Nhà nhân học Mỹ, tập 108, Số 1, tr. 178–190, ISSN 0002-7294, Bản điện tử ISSN:
1548-1433. Bản quyền 2006 bởi Hiệp hội Nhân học Hoa Kỳ.
Quyền và phép xuất bản trực tuyến tại website:
BARBARA RYLKO-BAUER
MERRILL SINGER
JOHN VAN WILLIGEN
NHẬN ĐỊNH LẠI VỀ NHÂN HỌC ỨNG DỤNG:
QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI
Người dịch: PGS.TS. Nguyễn Xuân Thơm
Tóm tắt:
Mối quan tâm ngày càng tăng về tác động của nhân học trong cả giới và
trong khung cảnh xã hội rộng lớn đã dẫn đến việc đòi hỏi phải có một nền nhân
học “công chúng” hơn và phù hợp hơn. Trong bài báo này, chúng tôi mở rộng
trên hướng đó bằng cách kêu gọi một sự tham gia có hệ thống của lý thuyết xã hội
phê phán vào ứng dụng và tham gia thực tế với các vấn đề đương thời. Chúng tôi
lập luận ủng hộ việc tái định vị nhân học ứng dụng như là một thành phần cốt tử
của ngành học rộng lớn và nêu ý kiến rằng nó cần phục vụ như là một khung xây
dựng một ngành nhân học nhập cuộc nhiều hơn nữa. Trong rà soảt lại lịch sử của
ngành học và các phê phán về nhân học ứng dụng, chúng tôi biểu thị vai trò trung
tâm của ứng dụng trong suốt tiến trình vận động của nhân học, đề cập những quan
niệm sai lầm từng làm rào cản đối với sự hội nhập thực tế của ngành học, khảo sát
vai trò của việc đề xướng một sự nhập cuộc lớn hơn cúng như mối quan hệ của lý
thuyết đối với thực tiễn và kết luận là một đánh giá về một công việc đa dạng vốn
sẵn tồn tại trong cơ cấu tổng thể của nhân học ứng dụng”
[Từ khoá: Nhân học ứng dụng, nhập cuộc, lịch sử nhân học, thực hành nhân học,
đề xướng]
Trong thập kỷ qua người ta ngày càng ý thức hơn về nhân học nói chung về nhu
cầu phải có một vai trò nhập cuộc nhiều hơn của ngành học trong cả giới học vấn
lẫn công chúng xã hội cũng như có sự đòi hỏi về sụ phù hợp cao hơn trong tiếp
cận các vấn đề xã hội và cấu trúc sản sinh và duy trì các vấn đề đó. Phầnlớn cuộc
thảo luận này được tiến hành trong phạm vi giới học vấn và tập trung tiêu điểm
váo các cách tiếp cận mới (ví như nhân học công chúng) và các phương thức
khác các nhà nhân học có thể mở rộng tác động của ý tưỏng của học và gắn với
1
một công chúng rộng lớn hơn. (Basch và những người khác 1999; Borofsky 2000;
Forman 1995).
Một số lượng đáng kể các nhà nhân học đã chăm chú để mắt theo dõi các vấn đề
xã hội ập đến với họ. Nhưng viết với một mong muốn hướng tới một cộng đồng
học thuật rộng lớn là chưa đủ. Như James Peacock đã lưu ý , “Nếu để cho ngành
học dành được sự thừa nhận và có một bản sắc giá trị, nó phải có công trạng riêng
của nó; nó phải hoạt động tích cực vượt lên một chiến lược phân tích. Tính thực
tiễn và tìm tòi sự phê phán là những thứ nó không nên lảng tránh” (1997:12).
Chúng tôi mở rộng theo hướng suy nghĩ này bằng cách kêu gọi một sự tham gia
mang tính hệ thống của lý thuyết xã hội phê phán vào ứng dụng và vì mục đích
nhập cuộc thực tế với các vấn đề đương thời của các thế giới xã hội và vật thể.
Trong bài báo này chúng tôi ủng hộ việc định vị lại nhân học ứng dụng bằng cách
nêu ra ý tưởng rằng nó nên trở thành một trong những khung cho mục đích nhập
cuộc thực tế của ngành học. Trong khi đưa ra lập luận của chúng tôi. Chúng tôi
trước hết đề cập một số vấn đề hoang đường và nguỵ biện xung quang vấn đề ứng
dụng, bằng cách rà soát lại (và, bằng cách đó, nhận định lại) lịch sử ngành học
trong khi biểu thị tính phức tạp và đa dạng của công việc làm nền móng cho nhân
học ứng dụng. Chúng tôi kết luận bằng cách đánh giá hiện trạng của việc nhập
cuộc của nhân học, trong khi lập luận rằng nếu nhân học chỉ thuần tuý liên quan
đến câu chữ về nhập cuộc thì đường hướng thực tế của việc ứng dụng nó phải
đóng vai trò trung tâm cho ngành học. Việc tách rời lý thuyết và thực tiễn là một
hiện tượng đặc thù phương Tây. Ở nhiều vùng khác của thế giới, trái lại, sự phân
biệt ứng dụng lý thuyết là hoàn toàn không phù hợp bởi vì công việc của nhân học
tiến hành bởicác học giả trong ngành học thường được đẩy vào các vấn đề cấu trúc
và kinh tế xã hội phê phán, qua đó gắn lý thuyết với thực tiễn (Baba and Hill 1997;
Gonz´alez 2004; Guerr´on-Montero 2002).
Chúng tôi tập trung chủ yếu trong bài báo này về lịch sử như để đề cập các nguỵ
biện của nhiều người đã ngáng trở việc tái thống nhất nhân học. Một ví dụ được
biểu thị trong đoạn dưới đây, là đoạn văn xuất hiện trong một lời mở đầu lãe ra là
phải sâu sắc về vấn đề bạo lực:
Cái gọi là “nhân học ứng dụng” mang màu sắc của lịch sử. Sinh ra như một
đứa con nhặt của chủ nghĩa thức dân …. Nó đến tuổi trưởng thành trong
thời chiến tranh lạnh …. để thấy mình trưởng thành thành một phái của
toàn cầu hoá theo chủ nghĩa tự do mới nhân danh sự nhậy cảm văn hoá có
vẻ tốt bụng và dịu dàng hơn và đôi khi nó tỏ ra chỉ là một nghiên cứu chi
phí - hiệu quả dựa trên cơ sở thị trường [Scheper-Hughes and Bourgois
2004:7–8].
Mặc dù các tác giả đã đưa ra một lới phê phán mang tính xuyên ngành trên cơ sở
lịch sử trong lời giưói thiệu của họ, nhưng trong đoạn cụ thể này họ đưa ra một
quan điểm đơn điệu độc. Đây vẫn cón là quan điểm được chia sẻ bởi nhiều người
trong ngành học chung. Theo bức tranh này, nhân học ứng dụng được tách ra vì sự
2
gắn kết của nó với chủ nghĩa thực dân, vì sự nối kết đáng ngờ của nó với các bộ
máy chiến tranh lạnh, và vì tính liên quan tự nhận của nó với những người tạo ra
chứ không phải là những người giải quyết các vấn đề xã hội.
Một cách hiểu khác về nhân học ứng dụng có đựoc nhờ sự quan sát kỹ hơn lịch sử
của nó, vai trò của nó trong việc hình thành ngành học và sự đa dạng hiện nay về
viễn cảnh nghiên cứu và thực tiễn. Chúng tôi lập luận ràng nhân học ứng dụng
ngày nay không thể giản đơn gắn với một trường hợp cụ thể thông qua các hệ
thống xã hội chi phối, các quá trình lịch sử, hoặc các giai cấp xã hội. Nó cần được
quan niệm chính xác như “một ngành nhân học thực hành” phức tạp và rộng lớn,
thống nhất về mục đích và thực hành áp dụng các lý thuyết, các khái niệm và các
phương pháp rút ra từ nhân học để đối diện với các vấn đề của con người, những
vấn đề thường đóng góp vào việc làm sâu sắc thêm sự đau khổ xã hội.
