Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.68 KB, 56 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta sau hai mươi lăm năm đổi mới đã gặt hái được những kết
quả đáng ghi nhận, được bạn bè thế giới đánh giá cao. Những thành công đó đã
khẳng định tính chất đúng đắn con đường cải cách mà Đảng đã lựa chọn, khởi
xướng, đã cho phép chúng ta tin tưởng vào khả năng “cất cánh” của Việt Nam
trong tương lai. Tuy nhiên, vì mức khởi điểm xuất phát ban đầu của chúng ta quá
thấp nên để có thể đẩy nhanh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, mở rộng đầu tư
và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập khu
vực và quốc tế thì chúng ta còn cần rất nhiều vốn, nhu cầu về vốn đang được đặt
lên hàng đầu.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng đã chỉ rõ: “Trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối mới, Đảng và Nhà
nước chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong nước và ngoài nước để đầu tư
phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý
nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể
tranh thủ bên ngoài”. Đại hội Đảng lần thứ IX, X Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Nhà nước có chính sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh
thủ tối đa nguồn lực ngoài nước, mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng
mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế…”.
Nội dung trên đã khẳng định nhu cầu to lớn về vốn đối với nền kinh tế, đồng
thời chỉ rõ tầm quan trọng của các nguồn vốn trong nước và quốc tế.
Thực tế, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông
qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về
vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các
trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh quan trọng nhất,
có hiệu quả nhất vì trong nền kinh tế, NHTM được coi là trung gian tài chính lớn
nhất quan trọng nhất.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của đề tài, sau một thời
gian thực tập và nghiên cứu tại Chi nhánh NHNo&PTNT Đống Đa, với mong
Lớp: TN1C


1
Chuyên đề tốt nghiệp
muốn tìm hiểu sâu hơn về công tác huy động vốn của chi nhánh em đã chọn đề
tài:”Giải pháp nâng cao chất lượng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu của đề tài như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh
NHNo&PTNT Đống Đa
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác huy
động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Đống Đa
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Thạc sĩ Lê Thu Trang đã tận tình
hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em xin gửi lời cảm ơn tới tập thể cán
bộ, nhân viên Chi nhánh NHNo&PTNT Đống Đa đã tạo điều kiện và giúp đỡ em
rất nhiều trong suốt quá trình thực tập và làm chuyên đề.
Hà Nội, tháng 4 năm 2010
Sinh viên: Nguyễn Thị Hồng Lê
Lớp: TN1C
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NHTM
1.1 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay việc đưa ra
một khái niệm cụ thể về NHTM thì vẫn còn là điều gây tranh cãi của các nhà
kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác nhau thì khái niệm lại có những thay đổi,
đây lại là một đặc thù của lĩnh vực ngân hàng tài chính.
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì:”NHTM là một loại hình doanh

nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo cách tiếp
cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì
“NHTM là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng về tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh
tế”. Theo luật tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10/1998, NHTM được định
nghĩa như sau:
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mở hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
1.1.2 Hoạt động của NHTM
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa, cung cấp vốn cho
nền kinh tế. Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động ngân
hàng đã có những bước tiến rất nhanh, đa dạng và phong phú hơn song ngân
hàng vẫn duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau:
Lớp: TN1C
3
Chuyên đề tốt nghiệp
a, Nghiệp vụ huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng, hoạt
động của ngân hàng. Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác
nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi, đi vay, phát hành giấy tờ có giá. Mặt
khác, trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, ngân hàng tiến hành cho vay phục
vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa
phương và cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng,
tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao,các ngân hàng chủ động trong hoạt động
kinh doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức
dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại
phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước của địa
phương từ đó đưa ra các loại hình huy động phù hợp nhất là các nguồn vốn

trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
b, Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ
sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết
định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.Vì vậy ngân hàng cần
phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê,
nhìn chung thì khoảng 60% - 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động
cho vay. Thành công hay thất bại của một ngân hàng tùy thuộc chủ yếu vào việc
thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách
cho vay của ngân hàng. Các loại vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm:
mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả…
Hai là tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi
hỏi ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ có thể
Lớp: TN1C
4
Chuyên đề tốt nghiệp
cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là
cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có hai hình thức chủ yếu mà các
ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:
▪ Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn
vào các doanh nghiệp, các công ty khác.
▪ Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến
hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng

loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề
ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình
ngân hàng không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì thế, ngoài việc cho vay và đầu tư
để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy
động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định
về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
c, Nghiệp vụ khác
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những
lợi thế đó là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng
hóa dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí ngân
hàng đưa cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc,
ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Mặt khác, các ngân hàng
thương mại còn tiến hành môi giới, mua bán chứng khoán cho khách hàng và
làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty. Ngoài ra ngân hàng còn thực
hiện các dịch vụ ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, uy thác giải
ngân và thu hộ.
Lớp: TN1C
5
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3 Các hình thức huy đông vốn của NHTM
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là quan
trọng nhất đối với các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô lớn. Từ thập
niên 60 đến nay, khi chế độ lãi suất trả cho tiền gửi được thả nổi linh hoạt, tài
sản nợ trở nên đa dạng và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng thương mại
với nhau trong việc tìm kiếm vốn hoạt động đã dần dần hướng các ngân hàng
chú ý đến sự giao động của tài sản nợ. Từ thập niên 60 trở đi thì với sự phát triển
nhanh của các thị trường tài chính liên quốc gia, đã có rất nhiều loại tài sản có
lợi tức ổn định và thanh khoản cao được mở ra trước mắt các ngân hàng ở các
nước phát triển. Cho nên, vấn đề khó khăn không còn là đầu tư vào đâu mà là

làm thế nào có đủ vốn cho đầu tư ở môi trường cạnh tranh đầy kịch tính trong hệ
thống ngân hàng thế giới.
1.1.3.1 Các hình thức huy động tiền gửi của NHTM
Đây là hình thức huy động vốn mà ngân hàng huy động được từ tổ chức
kinh tế, cá nhân... trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm,
thanh toán hộ, các khoản cho vạy tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Các hình thức nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại tuỳ thuộc vào
các tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau.
1.1.3.1.1 Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn
Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này
để có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để ngân hàng xây dựng
chiến lược dự trữ phù hợp.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định
người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Tiền gửi không
kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân hàng khó có
thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động. Hình
thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp gửi tiền
vào ngân hàng mục đích chính không phải để nhận lãi mà là để hưởng các dịch
vụ mà ngân hàng cung cấp: đó là các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, thu chi hộ...
Lớp: TN1C
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của
những khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc không thực sự
an tâm về việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào đó với
lượng tiền hiện còn nhàn rỗi.
Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một
tỷ lệ nhấn định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được và ngân hàng
muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền gửi này.
Do vậy quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ

trong các ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi
tiền và ngân hàng về số lượng, kỳ hạn lãi suất của khoản tiền gửi. Do có sự xác
định rõ ràng về kỳ hạn nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền gửi có sự ổn
định cao, ngân hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có
thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Chính vì lý
do này mà lãi suất của các khoản tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn nhiều lãi
suất của các khoản tiền gửi không kỳ hạn. Bởi vì mục đích chính của việc gửi
tiền vào ngân hàng là tiền lãi. Thông thường thì lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn,
tức là khoản tiển gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và ngược lại.
1.1.3.1.2 Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành.
- Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà họ
trực tiếp chuyển vào ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tiết kiệm, doanh nghiệp nộp
tiền bán hàng... Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được
ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với mục đích và
kỳ hạn khác nhau. Cá nhân gửi tiền thường với mục đích là để hưởng lãi còn
mục đích của các doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
- Tín dụng tạo tiền gửi: Đây cũng là một hình thức nhận tiền gửi, khi ngân
hàng cho khách hàng vay tiền thì Ngân hàng chuyển số tiền này vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng ngay trong ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu cầu
Lớp: TN1C
7
Chuyên đề tốt nghiệp
rút tiền ngay lập tức thì ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với thời hạn
rất ngắn.
1.1.3.1.3 Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng
- Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của các cá nhân với mục
đích là tìm kiếm một khoản thu nhập. Thường thì mỗi khoản tiền gửi tiết kiệm
có khối lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối
tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu trong

tương lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước phát
triển, thường được sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình người gửi
để dành một khoản tiền gửi vào ngân hàng (thường là các khoản tiết kiệm đều đặn
hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho mục đích nhất định. Đây là hình thức huy
động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính ổn định đồng thời có tác dụng tích
cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua sắm nhà cửa, phương tiện.
- Tiền gửi thanh toán: Là khoản ký gửi của các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Họ gửi tiền mục đích không phải là để hưởng thu
nhập mà là hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Thông thường các khoản tiền gửi
thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa sử
dụng thì ngân hàng có thể sử dụng vào kinh doanh.
1.1.3.1.4 Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi.
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó
phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng lượng
tiền gửi.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền
gửi dưới dạng ngoại tệ như USD, GBP, DEM,... những khoản ngoại tệ này cũng
rất quan trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài
trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế ...
Lớp: TN1C
8
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3.2 Chứng thư tiền gửi loại lớn
Chứng thư tiền gửi loại lớn là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra
để vay tiền của thị trường. Có hai cách phát hành loại chứng thư này:
Một là khi có các đối tượng đến vay tiền để sản xuất hoặc tiêu dùng theo
hợp đồng với ngân hàng, ngân hàng phát hành chứng thư này cho họ. Hai là
ngân hàng có thể công bố phát hành chứng thư này cho các đối tượng muốn đầu
tư hoặc muốn gửi tiền vào ngân hàng. Thay vì một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn,

