Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.26 KB, 19 trang )

Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính
dân tộc. GS Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố
Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và
nhuẫn nhuyễn.” Ông đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân
gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ
thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy
được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của
dân tộc Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu
bài thơ tiêu biểu của ông: Việt Bắc. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca
mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân
nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.
***
Trước tiên chúng ta cần tìm hiểu thế nào là tính dân tộc trong văn học?
Dân tộc là gì? Đó là một cộng đồng người ở trong một khu vực địa lý có
chung một ngôn ngữ, một tập quán, phong tục, tâm lý…Việt Nam có 54 dân tộc
anh em. Mỗi dân tộc có những đặc điểm riêng nhưng đều mang đặc điểm chung
của Tổ quốc Việt Nam không lẫn với nước nào trên thế giới.
Tính dân tộc trong văn học là thuộc tính, là bản chất xã hội của văn học. Khái
niệm thuộc phạm trù tư tưởng, thẩm mỹ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và
dân tộc, thể hiện qua những đặc điểm độc đáo tương đối bền vững chung cho các
sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử, phân
biệt với văn học dân tộc khác.
Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn
học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả
cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam
với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng
HVTH: Ngô Minh Nhàn 1 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc


ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc. Tố Hữu là
nhà thơ dân tộc trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này.
Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự
phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã
hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và
cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời.
Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ
thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có
ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.
I. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG BÀI THƠ
VIỆT BẮC
1. Con người trong cuộc kháng chiến của dân tộc
1.1. Hình ảnh lãnh tụ - Bác Hồ
Có thể nói, trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là người có nhiều tác
phẩm sâu sắc và cảm động về Bác Hồ: Hồ Chí Minh, Sáng Tháng Năm, Cánh chim
không mỏi, Theo Chân Bác, Ta đi tới, Việt Bắc…những tác phẩm ấy không phải chỉ
là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là tấm lòng của những người con Việt Nam
hướng về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, mà qua những bài thơ đó, Tố Hữu đã thể
hiện tập trung những suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình tượng Hồ Chí Minh với
tất cả lí tưởng, lẽ sống, niềm vui và những ân tình cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ
trong văn học Việt Nam hình ảnh vị lãnh tụ, vị cha già kính yêu của dân tộc hiện
lên như một chủ đề sáng tác chính trong thơ văn Việt Nam rõ ràng mà sâu sắc đến
vậy.
Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là kết tinh của những tinh hoa dân
tộc. Bác hiện lên thật bình dị, gần gũi và thiết tha giữa “hình”, “tình” và nhạc:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa rằng Việt Bắc không nguôi nhớ Người
HVTH: Ngô Minh Nhàn 2 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người
Tố Hữu gọi Bác Hồ là Bác, là Người và đặc biệt gọi là ông Cụ. Tiếng gọi nghe
tha thiết, chất chứa bao ân tình mà gần gũi xiết bao. Rừng núi trông theo cái điều kì
ảo diễn ra như một chuyện thần tiên mà không làm ai ngỡ ngàng, vì ông tiên đó là
con người áo nâu túi vải mà ai cũng biết, cũng ngưỡng mộ. “chiếc áo nâu” là hình
ảnh gần gũi đối với những người dân Việt Nam. Không những thế Bác còn là niềm
tin, là ánh sáng nâng bước và sưởi ấm lòng mỗi người trong những hoàn cảnh đen
tối nhất:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Kết cấu này
bắt đầu từ Bài Ca tháng Mười, qua Việt bắc sẽ còn được tiếp tục trong Xưa nay,
Mười năm và Ba mươi năm đời ta có Đảng. Nó chứng tỏ những tình cảm thiết tha
của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định cũng nói lên quan
niệm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.
1.2. Hình ảnh áo chàm
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ những người dân Việt Bắc nghĩa tình
nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người
Việt Nam. Mười lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc
chiến tranh đã đẩy họ về gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm một
HVTH: Ngô Minh Nhàn 3 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
quãng thời gian không phải là ngắn, biết bao kỉ niệm biết bao những cay đắng ngọt
bùi đã trải qua giờ đây đến giây phút chia tay, ai cũng bịn rịn, ai cũng nghẹn ngào.