Cũng giống như vậy, khởi nguyên của nhân học ứng dụng không thể dễ dàng được
tách ra khỏi sự ra đời và phát triển của tổng thể ngành học. Thuật ngữ nhân học
ứng dụng đã được dùng hơn một thế kỷ nay; Nó gắn kết với sự ra đời của các
khoa nghiên cứu về nhân học. Nó xuất hiện, ví dụ trong một bài báo năm 1906 có
liên quan đến khoa nhân học ở trường đại học Oxford, cái khoa đóng một vai trò
quan trong trong sự phát triển chung của ngành học … (Read 1906:56). Một trong
những bài báo về nguồn gốc của khoa này nói rằng khoa này lúc đầu được thành
lập theo kiểu một “chương trình đào tạo ứng dụng” để đáp ứng nhu cầu của đế chế
về nhân sự được đào tạo về nhân học, với nhiều giảng viên ban đầu là những
người trở về Anh sau khi làm việc cho chính quyền thuộc địa.
Như vậy, trong lịch sử của nhân học, ứng dụng là cái có trước, làm đòn bẩy cho
các khoa nghiên cứu thủa ban đầu, những khoa rõ ràng được hình thành theo mệnh
lệnh thuộc địa nhưng vẫn có động cơ mong muốn các cuộc cải cách hệ thống
(Ervin 2000:14). Nhân học lý thuyết ngày nay gắn trực tiếp với và phát triển từ
những ứng dụng như vậy. Tuy nhiên, sự gắn bó này với chủ nghĩa thưcj dân
thường được trình bày chỉ như một di sản đơn lẻ của nhân học ứng dụng mà bỏ
qua một sự thật rằng toàn bộ nền nhân học đều được mọc lên từ những gốc rễ đầy
vấn đề này.
Tất nhiên, một việc đánh giá phê phán công bằng luôn vấp phải các vấn đề về đạo
lý và quyền lực chi phối lịch sử ngành học, nhưng nó buộc phải làm thế theo cách
trình bày một búc tranh cân đối và mang tính đại diện cho nhân học ứng dụng.
Chúng tôi tin rằng ứng dụng không nên được định vị như là vết nhơ hay là đấng
cứu thế của nhân hoc. Thay vì nó cần được xem xét như là một yếu tố lớn mang
tính sống còn của toàn bộ ngành học rộng lớn, phản ánh cái mà nhiều nếu không
phải là hầu hết các nhà nhân học hiên nay đang và sẽ còn tiếp tục tiến hành nếu
ngành này có cơ sống sót và phát triển.
3
RÀ SOÁT LẠI LỊCH SỬ
Nhân học ứng dụng, không phải chỉ đứng ở ngoài rìa, mà đóng một vai trò cơ bản
trong việc đặt nền móng cho cơ sở hạ tầng của chuyên ngành chung. Đóng góp
của nó bao gồm việc định hình tổ chức chuyên môn, phát triển các nhánh của môn
học, thiết lập các tiêu chuẩn về tư cách môn học. Ngoài ra nó còn là một nguồn
sản sinh các khái niệm nhân học, hướng nghiên cứu, lý thuyết, và một vấn đề mà
chúng tôi sẽ đề cập sau trong bài báo này.
Các hiệp hội học vấn quan trọng ra đời từ các hội tập trung chính vào việc ứng và
cải cách xã hội. Ví dụ, sự phát triển của Hôi Nhân học Hoa Kỳ [American
Anthropological Association (AAA)] gắn liền với Hội Nhân học Washington
[Anthropological Society ofWashington (ASW)], cơ quan thủa ban đầu của tạp chí
Nhà Nhân học Mỹ [ American Anthropologist (AA]). Hội Nhân học Washington
buổi sơ khai liên quan đến việc giúp đỡ tổ chức nghiên cứu ứng dụng về vấn đề
bất công xã hội trong nhà ở của người nghèo ở Washington, D.C. (Schensul and
Schensul 1978).
Các nhánh chính của nhân học ra đời từ nghiên cứu ứng dụng, bao gồm các nghiên
cứu định hình trong nhân học đô thị, dinh dưỡng, chính trị, luật pháp, nông nghiệp,
hàng hải, môi trường và giáo dục. Điều này đặc biệt hiển nhiên trong trường hợp
của nhân học dược, vốn ra đời từ nghiên cứu ứng dụng tiến hành trong sức khoẻ
công chúng và phát triển quốc tế (Foster and Anderson 1978). Phần lớn nhân học
dược hiện nay vẫn tiếp tục được ứng dụng theo hướng bản chất này hoặc có những
ứng dụng chính sách rõ ràng một phần là vì tư tưởng chủ đề thường đề cập đến các
vấn đề cấp thiết của con người đòi hỏi phải có sự tham gia giải quyết thực tiến.
Một phát triển quan trọng khác trong cấu trúc ngành học là việc thành lập vào năm
1949 bộ quy chuẩn nghề nghiệp về tư cách trong nhân học của Hội Nhân học Ứng
dụng [Society for Applied Anthropology (SfAA )] chỉ tám năm sau ngày thành lập
của nó. Một lần nữa nhân học ứng dụng lại dẫn đầu: Hội Nhân học Hoa Kỳ mãi
phải 20 năm sau mới đưa ra được tuyên bố về tư cách đầu tiên của nó.
Như vậy, từ những khởi thuỷ lịch sử, ứng dụng đã đóng một vai trò then chốt
trong việc hình thành nền tảng của nhân học kinh viện. Bằng rà soát lịch sử của
ngành học, chúng tôi nhằm tới việc minh hoạ công tác ứng dụng gắn chặt như thế
nào với học vấn kinh viện và cách thức mà sự phát triển của nhân học ứng dụng đã
thoát ra khỏi phần còn lại của ngành học.
KỶ NGUYÊN NGƯỜI Handmaiden: CÁC GỐC RỄ THUỘC ĐỊA
Ý tưởng về áp dụng phương pháp và tri thức nhân học vào các vấn đề xã hội và
chính sách với công chúng được bắt đầu từ giữa thế kỷ 19. Một bản tổng quan
chân thực về lịch sử gian truân chảu nhân học phải thừa nhận vai trò bợ đỡ của
chính sách thuộc địa (van Willigen 2002; Willis 1974), và thậm chí người ta còn
có thể đưa ra luận điệu rằng nếu chẳng có chính sách thuộc địa thì cũng chẳng có
4
chuyên ngành nhân học. Dân tộc học đóng một vai trò quan trọng trong kinh
nghiệm quản lý chính quyền thuộc địa của nhiều nước những nới chính phủ và nhu
cầu thông tin trợ giúp cho sự phát triển của các khoa kinh viện và nghiên cứu cơ
bản. Người Anh đặc biệt sử dụng rất rộng rãi các nhà nhân học, phần lớn với tư
cách các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp. Không có bằng chứng nào cho thấy rằng
các nhà nhân học phục vụ ở các vị trí theo các nhà đương cục ngành dọc hoạc có
khả năng ra quyết định.
Một ví dụ phù hợp về việc các nhà nhân học ứng dụng tiến hành trong bối cảnh
này có thể được tìm thấy trong bản tự thuật ngắn của P. H.Gulliver’s (1985) về
các kinh nghiệm của ông khi làm việc như một nhà xã hội học ăn lương chính phủ
ở Tanganyika trong những năm 1960s. Đây là một vi trí chức vụ chuyên nghiệp
kéo theo một loạt các dự án nghiên cứu liên quan đến các vấn đề về chính quyền.
Phần lớn các dự án này được tiến hành theo yêu cầu của các quan chức cấp trên,
nhưng chính bản thân Gulliver cũng đề xuất các ý tưởng nghiên cuáu và giám sát
phần lớn các dữ liệu mà sau này ông sử dụng để xuất bản trong giới học thuật. Các
báo cáo bằng văn bản là kết quả dự án, trong đó có một số báo cáo mật, trước hết
được lưu hành trong phạm vi hẹp trong cơ quan. Gulliver lập luận rằng một số tạo
được ảnh hưởng, trong khi số khác thì không, và điều rõ ràng là đóng góp của ông
chỉ là một trong những ý tưởng đầu vào của việc ra quyết định. Ông cũng đưa ra ý
kiến chuyên gia trong lĩnh vực này như các khảo sát xã hội vùng thành thị và các
vấn đề về sử dụng đất đai.
