người tha hóa – một kiểu nhân vật tiêu biểu gắn liền
với cảm hứng phê phán
Khái niệm tha hóa là một khái niệm khơng chỉ có trong đời sống mà
cịn trong triết học, tơn giáo. Có nhiều quan điểm cũng như nhận định khác
nhau về khái niệm này. Hiểu theo nghĩa thông thường hay được dùng trong
đời sống hàng ngày, sự tha hóa có thể hiểu là “biến chất đi thành cái xấu,
đồng nghĩa với thối hóa”. Trong triết học, tơn giáo, tâm lý học hay xã hội
học khái niệm tha hóa có thể được hiểu khác đi, trở thành một phạm trù mang
tính học thuật cao. Trong các ngơn ngữ khác hay bản thân nghĩa Hán Việt của
từ “tha hóa” thì tha hóa có nghĩa là sự khác đi, là bị biến thành cái khác. Ở
đây, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sử dụng nghĩa của từ điển Tiếng
Việt, gắn với cuộc sống hàng ngày: tha hóa được hiểu như là quá trình bị biến
chất đi theo chiều hướng tiêu cực. Như vậy nhân vật tha hóa chính là nhân vật
bị làm khác đi, bị biến đổi khác với chính mình, khơng cịn là mình theo chiều
hướng tiêu cực.
Trên thế giới, từ những năm đầu thế kỉ XX đã có nhiều tác phẩm viết
về sự tha hóa của con người; trong đó đặc biệt thu hút dư luận là các sáng tác
của A. Camus, F.Kafka. Các nhà văn đã miêu tả q trình tha hóa của con
người gắn với cái vơ lý của đời sống. Trong dịng văn học viết về sự tha hóa
này, nhân vật tha hóa không chỉ là những kẻ bị làm xấu đi, bị thay đổi theo


17


chiều hướng tiêu cực nữa mà được hiểu rộng hơn, được nâng tầm khái quát
hơn, là biểu tượng của tình trạng phổ biến khi con người đang dần “vong
thân”, đánh mất những phẩm chất “người”, trở thành một chủ thể cô đơn, bất
lực trước hiện thực.
Văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau năm 1986, khi bắt đầu thời
kỳ đổi mới, cũng xây dựng những nhân vật tha hóa nhưng nó khơng hồn tồn
giống với các nhân vật tha hóa trong văn học phi lý phương Tây đầu thế kỉ
XX. Nói đến nhân vật tha hóa thời kỳ này là muốn nói tới hiện tượng con
người đang đánh mất dần những điều tốt đẹp trước sự tác động của hiện thực
khách quan. Có thể nói nhân vật tha hóa đã có từ lâu trong văn học chứ khơng
phải chỉ đến thời kỳ này mới xuất hiện. Bị giãn cách bởi những năm tháng
chiến tranh, hình tượng nhân vật tha hóa lại trở lại trong văn học thời kỳ đổi
mới như một tiếng chuông cảnh tỉnh con người trước những nguy cơ tha hóa
đánh mất mình. Dường như cuộc sống càng phát triển, đời sống vật chất càng
được nâng cao thì những xáo trộn của thang giá trị, những chuẩn mực đạo
đức, những cốt lõi nhân văn càng bị rạn nứt và đứng trước bờ vực bị thay thế,
đảo lộn.
Văn xi sau 1975 nói chung và truyện ngắn sau 1975 nói riêng đã xây
dựng nên những hình ảnh nhân vật tha hóa đa dạng, sinh động, ở đủ các tầng
lớp xã hội khác nhau, đã lột tả được những vấn đề gai góc nhất của hiện thực.
Các nhân vật tha hóa thời kỳ này có thể chia thành hai nhóm: một nhóm là
những con người bị tha hóa vì những ham muốn bản năng, những dục vọng
thấp hèn, vì những khát khao vật chất, quyền lực; hai là những con người vốn
tốt đẹp nhưng bị hoàn cảnh xã hội và những vấn đề của đời sống thường nhật
tha hóa. Những nhân vật này có thể thuộc tầng lớp trí thức, quan chức hay
chính những con người bình dân, đời thường thuộc mọi tầng lớp xã hội. Ban
đầu các nhà văn thường chú ý tới những con người tiêu biểu, đại diện cho một