Tố Hữu đã một lần nữa cho chúng ta thấy được tính cách dân tộc của người
Việt Nam “trọng nghĩa, trọng tình”. Dân tộc ta rất giàu tình cảm. Tình cảm đã làm
cho con người qua cay đắng vẫn ngọt ngào, “Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi
tình bạn”. Tố Hữu ca ngợi tình cảm thuỷ chung, đặc điểm này có cội rễ sâu xa
trong truyền thống dân tộc, lại được bồi bổ phát huy thêm trong đấu tranh cách
mạng. Người dân Việt Nam mang nặng tình nghĩa đối với Đảng đã hồi sinh đất
nước, đem lại cuộc đời mới cho riêng mỗi người. Chính vì “ngọt bùi nhớ lúc đắng
cay” mà “lòng ta ơn Đảng đời đời”:
- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa.
Người Việt Nam yêu quý đất nước mình, tự hào về dân tộc mình. Nghĩa tình
thuỷ chung là đặc tính của dân tộc ta từ nghìn xưa đến nay. Trong đấu tranh gian
khổ, tình cảm ấy lại càng ngời sáng. Những con người hầu hết đã lớn lên cùng cách
mạng, luôn gắn bó với quê hương đất nước.
Tác giả đã cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời sống rất đời
thường nhưng cũng xiết bao gợi cảm ở chốn rừng núi xa xôi:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
(Việt Bắc)
Bài thơ được viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về lại thủ
đô Hà Nội, từ góc độ cuộc kháng chiến thành công mà nhìn lại căn cứ địa Việt Bắc,
chiếc nôi của Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến. Bài thơ là cuộc đối thoại
giữa mình với ta, ta với mình nhưng tình điệu, hơi thơ có khi cả lời thơ quấn quýt
hòa quyện. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:
HVTH: Ngô Minh Nhàn 4 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Mười lăm năm ấy bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại của đã diễn ra, xuất
phát từ cái nôi cách mạng.
Việt Bắc hiện lên với những con người thật đẹp biết bao. Tác giả đã dùng hai
hình ảnh đối lập để nói về tấm lòng của họ:
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
“Hắt hiu lau xám” những ngôi nhà còn nghèo, còn nhiều vất vả nhưng tấm
lòng của họ thì son sắt thủy chung vạn lần. Đó là hình ảnh của “người mẹ nắng
cháy lưng” vẫn đang ngày đêm góp công sức của mình cho cuộc kháng chiến. Đó
là hình ảnh của những con người Việt Bắc trong cuộc sống đời thường hài hòa với
hình ảnh thiên nhiên:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ hiện lên “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công
việc thầm lặng” của người Việt Bắc và dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình
ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thật thanh mảnh, dịu dàng. Cô sơn nữ một mình trong
núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khoẻ khoắn vì cô
hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng.
HVTH: Ngô Minh Nhàn 5 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
1.3. Hình ảnh chiến sĩ cách mạng
Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút

chia ly cũng đầy tâm trạng:
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút
chia tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. “cầm tay” cái cầm tay chứa chan bao
tình cảm, như muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời.
Tấm lòng của họ luôn thủy chung, son sắt:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Rời xa Việt Bắc họ ôm bao nhiêu nỗi nhớ: “từng bản khói cùng sương”,
“rừng nứa bờ tre”, “ngày tháng cơ quan”, “lớp học i tờ”…Dẫu cuộc chiến gian khổ
nhiều vất vả “Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” nhưng tâm hồn những người
chiến sĩ cách mạng vẫn:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Lạc quan, yêu đời là bản chất tính cách của con người Việt Nam. Đó chính là
nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua bao khó khăn chông
gai của cuộc đời.