Đây là hình mẫu chung cho công tác ứng dụng trong suốt kỷ nguyên thuộc địa,
thường dẫn đến luồng dữ liệu nằm giữa các ranh giới của lýa thuyết và ứng dụng
và. Tổng luận về những lời cám ơn của một số công trình địa dân tộc học cho thấy
các công trình này có nguồn gốc ban đầu chủ yếu là những báo cáo ứng dụng,
được tài trợ bởi các cơ quan chính phủ để thông tin cho các quan chức hành chính.
Các ví dụ bao gồm các bộ tộc đa thần giáo ở vùng bờ sông Nin của Sudan
[Pagan Tribes of the Nilotic Sudan – (Seligman and Seligman 1932)], Dân tộc Ấn
độ [The People of India (Risley 1908)], và Nuba [The Nuba (Nadel 1947)].
Dân tộc học cũng đóng vai trò rất then chốt trong kinh nghiệm thuộc địa của Hoa
kỳ. Tổ chức Dân tộc học Hoa Kỳ [The Bureau of American Ethnology (BAE)]
được thành lập năm 1879 như một bộ phận nghiên cứu chính sách của chính phủ
liên bang để cung cấp các dịch vụ nghiên cứu trong việc hỗ trợ các quyết định của
quốc hội liên quan đến “những người Mỹ bản xứ” (Powell 1881). Giám đốc của
nó, W. J. McGee, đề xuất rằng tổ chức này tập trung vào cái mà ông gọi là “dân
tộc học ứng dụng” (Hinsley 1976). Giống như trường hợp công việc của Gulliver.
Các nỗ lực của BAE thường đến từ yêu cầu của các nhà quản lý hành chính, có
lúc được thực hiện bởi sáng kiến của các nhà địa dân tộc học. BAE nhận thức vai
trò của nó là cung cấp các báo cáo được mô tả chi tiết, có chất lượng khoa học cao
cho các nhà ra chính sách, và nó thường tránh các nghiên cứu có thể gây tranh cãi,
có thể đe doạ nguồn tài chính hay thẩm quyền (Hinsley 1979). Giống như các
đồng nghiệp ở cơ quan hành chính thuộc địa Anh, hoạt động của các nhà nhân học
5
được minh chứng thông qua tiêềmnăng ứng dụng của nó nhưng sự gắn kết của nó
với những người sử dụng nghiên cứu này trong chính quyêềnthì không mạnh như
trong trường hợp đối với các đối tác người Anh.
Việc phê phán nhân học ứng dụng có nguồn gốc là tác động của nó từ sự phân tích
của các công trình do các nhà nhân học thực hiện, những người bằng cách này hay
cách khác phục vụ, trong khả năng của họ, cho các cấu trúc đế quốc và thực dân
(Asad 1973; Gough 1968; Hymes 1974). Tuy nhiên, Lịch sử sơ khai của nhân học
ứng dụng và phi ứng dụng cơ bản là như nhau, bởi vì ranh giới giữa chúng là mờ
nhat. Nhiều nhà nhân học có thể chuyển giữa vai trò ứng dụng và hàn lâm, và ứng
dụng và lý thuyết thông tin lẫn nhau.
Gần đây hơn, sự phê phán cấp tiến này đã được mở rộng ra toàn ngành hơn, bằng
cách thể hiện các tư tưởng liên quan đến sự bóc lột, áp bức và diệt chủng – ví dụ
như chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa chủng tộc, ưu sinh và chủ
nghĩa Darwin xã hội – cũng giúp hình thành việc nghiên cứu và cách phát biểu
trong khảo cổ học, cũng như nhân học thể chất và sinh vật (Arnold 2002; Schafft
2004; Thomas 2000). Vì vậy, sự liên kết có vấn đề giữa nhân học và cấu trúc bất
bình đẳng và áp bức là một ngành - là một hiện tượng trên toàn ngành. Trên thực
tế, người ta có thể tranh luận rằng “lịch sử nhân học, cả cơ sở và ứng dụng, là lịch
sử của các quan hệ quyền lực giữa các nhà nhân học với những người mà họ
nghiên cứu” vanWilligen 2002:43). Dù tốt dù xấu, các nhà nhân học đồng tân
hiệp lực tiếp cận kỷ nguyên thuộc địa với một chiến lược hai mang. Họ nắm các
cơ hội để chứng minh giá trị ngành khoa học non trẻ của họ trong khi lưu ý đến
tầm quan trọng căn bản của văn hoá nhằm sử dụng tốt trong nỗ lực bảo về các
truyền thống và quyền lợi của các dân tộc bị trị mặc dù trong một cấu trúc thuộc
địa quá đau khổ bao trùm. Những người làm việc trong suốt kỷ nguyên này phải
đối mặt với các vấn đề liên quan đến quyền lực, đạo đức, và chủ nghĩa nghề
nghiệp, và ngày nay vẫn thế. Ngữ cảnh xã hội, văn hoá và nhận thức có thể thay
đổi, nhưng những rào cản tương tự - quan liêu, tài chính, chính trị và luật pháp –
tác động đến sự thay đổi trong chính sách xã hội và chuyển địa dân tộc học thành
hành động dân tộc hiệu quả đang tiếp tục thách thức các nhà nhân học ứng dụng
đương thời (2).
Từ kỷ nguyên chính sách mới đến hậu chiến
Sự tham gia của các nhà nhân học trong việc ứng dụng đã phát triển trong suốt
thời kỳ đại khủng hoảng và kỷ nguyên chính sách mới, đạt tới đỉnh điểm vào
những năm thế chiến II Margaret Mead (1977) ước tính rằng trong suốt thời kỳ
này, 95 phần trăm các nhà nhân học Mỹ tham gia vào các nỗ lực chiến tranh. Cho
dù số lượng là hàng trăm chứ không phải hàng nghìn, thì phần lớn công việc ứng
dụng được thực hiện trong suốt cuộc chiến. Một số trong những nỗ lực của họ, hồi
tưởng lại được xem như ranh giới nhận thức phức tạp hơn và có vấn đề giữa nhân
học lý thuyết và ứng dụng. Một ví dụ là Uỷ ban Đạo đức Quốc gia (Committee
for National Morale), thành lập năm 1939 để duy trì niềm tin của công chúng
6
trong suốt cuôc chiến. Tương tự như vậy, Uỷ ban Thói quen Ăn uống (Committee
on Food Habits), bao gồm cả ông Mead như là một thành viên, chịu trách nhiệm
cải thiện chế độ dinh dưỡng, cái được xem như ảnh hưởng đến đạo đức tốt. Các
nhà nhân học cũng làm việc cho Văn phòng dịch vụ chiến lược [Office of
Strategic Services (OSS)], tiền thân của CIA Nằm trong những người này có
Gregory Bateson, người mà, cùng với những người khác, sau này đã đánh giá lại
vai trò mà ông đã đóng góp trong công tác tuyên truyền quân sự, một phần bởi vì
ông cảm thấy bị phản bội bởi sự ngược đãi của chính phủ của các dân tộc bản địa
mà OSS phải đối diện. (Price 1998).
Có lẽ nỗ lực có vấn đề nhất trong thời kỳ chiến tranh, điều dẫn đến nhiều việc tự
phê bình sau này, là sự tham gia của các nhà nhân học vào việc quản lý các trại tái
định cư Mỹ Nhật (Wax 1971). Họ phục vụ rộng rãi như “những nhà phân tích
cộng đồng” khai thác mọi thứ bên ngoài doanh trại, nghiên cứu và viết báo cáo với
mục tiêu làm cho các doanh trại hoạt động tốt hơn và ngăn chặn những kết cục
thậm chí có thể xấu hơn. Mặc dù một số người trong họ có thể làm giảm đi sự khổ
cực của những người trong doanh trại, những nhà nhân học này sau đó đã bị phê
phán kịch liệt, kết quả là sự phê phán chung đối với nhân học ứng dụng.