18


tầng lớp nào đó trong xã hội nhưng càng về sau chúng ta càng thấy sự đa dạng
của các nhân vật tha hóa, họ thuộc đủ các loại tầng lớp khác nhau, mang
những bộ mặt khác nhau và bị tha hóa theo những cách khác nhau.
Chu Lai tái hiện lại gương mặt của những người lính sau chiến tranh
với hàng loạt các tiểu thuyết như Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng, Ba lần
và một lần,… Trong chiến tranh, có thể họ đã phần nào bộc lộ cái xấu xí của
mình nhưng về với cuộc sống đời thực với những hấp dẫn của vật chất và
quyền lực cái xấu xí trong họ càng được lột trần, càng được phơi bày và
dường như càng phát triển hơn. Đó có thể là Huấn trong Vòng tròn bội bạc,
từng chiến đấu dũng cảm và kiên cường, nay trở thành một kẻ bất chấp mọi
tội ác để làm giàu. Ba Sương (Ăn mày dĩ vãng) từng sống và chiến đấu hết
mình trong những năm bom đạn thì nay vì để leo lên những nấc thang cao hơn
trong quyền lực đang dần đánh mất mình, quay lưng với quá khứ, chấp nhận
làm tình nhân với kẻ mà trước đây mình coi là kẻ thù. Những nhân vật như
Năm Thành (Ba lần và một lần), Đăng Điền (Cuộc đời dài lắm) trong chiến
tranh đã bộc lộ một phần bộ mặt xấu xa của mình thì nay càng bộc lộ rõ hơn
những bản chất đó. Dường như Chu Lai đã nhận thấy một hiện thực đau nhói
về phận người sau chiến tranh. Chiến tranh gian khổ nhưng buộc người ta
phải vượt lên mà sống đẹp. Còn ở thời hậu chiến, cuộc sống đời thường trả
con người lại với những nhu cầu vật chất và bản năng, với tham vọng quyền
lực và danh tiếng khiến cho con người ngày càng bị tha hóa. Các nhân vật tha
hóa của Chu Lai đã phản ánh sự thật ấy như là lời cảnh tỉnh với xã hội.
Ma Văn Kháng thì đi vào q trình tha hóa của những người trí thức
trong cuộc sống đời thường. Những người trí thức chân chính thì bị rơi vào bi
kịch của cuộc sống đời thường. Tự (Đám cưới khơng có giấy giá thú) phải
đứng trước sự giằng co giữa việc giữ lấy những phẩm chất tốt đẹp của mình
hay thả trơi chấp nhận hiện thực và sống theo những người khác. Anh có thể



19

có những ước vọng tốt đẹp, anh có thể là một thầy giáo chân chính hết lịng vì
học sinh. Nhưng cuộc sống với áo cơm và các nhu cầu đời thường bắt anh
phải có tiền. Anh khơng làm được trụ cột kinh tế gia đình, đẩy cuộc sống vợ
con đến chỗ khốn khó thì anh phải chịu sự chì chiết, dè bỉu của vợ, thậm chí
chị ta ngang nhiên ngoại tình trước mắt anh. Nỗi đau mà Tự phải chịu là nỗi
đau tinh thần, là bi kịch của người trí thức trong hoàn cảnh mới. Trong sáng
tác của Ma Văn Kháng khơng chỉ Xuyến trong Đám cưới khơng có giấy giá
thú đóng vai nhân vật tha hóa mà cịn rất nhiều những nhân vật khác như Lý,
Đông (Mùa lá rụng trong vườn), Loan trong “Mưa mùa hạ”, Thoa trong
“Ngược dòng nước lũ”…Khơng chỉ có những người trí thức như cơ giáo
Thảnh, thầy giáo Thuật (Đám cưới khơng có giấy giá thú) mà cả những kẻ
đóng vai trí thức giả cũng chỉ là một phường lưu manh. Những người như
Cẩm, như Lai, như Dương đã đẩy những con người tốt đẹp như Tự tới tận
cùng của bi kịch. Họ chính là những con người vì sự tham lam, vì ham muốn
quyền lực và vật chất của mình mà bất chấp mọi thủ đoạn để hãm hại những
con người có tài, có tâm quanh chúng. Ma Văn Kháng đã miêu tả một thế giới
rất sinh động của những nhân vật tha hóa khác nhau. Có quan chức, có trí
thức, có thường dân, có phụ nữ, có đàn ơng, có những con người vốn tốt đẹp
mà bị tha hóa, có những con người vốn đã ẩn chứa những xấu xa gặp hoàn
cảnh thuận lợi thì cái xấu càng phát triển.
Đặc biệt là ngịi bút sắc sảo, lạnh lùng của Nguyễn Huy Thiệp trong
những truyện ngắn đầy ấn tượng của ông đã giải thiêng những hình tượng vốn
đẹp đẽ ở giai đoạn trước, trả nó về với đời thường với những vấn đề cá nhân
nhỏ bé. Tướng về hưu, Khơng có vua,… đã miêu tả những nhân vật bị tha hóa
đến tận cùng. Gia đình lão Kiền (Khơng có Vua) như một xã hội thu nhỏ với
một người chồng bạo lực, thô lỗ, một ông bố chồng bất chấp lương tri mà
chạy theo dục vọng thích nhịm con dâu tắm, một thằng em chồng trơ trẽn bỉ