họ có thể nhận loại chứng thư này, nhưng chứng thư loại này không có những
đơn vị quá nhỏ bằng tiền mặt.
Khi ngân hàng thương mại phát ra chứng thư này, nó hướng tới việc vay
tiền của thị trường, của nhân dân và chứng thư là giấy xác nhận khoản vay này.
Đồng thời trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại tiền mặt (6 tháng, 1 năm...)
và lãi xuất người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng, người sở
hữu chứng thư đem nộp nó cho ngân hàng đã phát hành để nhận lại cả vốn theo
giá trị bề mặt và tiền lời.
Loại chứng thư này ở các nước công nghiệp thường có thời gian đáo hạn
không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành. Với thời gian ngắn và tính chất được sử
dụng, chấp nhận không khác gì Séc hay tiền mặt, trong khi nó có lãi suất mà Séc
và tiền mặt không có lãi suất, chứng thư này trở thành loại đầu tư ngắn hạn hấp
dẫn nhất đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình.
1.1.3.3 Phát hành giấy tờ có giá
Để huy động được đủ nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn của
mình các NHTM không chỉ sử dụng các công cụ truyền thống để huy động vốn
mà còn đưa ra các công cụ mới hiệu quả hơn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ tiền gửi.Kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi là giấy tờ có giá xác
nhận khoản nợ của ngân hàng với người nắm giữ. Việc phát hành các giấy tờ có
giá này giúp ngân hàng huy động được số vốn cần thiết và có thời hạn đáp ứng
đủ nhu cầu sử dụng vốn của mình. Tuy nhiên chi phí của nguồn vốn huy động
Lớp: TN1C
9
Chuyên đề tốt nghiệp
này tương đối cao do ngân hàng phải trả lãi cao hơn các hình thức huy động vốn
truyền thống khác.
1.1.3.4 Vay ngắn hạn các Ngân hàng Thương mại
Trong quá trình hoạt động của mình, do có những ngày cho vay quá
nhiều, sự thiếu hụt dự trữ tại ngân hàng Trung ương là điều thường xảy ra đối
với các NHTM. Trong khi có một số NHTM thiếu dự trữ, thì nó cũng có một vài

bộ phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của ngân hàng
Trung ương, các ngân hàng thương mại điện thoại hoặc liên lạc bằng Computer
vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ tục vay được
tiến hành qua Fax hoặc điện tín.
Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống ngân hàng
thương mại. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy
nhiên, khoản nợ này thường rất ngắn không quá một tuần và thường là chỉ một
hay hai ngày vì mọi ngân hàng đều tự ý thức không thể lạm dụng kéo dài thời
gian gây khó khăn cho ngân hàng có thiện chí giúp mình.
1.1.3.5 Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại.
Hợp đồng mua lại là hình thức vay ngắn hạn trên thị trường của ngân hàng
thương mại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho những
thượng vụ đầu tư đã được ký kết hoặc hụt dự trữ tại ngân hàng Trung ương là
chuyện không có gì lạ đối với các ngân hàng thương mại. Ngoài những biện
pháp nêu trên, trong những trường hợp cấp thiết, ngân hàng thương mại có thể
vay của thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng cách phát hành hợp đồng
mua lại.
Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và đối tượng kinh
doanh chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty tài
chính, tổ chức tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công ty kinh doanh và
môi giới chứng khoán.
Chứng khoán mà ngân hàng đem bán là chứng khoán mà ngân hàng đang
đầu tư. Không phải là phiếu nợ do nó phát hành như các trường hợp vừa rồi.
Lớp: TN1C
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Những loại chứng khoán mà ngân hàng thường đầu tư nhất và có thể đem bán
theo loại hợp đồng này là trái phiếu Kho bạc, tín phiếu Kho bạc và một số loại
trái phiếu, cổ phiếu khác của thị trường.
1.1.3.6 Vay của ngân hàng Trung ương

Các ngân hàng thưong mại hầu như đều được sự cho phép thành lập của
Ngân hàng Trung ương, cho nên nó đều được quyền vay tiền tại ngân hàng
Trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ.
Trường hợp không may diễn ra khi ngân hàng thương mại đến vay giữa
lúc ngân hàng trung ương không muốn khuyến khích sự bàng trướng tín dụng,
hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất
chiết khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của ngân
hàng Trung ương. Do đó, các ngân hàng thương mại chỉ miễn cưỡng vay trong
những tình huống thật ngặt nghèo và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh.
Dù vay ít nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba
lần, dịch vụ vay từ cửa ngõ chiết khấu của ngân hàng Trung ương vẫn là một
khoản mục cố định trong tài sản nợ vì không có ngân hàng thương mại nào mà
chưa hề vay của ngân hàng Trung ương bao giờ từ khi thành lập.
1.2 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NHTM
Những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của NHTM được xem
xét qua hai nhóm nhân tố đó là: nhóm nhân tố mang tính khách quan và nhóm
nhân tố mang tính chủ quan.
1.2.1 Nhân tố khách quan
▪ Thứ nhất là môi trường pháp lý
Hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động hết sức mạnh
mẽ đối với nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn và sử
dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp,
tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt
Lớp: TN1C
11
Chuyên đề tốt nghiệp
chẽ sát sao hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự
điều chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định của chính phủ, của NHTW, đó