KỶ NGUYÊN CỦA CÁI NHÌN CHUYỂN HƯỚNG
Thời kỳ ngay sau thế chiến II đánh dấu một sự bắt đầu một sự chuyển đổi trong
mối quan hệ giữa các nhà nhân học va những người mà họ nghiên cứu. Sự giải
phóng của các nước châu Âu thuộc địa trước đây đã làm giảm đi cả sự cô lập của
nhiều nhóm xã hôi và giảm đi sự khác biệt về quyền lực giữa những nhà nghiên
cứu nhân học và cộng động mà họ nghiên cứu. Các dân tộc bản địa ngày càng có
vị trí lớn hơn trong việc đàm phán và tranh chấp quyền lực. Những thay đổi này
dẫn đến “kỷ nguyên hậu hiện đại”.
Cũng chính trong giai đoạn này của “các cuộc chiến tranh nông dân trong thế kỷ
20” (Wolf 1969) và những cuộc đấu tranh bản địa khác mà một số trong những
điều nhơ bẩn nhất của nhân học ứng dụng xuất hiện. Có thể nổi bật nhất là trong
cuộc chiến tranh Việt Nam, như việc tiến hành thử nghiệm các bộ lạc vùng đồi ở
phía bắc Thailand, tài trợ bởi Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và các đơn vị khác (Jones
1971; van Willigen 2002
)(3). Mặc dù sự tham gia của nhân học là tương đối hạn
chế, nhưng những kinh nghiệm này, cùng với các nỗ lực trong thế chiến II đã đề
cập ở trên, thường xuyên được trích dẫn trong các diễn ngôn chống ứng dụng, góp
phần vào sự thù địch chống lại việc ứng dụng trong nhiều cơ quan nhân học Mỹ. .
Hậu quả của cuộc chiến tranh đã tạo khung cho thậm chí các nghi vấn cơ bản hơn
về các ý tưởng và các cấu trúc thống trị đã được chấp nhận. Đối với nhà nhân học
lý thuyết, đã nổi lên “một cuộc khủng hoảng về trình bày tư tưởng”, và nhiều
nghiên cứu phi ứng dụng chính thống bị phê phán là tinh khiết một chiều. Các
phong cách của các ấn phẩm địa dân tộc học thay đổi. Nhân học trở nên tự ý thức
hơn, với các nhà địa dân tộc học thừa nhận sự tham gia của chính họ vào các viễn
cảnh và hành động mà họ miêu tả (Marcus and Fischer 1986). Các nghiên cứu về
7
“các nền văn hoá” và “các bộ tộc” đã mở lối cho các nghiên cứu về “nhóm dân
tộc” rồi về “cộng đồng” và “các vấn đề”. “Cái nhìn chuyển hướng” này tách ra
khỏi những miêu tả về các nền văn hoá cụ thể là để đáp ứng các câu hỏi mới về
khả năng của các nhà nhân học trình bày các dân tộc khác; thay vì, nỗ lực để “nói
về bản thân mình”
Cũng có các phê phán nhằm vào tính cá biệt và tính tương đối văn hoá đã từng
định hình phần lớn các công trình địa dân tộc học truyền thống đã có, chỉ ra cái mà
Linda Green (1999:57) đề cập đến như là “cái nhìn chuyển hướng của nhân học”
(mà tác giả này sử dụng theo nghĩa của chính trị kinh tế học phê phán). Vấn đề là
phạm vi nào mà các nhà địa dân tộc học tập trung vào, các hình mẫu văn hoá xã
hội cấp vi mô trong khi bỏ qua các thực tế khắc nghiệt và các hậu quả của bất công
xã hội, áp bức, chủ nghĩa chủng tộc, bạo hành và đau khổ, vốn sẵn có ở nhiều nơi
mà các nhà nhân học đã từng làm việc (Farmer 2003).
KỶ NGUYÊN CỦA HÀNH ĐỘNG VÀ ĐỀ XƯỚNG
Nhân học ứng dụng chịu tác động bởi cùng lực lượng, với những tính toán lại quan
trọng về vai trò của nhân học ứng dụng, nhưng việc thích nghi lại là chuyện khác
“có lẽ nằm ở đầu kia của trục” (van Willigen 2002:43). Thay vì tập trung vào địa
dân tộc học như là “phê phán văn hoá” được phản ánh (Marcus and Fischer 1986),
các nhà nhân học ứng dụng ngày càng “làm việc với những người được nghiên
cứu theo phương thức cộng tác hoặc hoà nhập” cho nên cộng đồng hoặc nhóm
người trở nên được chuyển hoá “từ đối tượng để biết thành một chủ thể tự kiểm
soát” (vanWilligen 2002:43). Trong nhiều trường hợp, điều này liên quan đến một
cấp độ đề xướng nào đó và một cam kết đối mặt với các khác biệt trong phân bố
nguồn lực, địa vị và quyền lực.
Việc đánh giá lại thật ra là xảy ra trước khủng hoảng trong ngành học rộng lớn
hơn đến vài thập kỷ, với sự chuyển hướng lớn ban đầu xảy ra trong nhân học ứng
dụng cuối những năm 1940 đầu những năm 1950. Cái mới xuất hiện là một nền
nhân học hoàn toàn mới về căn bản, liên quan đến các giá trị được biểu thị rõ ràng,
được đưa vào làm việc bởi các nhà nhân học cộng tác trực tiếp với các cộng đồng
nhằm đạt tới sự thay đổi hướng tới cộng đồng. Trong các ví dụ nổi bật nhất về các
phương pháp tiếp cận theo hướng giá trị là nhân học hành động (Tax 1958) và
nhân học nghiên cứu và phát triển (Holmberg 1958). Trong cả hai trường hợp, lý
thuyết được kết hợp với sự đề xướng và phát triển cộng đồng. Cả Tax và Allan
Holmberg đều nói về hai mục tiêu hỗ trợ lẫn nhau: tăng cường kiến thức khoa học
và cải thiện phúc lợi cộng đồng. Tax nhấn mạnh đến ý tưởng về tự quyết với vai
trò của nhà nhân học hành động là giúp cung cấp cho các cộng đồng “các giải
pháp thay thế đích thực mà từ đó những người tham gia có thể thoải mái lựa chọn”
trong khi tránh “áp đặt các giá trị của chúng ta” (Tax 1960:416). Các nhà nhân
học hành động khẳng định rằng nghiên cứu và hành động không thể được tiến
hành thông qua làm việc với các cơ quan nắm giữ quyền lực mà trong bối cảnh cụ
8
thể ban đầu đây có nghĩa là Ban Điều hành các sự vụ Ấn Độ (Bureau of Indian
Affairs).
Tương tự, các nhà nhân học nghiên cứu và phát triển nói về “sự đẩy quyền lực”
cho cộng đồng. Đây là chủ đề cốt lõi trong dự án thử nghiệm Hacienda Vicos ở
Peru, nơi các nhà nhân học ứng dụng chỉ nắm vai trò quyền lực bảo lãnh tạm thời
trước khi nhường lại nó cho cộng đồng. Dự án này được xây dựng trên cơ sở sự tin
tưởng rằng sự phát triển thành công cần phải được gắn với các điều kiện cấu trúc
và hệ thống đã từng bóc lột người nông dân Andea . “Từ khởi thuỷ, một trong
những mối quan tâm đặc biệt của dự án là nhân quyền” (Doughty 1987:148).
Việc tung ra dự án Vicos đã mang đến sự thay đổi cộng đồng mang tính cách
mạng. vì nhân học ứng dụng được tiến hành ở đó đã dẫn đến việc sở hữu các
phương tiện sản xuất chuyển giao vào tay cộng đồng (Dobyns et al. 1971). Rõ
ràng đây là khoa học xã hội ứng dụng mang tính cấp tiến. Dự án Vicos mang ý
nghĩa quan trọng trong việc mở rộng các vai trò và phạm vi của đề xướng trong
nhân học ứng dụng. Nó bị phê phán rộng rãi trong giới nhân học nhưng dù sao các
phê phán này cũng chỉ là vì lý do được khuấy lên bởi những người không cảm
thấy thoải mái với đề xướng và can thiệp.