Ân tình là vậy, thủy chung là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi vào trận chiến,
đối mặt với kẻ thù họ mạnh mẽ vô cùng:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
HVTH: Ngô Minh Nhàn 6 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Những nhịp điệu đêm đêm, những điệp thanh rầm rập cùng với hình thức so
sánh đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh. Khí
thế chiến đấu thần kì của quân và dân ta làm rung chuyển đất trời, không một thế
lực nào có thể ngăn cản được. Cả một dân tộc ào ào ra trận. Và còn có sự góp sức
không nhỏ của hàng chục vạn anh chị dân công:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Họ là những người đã khuân, đã vác, đã thồ hàng trăm cây số từ mấy mươi
tỉnh khác nhau ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi hàng trăm ngày
đường, qua hàng trăm đêm trắng dưới mưa bão của đất trời và bom đạn đem được
lương thực đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cả một kì công về
giao thông tiếp vận mà kẻ thù không sao có thể tưởng tượng nổi. Nó hiểu làm sao
nổi, ước lường làm sao hết cái giá mồ hôi của một bát gạo, một viên đạn mà nhân
dân ta đã cung ứng cho chiến trường Tây Bắc.
Như vậy có thể nhận thấy, bài thơ Việt Bắc đã khắc họa hình ảnh con người
Việt Nam, những con người mang những nét đặc trưng tiêu biểu cho dân tộc Việt
Nam: thủy chung, ân tình, luôn luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian khổ và
cũng rất anh hùng, dũng mãnh trong chiến đấu.
2. Phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam
Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn
riêng lẻ mà gắn liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu,
với sinh hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong
bài thơ Việt Bắc được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con
người Việt Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
HVTH: Ngô Minh Nhàn 7 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên làm nền cho vẻ
đẹp của con người xuất hiện. Thiên nhiên có con người thiên nhiên càng thêm hữu
tình. Một bông hoa chuối rực đỏ như một ngọn lửa, cháy bùng lên giữa rừng xanh
bạt ngàn xua tan đi cái lạnh lẽo giữa mùa đông giá rét. Con người bước đi hiên
ngang “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Những đóa hoa mơ dệt núi rừng thành
tấm thảm màu trắng tinh khôi. Con người miệt mài với công việc đan nón của
mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn
đầy sức sống, sáng bừng cả thiên nhiên và con người. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh
ánh trăng. Bởi đó là ánh trăng của hòa bình của yên vui và hạnh phúc. Ánh trăng
hòa quyện trong tiếng hát của con người.
Việt Bắc không chỉ là hình ảnh của riêng Tây Bắc. Tố Hữu nhắc đến rất
nhiều địa danh, có những cái tên đã đi vào lịch sử, cắm nên những cột mốc lớn nhỏ
của cuộc kháng chiến, những tên đã làm nên nội dung, linh hồn của quê hương đất
nước:
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? …
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy…
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà
Niềm vui chiến thắng đến với Việt Bắc từ muôn nơi:
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
HVTH: Ngô Minh Nhàn 8 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Miền đất nào cũng muốn góp phần mình vào cuộc kháng chiến, xây dựng đất
nước giàu đẹp hơn, hùng mạnh hơn:
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng …
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh…
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông…
Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng khắc nghiệt:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Tạo hóa ban tặng cho dải đất hình chữ S của Việt Nam nhiều thuận lợi chúng
ta có núi cao, sông dài, có biển, có rừng …nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thiên
tai. Những ngày nước lũ tràn về, Việt Bắc ngập tràn trong mây mù.
II. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
TRONG BÀI THƠ VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU
Phần I chúng ta đã đi vào tìm hiểu tính dân tộc của thơ Tố Hữu trong bài thơ
Việt Bắc trên phương diện nội dung. Nếu xét về hình thức nghệ thuật thì tính dân
tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu được thể hiện ở những nét chính sau đây:
ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà tính dân tộc. Lối cấu tứ, kết cấu giàu
sắc thái ca dao,thể thơ dân tộc được vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo.
1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được
thể hiện một cách đặc sắc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Đó là ông đã vận
dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng “mình, ta” của ca
dao xưa. Ở bài thơ Việt Bắc các cặp đại từ “mình, ta” được sử dụng một cách hết
sức sinh động và linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa.