là Luật các tổ chức tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự, hàng loạt hệ thống các quy
định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Trong sự rang buộc
về pháp luật này thì các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay
đổi và kết quả làm ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn.
Bởi khi chính sách của nhà nước của NHTW: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi
suất, tín dụng thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất
lượng nguồn vốn của NHTM.
▪ Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng
không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tế -
chính trị - xã hội.
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử
dụng vốn luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình trạng
thất nghiệp, lạm phát… tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất
phát triển, từ đó tạo điều kiện tích lũy nhiều hơn, tạo môi trường cho việc thu hút
vốn của ngân hàng thuận lợi và ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát
tăng làm cho môi trường đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp khiến quá trình tạo vốn
của ngân hàng gặp khó khăn.
Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh
mẽ đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên
thế giới.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thông qua
việc phân bổ dân cư, trình độ, lứa tuổi… Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố
này trong hoạt động huy động vốn của mình.
▪ Thứ ba là môi trường văn hóa
Môi trường văn hóa quyết định đến tập quán, tâm lý, thói quen trong việc
sử dụng tiền của dân cư. Những vùng mà người dân quen sử dụng số tiền nhàn
Lớp: TN1C
12
Chuyên đề tốt nghiệp

rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều
khó khăn…
Hơn nữa mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội, thói quen tích lũy ảnh hưởng
đến quyết định của các thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng và tiết
kiệm.
▪ Thứ tư là yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại
hình hình ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Do đó cạnh
tranh có xu hướng gia tăng mạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa NHTM với các
tổ chức tài chính phi ngân hàng. Xu hướng cạnh tranh trong ngân hàng càng gia
tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách tiền tệ, đổi mới tài chính của doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ.
1.2.2 Nhân tố chủ quan
▪ Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng sử dụng
Để thực hiện tốt công tác huy động vốn, các ngân hàng thường đưa ra
nhiều hình thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà ngân hàng huy động
được phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng.
Khi áp dụng nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội để người gửi lựa
chọn, đáp ứng được các nhu cầu của người gửi. Mỗi ngân hàng đều tìm cho
mình những hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tâm lý
dân cư vùng mà ngân hàng đặt địa điểm, đồng thời phù hợp với yêu cầu sử dụng
cũng như dễ dàng quản lý có hiệu quả nguồn vốn của mình. Khi hình thức huy
động vốn đa dạng nghĩa là số lượng vốn huy động được tăng lên và chi phí huy
động có xu hướng giảm xuống.
▪ Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Trong một ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp từ
các hoạt động về sử dụng vốn. Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh
riêng theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của bản thân ngân
hàng và điều kiện môi trường kinh doanh. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra chiến
Lớp: TN1C

13
Chuyên đề tốt nghiệp
lược huy động vốn là thu hẹp hay mở rộng cho phù hợp với chính sách thu hẹp
hay mở rộng tín dụng của ngân hàng trong thời kỳ đó. Cơ cấu nguồn vốn có thể
thay đổi về tỷ lệ các khoản mục cấu thành, chi phí huy động có thể tăng hay
giảm. nếu chiến lược kinh doanh được xây dựng đúng dắn phù hợp với điều kiện
bản thân ngân hàng, các nguồn vốn được khai thác tối đa và hợp lý thì công tác
huy động vốn phát huy hiệu quả.
▪ Ảnh hưởng của lãi suất huy động
Lãi suất huy động vốn thường là mối quan tâm hàng đầu của cá nhân và tổ
chức muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền kinh
tế lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia
đầu tư hơn. Tuy nguồn tiền gửi không chỉ phụ thuộc vào lãi suất cao mà còn phụ
thuộc vào các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro, điều kiện thanh toán, uy
tín, địa điểm...của ngân hàng nhưng với lãi suất cao, linh hoạt, hợp lý thì luôn
luôn có tác dụng kích thích người gửi tiền. Nhưng lãi suất có ảnh hưởng lớn nhất
đến lượng tiền gửi tiết kiệm vì khách hàng chọn gửi tiền theo phương thức này
thường có mục đích hưởng lãi.
▪ Trình độ công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện qua các yếu tố sau:
- Các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung ứng.
- Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng.
- Cơ sở vật chất trang bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng càng cao, khách hàng sẽ càng cảm
thấy hài lòng về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền
tại các ngân hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh tranh
phi lãi suất vì khách hàng mà ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến lãi suất
mà quan tâm đến chất lưọng và loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung ứng. Với
cùng một lãi suất huy động như nhau, ngân hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ
tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn.