Mặc dù cả hai cách tiếp cận đều tương đối xoay quanh tác động đối với ngành học,
các cách tiếp cận này đã đặt nền móng cho các cách tiếp cận tiếp theo nảy sinh từ
những vần đề liên quan đến quyền lực và đề xướng.nghiên cứu cộng tác (Schensul
and Schensul 1992) và môi giới văn hoá (Weidman 1976), hai phương pháp tiếp
cận khác nhau đều được phát triển vào những năm 1970 nhằm xác định lại vai trò
của nhà nhân học qua cộng đồng để đẩy mạnh các quan hệ quyền lực quân bình
trong quá trình nghiên cứu và trong quan hệ với cấu trúc xã hội rộng lớn hơn.
Khuynh hướng này trở nên rõ ràng hơn trong “hành động hoà nhập’ sau này và các
hướng tiếp cận “trên cơ sở cộng đồng” xuất hiện trong khoa học xã hội ứng dụng
(Greenwood and Levin 1998). Từ mảnh đất mầu mỡ này, xuất hiện một số tổ chức
cố gắng phấn đấu với những gắn bó chặt chẽ với nhân học và truyền thống hoà
nhập cộng tác. Một số trong số đó tập trung vào việc cải thiện sức khoẻ và cuộc
sống lành mạnh của người nghèo và những người bị áp bức ví dụ như Hội đồng về
Sức khoẻ người Tây Ban Nha (Hispanic Health Council)và Viện Nghiên cứu cộng
đồng ở Hartford ( the Institute for Community Research in Hartford) ,
Connecticut, và Hội Sức khỏe ở Cambridge (Partners in Health in Cambridge),
Massachusetts. Trong cả ba trường hợp, đề xướng với, chứ không phải đề xướng
cho các nhóm bị trị là vấn đề trung tâm đối với xứ mệnh của họ cũng như việc trao
quyền lực và sử dung nghiên cúu trong phát triển cộng đồng là các vấn đề quan
tâm vây. Các tổ chức mới được hình thành bởi các viễn cảnh tương tự cũng đang
phát triển. Trong những tổ chức này có Viện Nghiên cứu cộng đồng Florida
[Institute for Community Studies (Tampa)] và Trung tâm nghiên cứu Gia đình và
Cộng đồng [The Family and Community Research Center (Miami)].
9
Lịch sử lâu dài về các công tác có giá trị rõ ràng này làm nền tảng cho những nỗ
lực nhào nặn ra sự đa dạng đáng kể của nhân học ứng dụng để đưa vào các phạm
vi ngoại biên hẹp. Trên thực tế các phương pháp ứng dụng gần đây đã mang tính
phê phán cao hơn về sự cọ sát bên ngoài thậm chí là thụ động với các cấu trúc góp
phần tạo ra sự áp bức và bất công so với trường hợp của phần lớn các công trình
về nhân học cơ bản (e.g., Baer et al. 2004; Castro and Singer 2004; Johnston and
Downing 2004; Singer 2006a
).(4)
XEM XÉT LẠI CÁC PHÊ PHÁN
Rõ ràng, nhiều giải pháp thay thế nhằm triển khai nhân học ứng dụng đã phát triển
theo thời gian. Mặc dù vậy, hàng loạt các cách tiếp cận được dán các nhãn hiệu
khác nhau vẫn có thể gây ra nhầm lẫn, thậm chí giúp giải thích tại sao các nhà phê
phán thường giữ quan điểm bó hẹp và đồng điệu mà không tính đến phạm vi rộng
và sự đa dạng của ứng dụng hiện tại. Khuynh hướng này có từ những năm 1950.
Những người khởi xướng các phương pháp cải tiến bắt đầu đưa ra những tên gọi
riêng biệt (như “nghiên cứu cộng tác”, “môi giới văn hoá”, và “nhân học hành
động”) để đặt tên cho các định hướng của mình, thường theo một chiến lược lập
luận có thể được đoán trước đối lập với thương hiệu về nghiên cứu ứng dụng với
một “nền nhân học ứng dụng” được xác định ở phạm vi hẹp hơn, qua đó làm cho
cách tiếp cận mới có tính phân biệt cao hơn.
Việc định danh cũng xảy ra bên ngoài cơ cấu nhân học ứng dụng chính thức. Công
trình của Davydd Greenwood về “nghiên cứu ứng dụng” đã tác động đến các nhà
thực hành từ nhiều ngành học (Greenwood and Levin 1998). Ông trình bày cách
tiếp cận của mình khác hẳn với nhân học ứng dụng, khi trên thực tế, “nghiên cứu
cộng tác’ là chẳng khác gị nghiên cứu hành động, với cùng một định hướng nhằm
tới cải cách và thay đổi xã hội, như đã được trình bày tại các hội thảo về cộng tác
và dân chủ của các cơ quan cộng đồng, các cơ sở giáo dục, các chính quyền địa
phương và các cơ quan trong ngành khác (LeCompte et al. 1999; Stull and
Schensul 1987).
Hình mẫu chung của cái lập luận khác ấy được hối thúc bởi nhiều nhân tố. Trước
hết, việc định danh đưa ra một phương pháp để tách khỏi các sự kiện lịch sử có
vấn đề, ví dụ như việc sử dụng nhân học trong chính quyền thuộc địa. Thứ hai, đó
còn là những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Thứ ba, việc đặt nhãn cho phép
các nhà khởi xướng phát hiện rõ hơn những cái mà lẽ ra người ta cứ cho rằng đó là
ý kiến riêng.
Cuối cùng, việc định danh cung cấp một phương tiện để tạo một khoảng cách
thông qua vị trí thấp hơn thường gắn với thực tiễn trong tư thế đối lập với lý
thuyết , đây là một vấn đề lâu dài trong nhân học Mỹ (Baba 1994). Như Kim
Hopper (Một người đề xướng các quyền lợi hợp pháp của những người vô gia cư)
đã lưu ý, “làm việc theo hợp đồng … đã hạ thấp uy tín của người được thuê”
(2002:199). Mặc dù một loạt các nhãn hiệu đưa ra phản ánh sự đa dạng của ứng
dụng, nó cũng gây trở ngại cho sự phát triển truyền thống chung về thực hành
10
nhân học, bởi vì các cách tiếp cận mới có khuynh hướng được trình bày trong thế
đối lập với các cách tiếp cận đang có, chứ không phải là như một bộ phận của sự
phát triển không ngừng của ngành học.
Các phê phán từ bên ngoài về nhân học ứng dụng, như sự khẳng định chung rằng
nhân học là một ngành “phi lý thuyết”, đang có khuynh hướng đặt ra các khái quát
mờ nhạt chứ không phải là các phân tích cụ thể về các ví dụ cụ thể. Các quy kết
mang tính chụp mũ thường được lý giải bởi sự lập luận rằng những người làm việc
“trong hệ thống” - bất kể y tế sinh học, kinh doanh, chính phủ, hay phát triển quốc
tế - là những người ủng hộ các cơ cấu bành trướng và chỉ thế thôi. Sự nhận định về
các “mối đe doạ” và các sai sót của ứng dụng thường được xếp song song với một
giả thiết liên quan đến “tính thuần khiết” của sự theo đuổi học vấn.
Chúng tôi lập luận rằng, thay cho một viễn cảnh cân đối hơn, cần công nhận các
vấn đề sau đây: (1) tính phức tạp trong cả bối cảnh và bản chất của công tác ứng
dụng, (2) các chuyển hoá có vấn đề của các tư tưởng học thuật có va chạm đến
những nhận định về tính độc lập nhận thức, (3) phạm vi có liên quan đến công
bằng xã hội và đề xướng xuyên suốt nhân học ứng dụng, và (4) sự giao nhau giữa
lý thuyết và thực tiễn.