HVTH: Ngô Minh Nhàn 9 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Cách xưng hô “mình, ta” trong lời đối đáp vốn là cách xưng hô của những
đôi bạn tình trong ca dao tình yêu:

Mình nói với ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi xách nước tắm cho con mình.
Hay:
Mình về mình bỏ ta đây
Như con tơ rối gỡ ngày nào xong.
Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Ở đây người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến đã coi nhau như những
người bạn tình, người bạn đời từng gắn bó tri kỷ suốt mười lăm năm thiết tha sâu
nặng. Vì thế nhà thơ đã để cho họ xưng hô là “mình” với “ta” rất ngọt ngào thắm
thiết. Trong bài thơ đã có một sự chuyển hoá giữa hai nhân vật trữ tình Mình – Ta
và có sự sáng tạo của nhà thơ trên cơ sở ngôn ngữ truyền thống khi sử dụng hai đại
từ này:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?
Nhưng ở những câu hỏi dồn dập tiếp theo, có một câu hỏi đọng lại nhiều băn
khoăn, day dứt mà cũng rất nặng nghĩa nặng tình:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Tố Hữu đã thêm hương sắc cho từ “mình” của ca dao, “mình” và “ta” tuy hai
là một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán
bộ kháng chiến, giữa nhà thơ với chiến khu cách mạng. Phải chăng đây cũng chính
HVTH: Ngô Minh Nhàn 10 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
là sự phân thân của chủ thể trữ tình là nhà thơ đang đắm mình trong dòng hoài
niệm thiết tha:

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi , mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
Mượn cách xưng hô “mình – ta” của ca dao xưa Tố Hữu đã đem lại cho bài
thơ Việt Bắc một vẻ đẹp riêng khiến cho bài thơ vừa dồi dào sắc thái trữ tình đời
thường với những lời dặn dò, nhắn nhủ hứa hẹn, thề nguyền rất riêng tư, lại vừa
đậm đà sắc thái dân tộc, đồng thời diễn đạt được một tình yêu rộng lớn sâu sắc,
mang tính khái quát, mang yếu tố trữ tình sử thi. Đó là tiếng nói của tình yêu nước.
Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã vận dụng một cách nhuần nhị và tài tình cách
nói tu từ phong phú, tế nhị mà giàu sức biểu đạt của ca dao dân ca xưa.
Ngoài việc vận dụng đại từ nhân xưng trong ca dao ông còn trở về với cội
nguồn dân gian của dân tộc bằng cách mượn ý những câu ca dao, tục ngữ hay sáng
tạo những câu thơ theo hơi hướng ca dao. Câu thơ: Mình về mình có nhớ không /
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? lấy ý từ câu tục ngữ quen thuộc: “Uống
nước nhớ nguồn”. Thơ ca dân gian hay viết về nỗi nhớ nhung, Việt Bắc của Tố Hữu
cũng vậy:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Nhớ từng bản khói cùng sương…
Nhớ từng rừng nứa bờ tre…
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng…
Nhớ những cảnh quân đi điệp điệp trùng trùng, nhớ một buổi họp Trung
ương, lớp học i tờ, một vầng trăng thu…Đó là tất cả những kỉ niệm đáng nhớ trong
kháng chiến nên nó có gì đó gần gũi với nỗi nhớ da diết đến cháy lòng trong ca
dao:
Nhớ ai nhớ mãi thế này
HVTH: Ngô Minh Nhàn 11 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Nhớ đêm quên ngủ nhớ ngày quên ăn
Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn

Đã bưng đến bát lại dằn xuống mâm…
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
(Ca dao)
Nhớ nhung là một trạng thái tình cảm thường xảy ra mà ai cũng có thể bắt
gặp. Trong bài thơ Việt Bắc, nỗi nhớ đa dạng, bát ngát, mênh mông. Nó cụ thể mà
bao quát, gần gũi mà thiêng liêng, tha thiết mà không bi lụy.
Những câu thơ nhắc đến những địa danh của đất nước cũng gợi ta nhớ đến
những câu thơ trong ca dao:
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai.