Lớp: TN1C
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng là điều kiện để thực hiện tốt các
nghiệp vụ ngân hàng.
Cán bộ ngân hàng phải có chuyên môn tốt để có thể quản lý tốt nguồn
vốn, thực hiện tốt công việc sử dụng vốn góp phần nâng cao chất lưọng huy
động vốn.
▪ Thương hiệu, uy tín của ngân hàng
Trên thực tế, mỗi ngân hàng đã, đang và sẽ tạo được một hình ảnh riêng
của mình trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn, sẵn có uy tín sẽ có lợi thế
hơn trong hoạt động huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho
ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phí
huy động. Từ đó ngân hàng có thể đề ra chiến lược dự trữ dễ dàng hơn, thậm chí
trong điều kiện lãi suất gửi tiền tại ngân hàng có uy tín thấp hơn đôi chút, những
người có tiền vẫn lựa chọn ngân hàng đó để gửi mà không tìm những nơi trả lãi
hấp dẫn hơn vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ tuyệt đối an toàn.
1.3 VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
1.3.1 Vai trò của nguồn vốn hoạt động tới nền kinh tế
Đối với nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, vốn có vai trò đặc biệt quan
trọng, nhất là trong thời kì đầu đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Nước ta từ khi chuyển sang cơ chế mới, các đơn vị kinh tế được tự chủ
trong hoạt động kinh doanh. Họ phải tự mình tạo lập các nguồn vốn khác nhau
và sử dụng có hiệu quả chúng. Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh trước hết
mọi thể nhân, pháp nhân phải có một số vốn mà pháp luật quy định bắt buộc gọi
là vốn pháp định. Hơn nữa, quá trình đầu tư phát triển phải tính đến hiệu quả lâu
dài, có nghĩa là không thể đầu tư vào công nghệ lạc hậu mà phải có phương tiện
máy móc kỹ thuật tiên tiến. Nhưng thực tế nhu cầu thường vượt quá khả năng
nên các đơn vị, cá nhân thường phải vay vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh của đơn vị, cá nhân mình. Đối với Ngân sách Nhà nước do nhu cầu chi

tiêu cho tiêu dùng và đầu tư ngày càng tăng nhưng nguồn thu tăng trưởng chập
hơn nên thường bị thiếu hụt. Tất nhiên thiếu hụt đó có thể được Nhà nước bù
Lớp: TN1C
15
Chuyên đề tốt nghiệp
đắp bằng cách in thêm tiền, nhưng cách này có thể làm gia tăng tỷ lệ lạm phát,
ảnh hưởng không tốt tới nền kinh tế. Do đó, nhà nước cũng cần phải tự tìm cách
huy động vốn để bù đắp thiếu hụt Ngân sách.
Chính sách huy động vốn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập của quốc gia đó, tác
động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chính sách huy động
vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài
chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Vì nguồn vốn có vai trò to lớn đối
với nền kinh tế như vậy, nên chúng ta cần phải khơi thông các nguồn vốn cho
đầu tư phát triển kinh tế, thông qua các kênh: vốn từ ngân sách nhà nước, vốn
huy động của các tổ chức tín dụng… Trong các kênh trên, vốn từ ngân sách nhà
nước chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng hiện nay số
lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm do việc cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước. Vì vậy, việc huy động vốn từ kênh này thường không cao. Bên cạnh
đó, việc huy động vốn còn được thực hiện thông qua kênh tín dụng. Các doanh
nghiệp có thể huy động vốn qua kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng ở nước ta
phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa đủ điều kiện để
huy động vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc huy động vốn
gián tiếp qua kênh ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng.
Do vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần
thiết của các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế mà
ngân hàng là một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát triển
đó. Vì vậy, việc đẩy mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của
nước ta hiện nay.

1.3.2 Vai trò của nguồn vốn hoạt động đối với NHTM
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp
Lớp: TN1C
16
Chuyên đề tốt nghiệp
nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng,
nên trong quá trình chuyển mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã chuyển dần
sang hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình
chứ không bao cấp như trước nữa. Do đó, tính năng động sáng tạo được khơi
dậy, các NHTM có xu hướng phát triển đa năng. Vì đóng vai trò là trung gian tín
dụng, trung gian thanh toán, là thủ quỹ của nền kinh tế nên NHTM là tác nhân
quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Các nguồn vốn huy động
được sẽ quyết định quy mô cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng. Nếu
nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh của một
NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu vào thường xuyên, chủ
yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ
yếu dựa vào nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh
doanh của NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với
chi phí thấp nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao.
Ngược lại, với quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn
trong hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên
quan chặt chẽ với lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và
lãi suất các công cụ nợ do ngân hàng phát hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu
hụt trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động
vốn, ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ tín
dụng với ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư
cho vay đối với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham ô,

trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện
pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng
huy động được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy
động vốn càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân
Lớp: TN1C
17
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng. Do vậy, công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM
và nó quyết định rất lớn đến thành công hay thất bại của ngân hàng.
1.3.3 Sự cần thiết phải huy động vốn
Kể từ khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, các đơn vị kinh tế được
tự chủ trong kinh doanh đòi hỏi phải tự mình tạo lập các nguồn vốn khác nhau
và sử dụng có hiệu quả. Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh, trước tiên các nhà
đầu tư mời pháp nhân, thu nhận có một số vốn nhất định mà pháp luật còn gọi là
vốn pháp định. Hơn nữa, bản thân quá trình đầu tư cho xây dựng và mua sắm
thiết bị công nghệ cũng rất cần đến vốn do đó các nhà đầu tư phải tính đến hiệu
quả lâu dài nghĩa là không thể đầu tư vào công nghệ lạc hậu mà phải có phương
tiện máy móc kỹ thuật tiên tiến.
Thông thường các nhà đầu tư thường lâm vào tình trạng thiếu vốn tự có.
Vì thế trong kinh doanh, họ cần phải đi huy động vốn bằng nhiều cách khác
nhau. Ngân sách Nhà nước do yêu cầu chi cho tiêu dùng đầu tư ngày càng tăng
nhưng nguồn thu ngày càng eo hẹp và tăng trưởng chậm nên hầu như bị thiếu
hụt. Nhà nước cũng cần có vốn để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội.
Tất nhiên, nguồn vốn đó có thể được Nhà nước đáp ứng bằng cách in thêm tiền
nhưng cách này có thể làm tăng tỷ lệ lạm phát và kéo theo nhiều hiện tượng khác
không có lợi cho nền kinh tế. Do đó bản thân Nhà nước cũng cần tự tìm cách
huy động vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách của mình. Cuối cùng bản thân ngân
hàng cũng phải có một lượng vốn ban đầu làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh
tiền tệ của mình. Nhưng ngân hàng do bản chất là đi vay để cho vay hay nguồn

vốn ngân hàng huy động được lại là nguồn vốn để các doanh nghiệp khác đi vay
nên công tác huy động vốn lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Hơn nữa, chính sách huy động vốn là một bộ phận quan trọng trong chính
sách tiền tệ quốc gia, nó liên quan đến chính sách thu nhập trong phạm vi toàn
xã hội, tác động trực tiếp đến mọi quan hệ tích luỹ và tiêu dùng, việc hoạch định
chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến
các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Vì thế, việc đẩy
Lớp: TN1C
18
Chuyên đề tốt nghiệp
mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng trong quá trình phát triển xã hội của nước ta hiện nay. Kinh nghiệm của
các nước đã chỉ ra rằng: trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước
nguồn đầu tư trong nước luôn có ý nghĩa quan trọng và giữ vai trò quyết định
đến sự phát triển lâu dài và vững chắc của một đất nước. Trong lúc đó lại là
nguồn vốn chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
cho nên nếu phát huy tốt công tác này sẽ tăng cường được một nguồn vốn lớn
cho nền kinh tế. Như vậy công việc đẩy mạnh công tác huy động vốn là hết sức
cần thiết và có ý nghĩa quyết định đến cả quá trình phát triển nền kinh tế bởi lẽ:
Bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng nguồn lực nội bộ là chính. Sự chi
viện, bổ sung từ bên ngoài dù là viện trợ cho vay hay đầu tư nước ngoài cũng chỉ
là tạm thời. Vốn ODA là vốn vay thì cuối cùng vẫn phải dùng vốn trong nước để
trả gốc và lãi. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cũng chỉ là phần bổ sung,
không thể thay thế cho đầu tư và sản xuất trong nước. Vì thế cần phải phát huy
tốt công tác huy động vốn.
Thực tế việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài bao giờ cũng phải có vốn đối
ứng bên trong mới có thể phát triển một cách vững chắc. Vì vậy dù là công trình
được đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài thì vốn đầu tư trong nước cũng có ý nghĩa
quyết định bởi vì nếu không có vốn đầu tư trong nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng
kinh tế: điện nước, đường xá, thông tin liên lạc… hay là công trình văn hoá xã

hội như trường học, bệnh viện… thì hiệu quả sản xuất sẽ giảm sút.
Về lợi ích dân tộc, nếu không có vốn đầu tư trong nước đủ mức cần thiết
thì xét về lâu dài nguồn của cải làm ra (tính thông qua chỉ tiêu GDP) có thể lớn
nhưng phần của cải thực mà ta được hưởng (tính thông qua chỉ tiêu GNP) lại rất
ít. Như vậy, nền kinh tế nhìn thấy có vẻ phồn vinh nhưng thực ra của cải đó
không thuộc sở hữu của nhân dân trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh
nghiệp trong nước chỉ dừng lại ở mức 30% như hiện nay chủ yếu là do thiếu vốn
đối ứng trong nước. Không ít doanh nghiệp trong nước phải dùng quỹ đất để góp
vốn, phần còn lại phải đi vay nước ngoài để góp vốn liên doanh. Một số doanh
Lớp: TN1C
19
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp trong nước mua thiết bị nước ngoài theo hình thức trả chậm nhưng do
không có vốn nên phải đi vay thương mại với những điều kiện bất lợi làm ảnh
hưởng không tốt đến hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Với sự cần thiết như vậy vốn luôn là yếu tố quyết định đối với sự phát
triển kinh tế xã hội.
Lớp: TN1C
20
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI
CHI NHÁNH NHNo&PTNT ĐỐNG ĐA
2.1 TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Năm 2009 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chịu tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008, các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ,
xuất khẩu… đồng loạt gặp khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam
đã có hàng loạt các giải pháp kích thích kinh tế như: cho vay hỗ trợ lãi suất,
miễn, giảm hoãn thuế, nới lỏng chính sách tiền tệ… để thúc đẩy các doanh
nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh duy trì và phát triển sản xuất, mở rộng đầu tư.
Đến quý II/2009 kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển tích cực, dần ổn