ĐÁNH GIÁ LẠI VỀ TÍNH THUẦN KHIẾT VÀ SỰ ĐE DOẠ
Trong khi phủ nhận quan niệm đơn lập về nhân học ứng dụng, chung ta thừa
nhận rằng tính đa dạng tồn tại trong thực tiễn và trong cả viễn cảnh lý thuyết và
rằng điều này có thể dẫn tới các cuộc tranh luận liên quan đến các vấn đề về nhận
thức luận, phương pháp, tư cách, trách nhiệm xã hội. Sự phản ánh và phê phán có
cơ sở vững vàng từ bên trong về các vấn đề như vậy có ý nghĩa rất quan trọng đối
với sự trưởng thành và phát triển của nhân học ứng dụng cũng như đối với các phê
phán từ bên ngoài khi phê phán đó là có cơ sở và thoả đáng. Ví dụ, trong xem xét
phê phán nghiên cứu bí mật và các hoạt động công khai của các nhà nhân học nói
chung, David Price đã tập trung vào các khía cạnh nhất định của nhân học ứng
dụng trong việc đánh giá tại sao SFAA và AAA cố lẩn tránh việc lên án thẳng thắn
về các hoạt động ngầm trong các tuyên bố về đạo đức nghề nghiệp của họ: (5)
Khi một số “nhà nhân học ứng dụng” chuyển từ hoạt động trên lớp sang hoạt
động làm việc trong bối cảnh chính phủ và công nghiệp, các tuyên bố lên án về sự
làm gián điệp đã khiến cho ngày càng có nhiều nhà thực hành khó chịu – và sự
khó chịu này cho thấy rất nhiều về bản chất của một số công trình nhân học ứng
dụng. [Price 2000:27, có bổ sung sự nhấn mạnh]
Mặc dù vậy, ông tiếp tục lưu ý, như ta đã thấy rằng
Các hoạt động được khoanh vùng trong các tiêu đề về nhân học ứng dụng là vô
cùng đa dạng, Từ các nghiên cứu dựa trên cơ sở của các nhà hoạt động từ thiện
hoặc được trả lương ít ỏi cho các tổ chức phi chính phủ khắp trên thế giới đến
việc tìm hiểu về các nghiên cứu về phân bổ thời gian và nghiên cứu bí mật về địa
dân tộc học về các nơi làm việc công sở hoặc công nghiệp cho mục tiêu tiêu thụ
tư của giới quản lý. [Price 000:27, có bổ sung sự nhấn mạnh]
11
Nói cách khác, ở một số lĩnh vực, việc ứng dụng có thể là có vấn đề như ở nhiều
trường hợp khác các nhà thực hành tìm thấy các lĩnh vực trong các cơ cấu có thể
tiếp nhận các đầu vào có lợi. Nếu triển khai với một con mắt phê phán chứ không
phải là chấp nhận các cấu trúc về sự bất bình đẳng đã có thì sự ứng dụng này cung
cấp cơ hội để đáp ứng đòi hỏi của Laura Nader (1969) về việc “học lên”. Trong
quá trình này, các nhà thực hành có thể thu được các nhận định sâu về các chính
sách, các chương trình mà chỉ những người sẵn sàng đi sâu vào vấn đề mới có thể
tiếp cận.
Câu hỏi liệu một người có thể làm việc như một nhà phê phán từ bên ngoài hay
một người có cái nhìn nhẹ nhàng từ bên trong trong các vũ đài chính sách và
quyền lực hiện vẫn là ngõ cụt cơ bản trong nhân học. Làm việc như một nhà phê
phán từ bên ngoài thì có thể có tự do lập luận hơn nhưng ít khi tạo ra được các
thay đổi xã hội quan trọng. Vai trò của người trong cuộc, ngược lại, có những hạn
chế và những rủi ro (ví như vừa đá bóng vừa thổi còi), nhưng nó lại tạo ra một số
cơ hội cho các tác động xã hội tích cực. Như Carole Hill đã chỉ ra “tư cách nghề
nghiệp không phải là một tiếng thét xung phong chống lại thực hành. Có sự khác
biệt giữa phê phán cái bất công và tích cực hoạt động đi tới việc điều chỉnh cái bất
công” (2000:4). Suy cho cùng, mỗi trường hợp cá lẻ phải được đánh giá theo công
trạng riêng của nó và dưới ánh sáng của các tiêu chuẩn đạo đức chung và các
khung phân tích có nền tảng xã hội.
Những người làm việc trong bối cảnh học vấn thường xem nghiên cứu của họ
thường không phụ thuộc vào học vấn của các lực lượng bên ngoài. Mặc dù vậy,
đây là điều hão huyền, vì việc cơ cấu lại các cơ sở học vấn trong bối cảnh của nền
kinh tế toàn cầu đã tạo ra các mối quan hệ phức tạp làm nảy sinh vấn đề giữa học
vấn và công nghiệp (Washburn 2005). Nói về kinh nghiệm của Canada, Janice
Newson lưu ý sự chuyển hoá quan trọng xảy ra trong hai thập kỷ qua.
Trong lý do tồn tại của trường đại học: từ việc tồn tại trên thế giới như một cơ sở
được tài trợ công hướng tới việc tạo ra và phổ biến kiến thức với tư cách như một
nguồn lực công cộng - kiến thức xã hội – thành một cơ sở, mặc dầu vẫn được hỗ
trợ bởi quỹ công cộng, nhưng ngày càng hướng tới khái niệm về tri thức được tư
nhân hoá – tri thức thị trường. [1998]
Trong bối cảnh hiện nay về các gắn kết toàn cầu và những nối kết không phải lúc
nào cũng hiển thị giữa các cá nhân, các định chế, các doanh nghiệp và các chính
phủ, thì tất cả chúng ta đều phải chú ý đến nhân học để ý thức về các chi phí và
các hậu quả của sự can dự của chúng ta. Hans Baer đã đưa ra một tiếng nói cẩn
trọng, lưu ý rằng “trường đại học đang trong quá trình trở thành một trợ thủ ngày
càng nhiều hơn cho nền kinh tế công ty hơn là một cơ sở tương đối tự trị trong đó
người ta tiến hành các tư duy phê phán (2001:50). Các nhà nhân học ứng dụng,
theo định nghĩa, đều ý thức được họ làm việc với ai hay vì ai, cho nên họ có nhiều
cơ hội hơn (và có lẽ có nhiều trách nhiệm hơn) để đặc biệt nhạy cảm với các ngõ
cụt về đạo đức nghề nghiệp khác nhau ví như việc thực hành của các nhà tài trợ có
12
các ảnh hưởng không đứng đắn hoặc thậm chí các nỗ lực hết mình nhằm kiểm soát
sản phẩm của các nghiên cứu do công ty tài trợ (Singer 2000a, 2004).
VAI TRÒ CỦA ĐỀ XƯỚNG TRONG NHÂN HỌC
Có lẽ ví dụ nổi bật nhất về vị thế nhân học ứng dụng đang chiếm ngày nay xét
trong quan hệ với sự tham gia tích cực váo các vấn đề xã hội là chủ đề được chọn
cho cuộc họp thường niên năm 2004 của SFAA “khoa học xã hội và sự đề xướng
– Social Science and Advocacy”. Đa số các báo cáo viên thảo luận mức độ đề
xướng xã hội được thâu nhận như là một bộ phận tổng hoặc như là hậu quả của
nghiên cứu và các bài viết của họ. Nhiều người nhấn mạnh vào vai trò trung tâm
của đề xướng trong công trình của họ với các nhóm bị tước quyền lực hoặc bị áp
bức và các cộng đồng hoặc trong công việc nhân danh những người bị tước đi
tiếng nói bởi các công ty, nhà độc tài hay sự kiểm soát quân sự của các kênh thông
tin công cộng.
Công trình này được xây dựng trên cơ sở một khối lượng các công trình nhân học
đang phát triển ngày càng tăng ủng hộ đề xướng như một yếu tố quan trọng của
nhân học trong sử dụng (Hopper 2003; Johnston 2001; Nagengast and V´elez-
Ib´a˜nez 2004). Như Alexander Ervin lưu ý “việc đề xướng cuối cùng đã bao trùm
phần lớn phạm vi của nhân học ứng dụng đương thời, đặc biệt xét trong quan hệ
của nó với chính sách”(2000:123).
Không phải tất cả mọi người đều đồng tình về tính phù hợp của công trình này.