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn…
(Ca dao)
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông
(Việt Bắc)
Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ngôn ngữ trong thơ Tố Hữu là ngôn ngữ giản dị
đời thường gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân ta. Không có những
HVTH: Ngô Minh Nhàn 12 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
điển tích, điển cố những sáo ngữ, tất cả cứ như từ cuộc sống ào ạt vào trang thơ mà
“thơ” đến lạ kì:
Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Những củ sắn lùi, bắp ngô, bát cơm, chăn sui…những điều bình thường giản
dị thậm chí “xoàng xĩnh” của cuộc sống tưởng rằng không bao giờ được đem vào
thơ nhưng vẫn được Tố Hữu lựa chọn.
Như vậy, có thể nhận thấy, ngôn ngữ trong bài thơ Việt Bắc nói riêng và
trong thơ Tố Hữu nói chung là ngôn ngữ của dân tộc được bắt nguồn từ cội nguồn
văn học dân gian Việt Nam và từ cuộc sống đời thường. Thế nên, nó dễ làm rung
động trái tim con người bởi đó là ngôn ngữ của dân tộc, tiếng Việt của người Việt
Nam.
2. Thể thơ
Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của
một đôi trai gái lúc xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân
dân mang cốt cách thuần túy Việt Nam. Đơn vị cơ bản của nó là một khổ thơ (gồm
hai câu, một câu lục và một câu bát) chiếm hai dòng thơ với số tiếng (chữ) cố định
mười bốn chữ có thể có từ hai đến hàng nghìn câu thơ.
Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thể thơ lục bát, mang âm điệu dịu
dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát tiếng ngâm lời ru đã cất cánh cho thơ
Tố Hữu bay đến mọi miền của đất nước. Tố Hữu là nhà thơ cách mạng phát triển
thơ trữ tình điệu nói trong lĩnh vực thơ chính trị công dân đưa tiếng nói thơ ca cách
mạng vào trong thơ, nâng tiếng nói tâm tình đời tư thành tiếng nói tâm tình chính
HVTH: Ngô Minh Nhàn 13 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
luận. Trong bài thơ tác giả sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: mình, ta để bộc
lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm:
- Lòng ta ơn Ðảng đời đời…
Mình đi, ta hỏi thăm chừng…

Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác giả chuyển tải được
những tình cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn biệt. Những câu
thơ như những lời hát ru vọng lên từ thủa ấu thơ làm người đọc mãi không quên:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? …
3. Nhạc điệu
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần.
Giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm
hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình.”Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc
trưng riêng đó là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như
lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Chất nhạc ngoài tài nghệ phối thanh còn ở
cách gieo vần. Một nhà thơ giàu từ ngữ và am tường sâu sắc luật thơ.
Có thể nói rằng nhạc điệu là yếu tố đi liền với ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Nhà
thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Tố Hữu có một hơi thơ dân tộc trong âm điệu”. Có
được điều ấy bởi lẽ Tố Hữu là nhà thơ có biệt tài trong việc phối hợp các âm thanh,
từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ rất
giàu nhạc điệu, có thể chứa đựng cảm xúc dân tộc, thể hiện được tâm hồn dân tộc
qua từng giai đoạn cách mạng.
Nhưng nhạc điệu trong thơ Tố Hữu là nhạc điệu sống mãi với lòng người,
làm rung động cả trái tim và khối óc người nghe. “Điệu dân tộc Tố Hữu đã biết đặt
quả tim dân tộc sau âm thanh là có cả một tâm hồn” – Xuân Diệu. Chính vì vậy mà
nhạc điệu trong thơ Tố Hữu mãi ngân nga trong lòng tâm hồn tác giả. Bởi “Thơ là
HVTH: Ngô Minh Nhàn 14 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sâu nhưng lại dễ khô khan. Nếu rơi vào
vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say lòng người nhưng không khéo lại nông cạn”
Việt Bắc là điệp khúc của nỗi nhớ:
- Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt,
thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở
những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử
dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc
động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về
cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ.
Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù
Miếng cơm / mối thù
Trám / măng
Hắt / son
Nhớ / mình
Tân / đa
HVTH: Ngô Minh Nhàn 15 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến
luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối, nó
mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra
bởi sự thâm thúy, hàm súc:
Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa
Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay
được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý
hai ta là một đã rõ. Nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình
đi, mình có” là chỉ người về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu
kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu
lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son.
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. “mình” vừa là bản
thân vừa là ta, “mình” cũng là người thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại
từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến Việt Bắc cất lên như
tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người đi.
Như vậy, biệt tài của Tố Hữu là ru người trong nhạc, đánh thức con người
bằng ý thơ và chế biến ý tưởng cách mạng thành thức ăn của tâm hồn.
4. Hình ảnh thơ
Đến với thơ Tố Hữu, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống
dân tộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân.Nhà thơ Chế
Lan Viên đã từng nhận xét: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh”.
Bút pháp quần chúng ấy đã góp phần làm nên sắc thái dân tộc đậm đà trong thời Tố
Hữu.
Đó là hình ảnh trám bùi, măng mai, cảnh trăng lên đầu núi, bếp lửa nhà sàn…hết
sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong tâm khảm của con người Việt Nam:
HVTH: Ngô Minh Nhàn 16 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Có lẽ trước đó trong thơ Việt Nam, những hình ảnh hết sức quen thuộc với
cuộc sống hằng ngày, tưởng như chẳng có gì đáng nói, lại đi vào thơ nhiều như
vậy. Tất cả đã ùa vào thơ Tố Hữu một cách tự nhiên thoải mái để tạo nên một
không khí dân tộc đậm đà. Và điều đáng nói hơn là dưới ngòi bút miêu tả tài tình
của nhà thơ, chúng đã trở thành những hình tượng thơ sinh động, giàu xúc cảm đem
đến cho người đọc những xúc cảm sâu xa.
Thơ Tố Hữu là thơ viết cho đại chúng, và điều làm nên “bút pháp quần
chúng” trong thơ ông không chỉ vì những hình ảnh ấy quen thuộc, dễ hiểu, giản dị
mà còn vì nó rất giàu sức biểu cảm cho nên dễ lắng sâu và lưu lại trong lòng bao
thế hệ bạn đọc.
***
Targo từng nói: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc
mình trước thế giới.”. Tố Hữu đã làm được điều đó hơn nữa đã làm một cách rất
xuất sắc. Trên những trang thơ của ông mà tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc là hình ảnh
của thiên nhiên, con người Việt Nam. Những con người nghĩa tình, thủy chung son
sắt dù trải bao khó khăn gian khổ vẫn luôn lạc quan, hướng về tương lai. Những
con người Việt Nam hồn hậu, hiền lành nhưng rát anh dũng trong chiến đấu. Đó là
hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp với núi, với sông với những tên đất, tên miền
mang hồn thiêng của dân tộc nhưng cũng khắc nghiệt, chứa đầy bao hiểm nguy.
Đọc Việt Bắc, ta có cảm giác như được nghe những lời ru từ thủa nhỏ của bà của
HVTH: Ngô Minh Nhàn 17 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
mẹ bởi nhịp thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại. Bởi ngôn ngữ bắt rễ từ văn học dân
gian. Bởi những hình ảnh thơ gần gũi, thân thương nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Tố
Hữu thực sự đã mang hồn thiêng núi sông, tâm hồn dân tộc lên những lời thơ Việt
Bắc. Bài thơ xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Văn hóa thông tin.
2. Nhiều tác giả (2011), Tố Hữu – tác phẩm và lời bình, NXB Văn học.
3. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
4. Đinh Quang Tốn, “Tính dân tộc và tính hiện đại trong văn chương”,
/>5. Thơ Tố Hữu, NXB Kim Đồng, Năm 2000.
HVTH: Ngô Minh Nhàn 18 GVHD: TS Phan Ngọc Thu
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu qua bài thơ Việt Bắc
MỤC LỤC
HVTH: Ngô Minh Nhàn 19 GVHD: TS Phan Ngọc Thu

×