định và phục hồi nhanh chóng ở những tháng cuối năm. Kết quả GDP cả năm
tăng 5,32% thấp nhất trong thập kỷ qua và giảm mạnh so với kết quả trên 8%
các năm trước, song vẫn giúp Việt Nam nằm trong số hiếm hoi các nền kinh tế
tăng trưởng dương. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần
lượt là 4,46%; 6,04%; 6,9%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2009 tăng
6,88% so với năm 2008.
Cũng nằm trong tình hình khó khăn chung của cả nước nhưng năm 2009
Hà Nội vẫn huy động tối đa nguồn tài lực cho tăng trưởng kinh tế ở mức cao
nhất. Kinh tế - xã hội của Hà Nội từ giữa năm đã có những dấu hiệu sản xuất
phục hồi và khởi sắc trong quý IV năm 2009. Kết thúc năm 2009, GDP Hà Nội
đạt tốc độ tăng trưởng 6,67%, cao hơn mức chung của cả nước và cao hơn so với
nhiều địa phương khác. Hầu hết lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giữ được mức duy
trì hoặc tăng trưởng khá, tạo đà cho giai đoạn từng bước tăng trưởng nhanh và
bền vững trong năm 2010 và những năm tiếp theo. Đến cuối năm 2009 giá trị
sản xuất công nghiệp tăng 9,4% so với năm 2008, trong đó kinh tế nhà nước tăng
6,1%, kinh tế ngoài nhà nước tăng 11,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 9,4%.Bên cạnh đó, vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn đạt 147.814 tỷ đồng,
tăng 18,2% so với năm 2008.
Lớp: TN1C
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Năm 2009 cũng là một năm đầy biến động của thị trường tài chính, ngân
hàng. Cùng với Chính phủ, ngành ngân hàng đã thực hiện các gói kích thích kinh tế
như cho vay hỗ trợ lãi suất, giảm lãi suất cho vay để giảm gánh nặng chi phí tài chính
cho các doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ ổn định, lãi suất cơ bản duy trì 7%/năm
trong 8 tháng, đến đầu tháng 12 được điều chỉnh lên 8%/năm. Tốc độ tăng trưởng tín
dụng cao và nhanh hơn tốc độ tăng nguồn vốn, đẩy các ngân hàng vào cuộc đua tăng
lãi suất huy động, lãi suất huy động gần bằng lãi suất cho vay. Thị trường ngoại tệ
căng thẳng, mất cân đối cung cầu, tỷ giá tăng cao, Ngân hàng nhà nước phải nhiều
lần điều chỉnh biên độ tỷ giá. Thị trường vàng cũng biến động khôn lường, giá vàng

trồi sụt, các tin đồn thất thiệt tác động tiêu cực đến tâm lý người dân cũng đã gây
ảnh hưởng phần nào đến hoạt động ngân hàng.
Trước nền kinh tế nhiều biến động, Chi nhánh NHNo&PTNT Đống Đa
cũng đã cố gắng và đạt được kết quả nhất định trong năm 2009 đóng góp vào
hoạt động chung của toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
2.2 TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH NHNo&PTNT ĐỐNG ĐA
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Đống Đa
Năm 1988 hệ thống ngân hàng chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, từ đó
cùng với cơ chế quản lý mới của hệ thống ngân hàng và những nhu cầu mới
trong cơ chế thị trường như tiết kiệm, đầu tư gia tăng, hệ thống ngân hàng ngày
càng được mở rộng và phát triển. NHNo&PTNT Việt Nam là một trong những
ngân hàng có mạng lưới chi nhánh ngân hàng cấp 1 được thành lập theo
QĐ/27/06/1988 của Tổng Giám Đốc NHNo&PTNT Việt Nam trên cơ sở tách
chuyển từ NHNo Thành phố nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư,
phát triển kinh tế Thủ đô, đặc biệt trong lĩnh vực No&PTNT.
Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Đống Đa là chi nhánh cấp II thuộc Chi
nhánh NHNo&PTNT Hà Nội được thành lập năm 2000, nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế trên địa bàn quận và đóng góp phần mở rộng quy mô hoạt
động của NHNo Thành phố, trụ sở chính đặt tại 154 Tôn Đức Thắng. Ngày
01/04/2008 Chi nhánh được NHNo&PTNT Việt Nam nâng cấp thành Chi nhánh
Lớp: TN1C
22
Chuyên đề tốt nghiệp
cấp I trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, trụ sở chính đặt tại 3/37 Đê La Thành,
Đống Đa, Hà Nội, ngày 19/01/2009 trụ sở chuyển về 211 phố Xã Đàn, Đống Đa,
Hà Nội.
Cơ cấu tổ chức chi nhánh NHNo&PTNT Đống Đa
Ban Giám đốc: 01 đồng chí giám đốc, 02 phó giám đốc
Các phòng ban:
- Phòng Hành chính nhân sự