Trong số các nhà phê phán mạnh mẽ nhất là Kirsten Hastrup và Peter Elass,
những người thậm chí nói rằng “chúng ta không nên quên rằng cam kết phát triển
thế giới không thay thế được cho việc hiểu biết thế giới” (1990:307). Chúng ta nên
lập luận rằng có thể nói ngược lại như vậy, nhưng người khác tập trung vào các rủi
ro liên quan đến những thứ “được đề xướng” và đạo đức nghề nghiệp từ việc kiếm
lợi do các hành động đó (Napier 2004). Không còn nghi ngờ gì nữa, các vấn đề
chính trị và đạo đức nghệ nghiệp xuất hiện khi các nhà nhân học tích cực đứng về
các vấn đề trong các cộng đồng phức tạp (Johnston 2001). Việc hội nhập có hiệu
quả đòi hỏi tính năng động, ý thức về độ phức tạp của các bối cảnh xã hội chính
trị, chất lượng cao trong nghiên cứu, bởi vì các vấn đề cốt lõi nằm ở vị trí cao hơn
trường hợp để nghiên cứu. Luôn luôn có một sự rủi ro rằng những người cầm
quyền sẽ sử dụng những phát hiện này để chống lại chứ không phải ủng hộ các lợi
ích mà công tác nhân học hướng tới.
Một quan hệ đưa ra bởi đề xướng, và một trong những điểm phê phán phù hợp
toàn bộ ngành học liên quan đến tính đáng ngờ của việc phát biểu thay măt người
khác. Các nhà nhân học ứng dụng là những người nhạy cảm về chính trị của việc
đại diện người khác. Đồng thời họ có khả năng làm việc cộng tác với cư dân đích
và thậm chí còn được thuê bởi các cộng đồng đó chính xác là vì mục đích đề
xướng thay mặt họ. Công tác đề xướng trong các bối cảnh như vậy xảy ra cùng
với, chứ không phải là vì mục đích các cộng đồng, những người thường phải đấu
13
tranh chống lại sự phân bổ quyền lực không công bằng đưa họ vào một thế bất lợi
nghiêm trọng.
Những người lập luận cho việc tách hoàn toàn việc đề xướng ra khỏi nghiên cứu
thường trình bày vấn đề này như một vấn đề nửa nọ nửa kia. Ví dụ, Roy
D’Andrade đã tóm lược việc tranh luận này xét về mặt làm nhân học trên cơ sở mô
hình khách quan về thế giới (có cơ sở vững chắc trong khoa học và liên quan đến
hiểu biết sự vật hoạt động như thế nào) hoặc trên một mô hình đạo đức (gắn kết
việc đề xướng với mối quan tâm cái gì là tốt, là xấu và ai là người đáng trách).
Dường như không có chỗ đứng nửa vời vì ông lập luận rằng cả hai mô hình đều
không có thể móc nối vào nhau được “nếu ai đó muốn tìm hiểu về thế giới”
(1995:405). Các lập luận liên quan tập trung vào đức tin rằng các mô hình cộng tác
phá huỷ độ vững chắc về phương pháp luận và rằng đề xướng xung đột với tính
khách quan không dính líu mà một người nào đó có thể cảm nhận là thước đo của
một nghiên cứu tốt (Gross and Plattner 2002).
Phần lớn các cuộc tranh luận này xảy ra trong khung cảnh bên ngoài nhân học ứng
dụng và bởi vậy bỏ qua rất nhiều ví dụ về các nghiên cứu có phương pháp luận tốt
tập trung vào vấn đề kết hợp được ở mức độ nào đó giữa “cộng tác với cộng đồng
và đề xướng” (Farmer 2003; Greenwood and Levin 1998; LeCompte et al. 1999;
Singer and Weeks 2005). Trong phạm vi hẹp, các phê phán đối ngược nhau đã bỏ
qua tính da dạng và tính phức tạp của những gì nằm dưới khung của đề xướng
(thường gắn nó với chủ nghĩa hành động lộ liễu) và giả định lầm tưởng rằng nó là
tiền đề của nghiên cứu chất lượng và khoa học thực sự. Trên thực tế, đề xướng ở
chừng mực nào đó luôn luôn hiện diện trong công trình nhân học; thậm chí những
quyết định đi ngược với hành động trên một vũ đài ganh đua xã hội lại tự nó và vì
nó tạo ra một hướng mở. Đặc biệt trong các bối cảnh bất công và bất bình đẳng
chung, tính trung lập trên thực tế là một loại tính đảng nhân danh thế quân bình
(Singer 1994).
Một cách hữu ích khác để hình thành đề xướng là quan sát nó trên một trục
(Singer 1990). Ở một đầu, chúng ta thấy nghiên cứu nhân học phục vụ các mục
đích lớn của ngành học, ví như đào sâu hiểu biết của con người hay mở rộng tri
thức. Ở khoảng giữa là khái niệm rằng tri thức nhân học có thể có giá trị trong
cuộc sống xã hội của con người, thâm chí ngay cả khi những ứng dụng cụ thể
không được tìm ra. Người ta có thể bàn luận về khởi xướng đối với nhân học, một
cái gì đó mà phần lớn chúng ta đều làm ở các trường đại học, ở các vị trí làm việc
khác, với sinh viên và với các nhà tài trợ. Xa nữa trên trục này là đề xướng chung,
rất phổ biến trong các nhà nhân học, giành cho cư dân bị cai trị, từ việc giảng dạy
về các mối đe doạ của chủ nghĩa lấy dân tộc làm trung tâm đến việc viết các bài
báo bóc trần bất công xã hội và bạo lực cơ chế. Một công trình như vậy có thể bao
gồm cái mà ……. miêu tả là “đề xướng, được giấu dưới cải vỏ của tính trung lập
khoa học” (1999:1), hoặc nó có thể liên quan đến các nghiên cứu tập trung vào
việc “khám phá các mô hình văn hoá cạnh tranh, qua đó đẩy mạnh đối thoại giữa
các nhóm xã hội đa dạng … đối lập với đề xướng cho một nhóm xã hội cụ thể”
14
(1999:2). Các loại đề xướng lộ liễu khác bao gồm việc trình bày và cung cấp các
số liệu cho các nhà lập chính sách và làm luật; trong một số hoàn cảnh, việc này
bao gồm thậm chí việc đề xướng cho quyền lợi của các nhóm bị áp bức, những
người phải đối mặt với rủi ro nếu tự học làm như vậy. Ở đầu kia, chúng ta có sự sử
dụng nhân học trực tiếp để phục vụ CÁI KHÁC, cái có thể tham gia trực tiếp và
đẩy mạnh quyền lợi, nhu cầu của các nhóm cụ thể trong các tình huống có xung
đột. Một ví dụ là nghiên cứu của Bacba….(2005) được ủy nhiệm bởi các cộng
đồng bị tác động tiêu cực bởi việc xây dựng đập Chixoy Dam ở Guatemala. Trong
báo cáo của mình, bà trình bày lịch sử phát triển của đập, tác động lâu dài quan
trọng của nó đối với các cộng đồng và đưa ra các khuyến nghị và một kế hoạch
sửa đổi. Tất cả các vị trí trên trục này đếu liên quan đến một kiếu cách đề xướng
nào đó, mặc dù những người hưởng lợi là khác nhau. Điều này có vẻ mỉa mai và
có thể hơi tự phụ khi cho việc đề xướng là khuyếch trương tri thức và đẩy mạnh
nhân học trong khi đặt vấn đề nghi vấn tính phù hợp của nó đối với các nhóm đã
từng bỏ ra thời gian, tri thức và cácnguồn lực khác để chúng ta được ở trong nghề
của mình và ngành học được hưởng lợi.