20

ổi…. Những gương mặt ấy như góp lại mà tái hiện một xã hội con người đang
chạy theo vật chất, đang ngày càng đánh mất lương tri phẩm giá và danh dự
của mình. Dường như cuộc sống hiện đại với nhịp sống nhanh đến gấp gáp
của nó, với xu hướng hưởng thụ của nó đã khiến con người bị chính những
bản năng của mình chi phối điều khiển.
Nếu như ở giai đoạn đầu nhân vật tha hóa là những con người tiêu biểu
thuộc các tầng lớp như trí thức, quan chức thì càng về sau các nhà văn càng đi
sâu vào đời sống, hướng vào những con người bình thường trong đời sống
hàng ngày. Nguyễn Bình Phương là một trong những nhà văn trẻ thuộc giai
đoạn sau khá thành công trong việc xây dựng những nhân vật tha hóa. Đó có
thể là Tính (Thoạt kỳ thủy) đang dần từ bỏ hình hài, ý thức của một con người
để tiến về cõi u mê vô thức của tội ác. Những nhân vật trong Người đi vắng
thì mải miết chìm vào những ham muốn của riêng mình, tất cả dường như đều
đang mất đi phương hướng, không biết phải sống thế nào, phải đi về đâu.
Hoan chìm vào trạng thái nửa sống nửa chết sau những ngày sống vô nghĩa
chạy theo bản năng tình dục, em trai Thắng chìm trong giấc mơ về dàn
compac, em gái Thắng khơng thốt ra khỏi được mùi cồn, mùi thuốc của bệnh
viện,… Họ là những gương mặt đời thường ta có thể gặp ở bất cứ đâu, là bất
cứ ai trong cuộc sống này. Cái xấu len lỏi vào nhân cách đâu chỉ là khi con
người tạo ra những tội ác, những điều khủng khiếp, ghê gớm, bất thường. Sự
tha hóa diễn ra ngay từ khi con người sống khơng cịn ý nghĩa, đánh mất dần
những giá trị của bản thân, đánh mất đi ý thức làm người của mình.
Như vậy, có thể nói hình tượng nhân vật tha hóa đã trở thành mẫu hình
nghệ thuật chung của hầu hết các tác phẩm văn xuôi sau 1975, đặc biệt là từ
đổi mới. Họ đa đạng về thân phận, đa dạng về tính cách, đa dạng về hình hài.
Họ có thể là những nạn nhận của một cuộc sống xô bồ, tôn vinh giá trị vật
chất hoặc chính họ là tội nhân bất chấp tất cả mà chạy theo những toan tính



21

ích kỉ của bản thân. Họ có thể được miêu tả ở trạng thái con người ý thức, có
thể được nhìn sâu vào cả phần vơ thức bên trong. Tất cả đã tạo nên một bức
tranh sống động về đời sống, riết dóng về con người, thức tỉnh mỗi chúng ta
trước thời cuộc.
1.3. Khái quát về tác giả Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ
1.3.1. Nhà văn Lê Minh Khuê
Lê Minh Khuê sinh năm 1949 tại Thanh Hóa. Chị thuộc thế hệ các nhà
văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Tuy sinh ra và lớn lên ở
Thanh Hóa nhưng ngay từ nhỏ Lê Minh Khuê đã có cơ hội được đi nhiều
vùng miền gắn với quê gốc của cha mẹ, ơng bà. Ơng nội của nhà văn sinh ra ở
Thanh Hóa nhưng làm việc và lấy vợ ở Huế, ông ngoại là người Hà Đông lấy
vợ là người vùng Kinh Bắc. Với hồn cảnh gia đình như vậy Lê Minh Khuê
có được may mắn hơn nhiều đứa trẻ cùng thời là chị được đi tới nhiều miền
quê trải dài từ Hà Đông vào Huế, mang lại cho nhà văn một vốn sống phong
phú ngay từ những ngày thơ bé.
Sáng tác của Lê Minh Khuê có thể chia làm hai chặng: trước 1975 và
sau 1975.
Trước 1975, Lê Minh Khuê tham gia thanh niên xung phong vào
khoảng năm 1971 ở tuyến lửa ác liệt của Trường Sơn. Tại đây, trong hoàn
cảnh ác liệt của chiến tranh, chị bắt đầu cầm bút và sáng tác. Ngay từ những
tác phẩm đầu tay, Lê Minh Khuê đã chứng tỏ được tài năng của mình. Những
truyện ngắn như Nơi bắt đầu bức tranh, Những ngôi sao xa xôi, Cao điểm
mùa hạ,… ngay từ khi ra đời đã được đón nhận nồng nhiệt. Bạn đọc nhanh
chóng nhận ra một cây bút chuyên nghiệp, với một hương vị rất riêng giữa bạt
ngàn các tác giả, tác phẩm cùng viết về đề tài chiến tranh lúc bấy giờ. Phần
lớn các sáng tác của Lê Minh Khuê thời kỳ này đều là viết về chiến tranh với



×