- Phòng Kế hoạch kinh doanh
- Phòng kế toán ngân quỹ
- Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ
Phòng giao dịch:
- Số 23: 154 Tôn Đức Thắng
- PGD Xã Đàn: 318 phố Xã Đàn
- Số 24: số 67 Nguyên Hồng
- Số 25: 158 Thái Thịnh
Cũng như nhiều ngân hàng khác, NHNo&PTNT Đống Đa hoạt động kinh
doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ với một số chức năng nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Huy động tiền gửi và cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng tiền
Việt Nam và ngoại tệ với mọi thành phần kinh tế và dân cư.
- Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu
- Cho vay cần cố thế chấp các giấy tờ có giá.
- Làm dịch vụ kiều hối và kinh doanh ngoại tệ.
- Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh.
- Thanh toán chuyển tiền điện, điện tử…
2.2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Đống Đa đến
31/12/2009
2.2.2.1 Nguồn vốn huy động đến 31/12/2009
Tổng nguồn vốn đến 31/12/2009 đạt 1.050 tỷ đồng, tăng 112 tỷ (tăng
11,94%) so với năm 2008, đạt 60% so với kế hoạch năm 2009. Trong đó, nguồn
Lớp: TN1C
23
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn huy động từ dân cư đạt 480 tỷ đồng, chiếm 56,47% tổng nguồn vốn, tăng
106 tỷ (tăng 28,34 %) so với năm 2008, đạt 89,22 % kế hoạch năm 2009; tiền
gửi của các tổ chức kinh tế đạt 370 tỷ đồng, chiếm 43,53% tổng nguồn vốn,
giảm 129 tỷ (giảm 26%) so với năm 2008; tiền vay các tổ chức tín dụng đạt 200
tỷ, chiếm 19% tổng nguồn vốn,tăng 300% so với năm 2008

a. Cơ cấu vốn theo thời gian
Biểu đồ 1: Nguồn vốn phân theo thời gian năm 2009
76,8%
23,2%

Tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2009)
Nguồn vốn không kỳ hạn đạt: 243,088 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng
23,2% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn có kỳ hạn đạt 806,912 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 76,8 % tổng nguồn vốn. Riêng nguồn vốn có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt
421,41 tỷ đồng chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn của chi nhánh, đã giúp
chi nhánh có nguồn vốn ổn định và chủ động trong kinh doanh.
b. Cơ cấu vốn theo đồng tiền huy động

Lớp: TN1C
24
84,7%
15,3%
Chuyên đề tốt nghiệp
Biểu đồ 2: Nguồn vốn huy động theo loại tiền gửi năm 2009
Nguồn vốn nội tệ Nguồn vốn ngoại tệ
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2009)
Nguồn vốn nội tệ đạt 889 tỷ đồng, tăng 60 tỷ đồng (7,2%) so với
năm 2008, chiếm 84,7% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn ngoại tệ đạt 161 tỷ tăng 62
tỷ chiếm 15,3% tổng nguồn vốn. Cơ cấu nguồn vốn ngoại tệ chiếm tỉ lệ thấp,
phương hướng trong những năm tới nguồn vốn này sẽ chiếm từ 20- 30% tổng
nguồn vốn huy động.
2.2.2.2 Dư nợ cho vay đến 31/12/2009
Tổng dư nợ đến 31/12/2009 đạt 509 tỷ đồng tăng 176 tỷ (34,6%) so với
năm 2008, đạt 98,26% kế hoạch năm 2009. Trong đó:

+ Dư nợ ngắn hạn: 327 tỷ đồng chiếm 64 % tổng dư nợ, tăng 100 tỷ (44%) so
với năm 2008.
+ Dư nợ trung, dài hạn: 182 tỷ chiếm 36% tổng dư nợ, tăng 76 tỷ (71,7%) so với
năm 2008.
Tốc độ tăng trưởng 34,6% với số tuyệt đối là 176 tỷ đồng cho thấy năm
2009 NHNo&PTNT Đống Đa có mức tăng trưởng tương đối tốt so với tốc độ
tăng của toàn hệ thống.
Có biểu đồ tăng trưởng dư nợ các năm:

Biểu đồ 3: Tăng trưởng dư nợ tín dụng các năm: 2007, 2008, 2009
Lớp: TN1C
25

×