SỰ PHÊ PHÁN PHI LÝ THUYẾT
Đứng cao nhất trong danh mục các phê phán về nhân học ứng dụng đang diễn ra là
khẳng định rằng nó mang tính chất phi lý thuyết. Nhận định này xuất sứ một phần
từ nhận thức rằng các tài liệu ứng dụng như báo cáo và đánh giá dự án phải thường
tập trung vào số liệu cứng, các phương pháp được xác định rõ, các khuyến nghị
chính sách chính xác về tính hữu ích đối với nhà ra quyết định và đáng ngạc nhiên,
lý thuyết được sử dụng trong các nghiên cứu đó thường không công khai. Mặc dù
các lý thuyết lớn hay tầm trung có thể đóng vai trò nhỏ hơn trong một số nghiên
cứu ứng dụng, vẫn có các bằng chứng rộng lớn (trong tuyển tập nghiên cứu điền
giã như Eddy and Partridge 1987; Hill and Baba 2000; Wulff and Fiske 1987)
rằng lý thuyết vừa tạo hình dáng lại vừa được đặt trên cơ sở thông tin của ứng
dụng. Ví dụ, trong một bài tổng luận kinh điển của mình Allan Hoben (1982:350)
đã trình bày thuyết phục các xem xét lý thuyết của nhà nhân học trong phát triển
đã ảnh hưởng lên các hình mẫu khái niệm phát triển cộng đồng, tư duy kinh tế, tri
thức địa phương cho nhà lập kế hoạch và các ngành học khác như thế nào trong
khi đồng thời cũng dẫn đến việc xem xét lại cũng chính các khái niệm này trong
nhân học.
Các nhà thực hành sử dụng khung lý thuyết và khái niệm từ nhân học và các
ngành học khác để định hình vấn đề, phương pháp thiết kế của họ và gắn tri thức
với chính sách, phát triển chương trình hay hành động. Lý thuyết thường hướng
dẫn nghiên cứu ứng dụng ở mức độ này hay mức độ khác. Một ví dụ là khối lượng
các công trinh phê phán tập trung vào các yếu tố cấu trúc và văn hoá xã hội ngày
càng tăng định hình sự phân bổ không đồng đều các nguồn lực cơ bản và vấn đề
này trở nên định hình một cách khác biệt thành một căn bệnh như thế nào (Castro
15
and Singer 2004; Farmer 2003; Singer 2006a, 2006b; Whiteford and Manderson
2000; Whiteford and Whiteford 2005).
Thông thường vấn đề bị bỏ qua trong cuộc tranh luận này là các song song cơ bản
tồn tại giữa các lĩnh vực sản xuất lý thuyết và các lĩnh vực chính sách và hành
động. Các nhà nhân học ứng dụng sử dụng về cơ bản cùng các quá trình nhận thức
luận trừ việc cái được quy chiếu là cái khác. Trong ứng dụng vấn đề quan tâm đầu
tiên là tính hiệu quả (van Willigen 1984). Mặc dù các khuyến nghị trong các báo
cáo ứng dụng đều có gốc rễ trong sự thật chưa được phát hiện qua nghiên cứu, các
sự thật chưa được phát hiện đó không phải là vấn đề, thay vào đó, chính tính hiệu
quả mới là vấn đề. Được định dạng trong một mệnh đề có hàm ý kiểu như “nếu
bạn muốn hoàn thành việc này thì bạn nên làm việc này”. Nếu việc lý thuyết hoá
có nghĩa là trình ra mối quan hệ nhân quả giữa các lĩnh vực, thi ứng dụng tự bản
thấn nó đã có tính lý thuyết.
Công tác ứng dụng cũng giúp hình thành lý thuyết trong nhân học., bằng cách mở
ra những lĩnh vực mới và đóng góp cho việc xem xét lại lý thuyết, đặc biệt trong
các lĩnh vực giao văn hoá, thay đổi xã hội, phát triển và văn hoá tổ chức (Baba
2000; Little 2000). Một ví dụ gần đây là công trình tiến hành về các vấn đề sức
khoẻ đa cấp của người sử dụng chất kích thích dẫn tới việc hình thành lý thuyết tác
động tổng thể (Singer and Clair 2003; Stall et al. 2003), đã bắt đầu có tác động đến
lý thuyết trong cả nhân học và sức khoẻ cộng đồng.
Trên thực tế, thực hành, không phải là cái đứng ngoài, mà là cái có thể “được nhìn
nhận như là phép thử cao nhất về lý thuyết thông qua nghiên cứu thực nghiệm
(Hill 2000:4; Schensul 1985). Mặc dù vậy một số người đã lập luận rất đúng rằng
sự nối kết giữa lý thuyết, phương pháp và thực tế cần phải được làm rõ hơn trong
nhân học ứng dụng và rằng điều này đòi hỏi “việc thực hiện phân tích so sánh và
thực tiễn” (Little 2000:127). Kinh nghiệm dồn góp của thực tiễn có một tiềm năng
quan trong trong xây dựng lý thuyết, nhưng điều này chưa được thực hiện trong
nhân học vì nhiều lý do khác nhau (Baba 1994; Bennett 1996). Một vài vấn đề
trong đó liên quan đến sự coi nhẹ thực tiễn trong giới học thuật. Dù sao, các nhà
nhân học ứng dụng “cũng chịu một số trách nhiệm … chúng ta tiến hành các
nghiên cứu điền giã riêng lẻ xây dựng theo chiều dọc, nhưng chúng ta lại không
đòi hỏi sự tổng hợp như một bộ phận của thực hành” (Baba 2000:34).
Các lý do khác liên quan đến các ràng buộc quanh việc ứng dụng và bản chất liên
ngành của nó. Trình bày các kết quả về nghiên cứu ứng dụng cho một đối tượng
thính giả rộng hơn đòi hỏi phải viết về nó theo các hướng học vấn. Đối với nhiều
nhà thực hành, phần thưởng cho những nỗ lực như vậy là không rõ. Các đầu ra
phù hợp còn hạn chế, việc xuất bản ra bên ngoài còn bị trói buộc bởi các điều
khoản của hợp đồng hoặc yêu cầu của công việc. (Greider 1993).
Có các hậu quả quan trọng cho toàn bộ ngành học khi nhiều bộ phận lớn của các
sáng tạo được tiến hành trong nhân học là không thể tiếp cận (Baba 1994). John
van Willigen (1991:19) lưu ý rằng “rất nhiều tri thức nhân học chân chính được rải
16
rác qua các tạp chí của nhiều chuyên ngành khác, và trong các sách báo trôi nổi
trình bày các báo cáo kỹ thuật và báo cáo hợp đồng” bởi vậy gây ra việc giảm tác
động trong việc hình thành nội dung cốt lõi của ngành học. Nối kết các tri thức đó
vào cốt lõi ngành học nên là một ưu tiên cho các nhà nhân học ứng dụng chuyên
về lý thuyết. Tối thiểu, điều này cũng đòi hỏi phải tổng hợp các phát hiện của các
nghiên cứu ứng dụng trong nội bộ hoặc các lĩnh vực cụ thể chéo nhau, phát triển
các khái quát hoá được gắn kết với khối lượng lý thuyết nhân học rộng lớn hơn, và
trình bày các công trình như vậy cho một đối tượng độc giả rộng lớn hơn của các
nhà nhân học (Hill and Baba 2000).
Cuối cùng, các nhà nhân học ứng dụng bàn về một lý thuyết của thực hành, qua
đó, chúng ta muốn nói đến một tập hợp các nguyên tắc dự báo và lý giải tri thức
đựợc rút ra từ nghiên cứu ứng dụng được đưa vào hành động như thế nào. Điều
này có thể đề cập đến các yếu tố hướng dẫn việc sử dụng hiệu quả các tri thức như
vậy, bất kể trong việc can thiệp, ra quyết định, hay phát triển chính sách. (Rylko-
Bauer and van Willigen 1993). William Partridge (1987:229), đến lượt mình, mở
rộng khái niệm của Aristot về “đường lối thực hành” (Praxis), bằng cách gợi ý một
lý thuyết thực hành “đòi hỏi sự tham gia của các nhà nhân học trên thế giới vào
các hoạt động thực tế và thực tiễn” với các mục tiêu “mang tính công cụ tương hỗ
nhau” về đẩy mạnh tri thức và hiệu quả về chính trị cũng như tư cách nghề nghiệp.
Partridge nối khái niệm này với khái niệm về “tư cách đạo đức hành động dựa trên
sự cam kết về một ngành khoa học có trách nhiệm với xã hội”. Điều này đòi hỏi,
đến lượt nó “một sự cam kết vượt lên trên tính nghề nghiệp hẹp để tham gia hành
động một khi sự phân tích cho thấy một quá trình hành động” Partridge 1987:230–
231). Điều này không đơn giản chỉ là kêu gọi tham gia của giới học vấn vào những
vấn đề xã hội nghiêm túc, một cái gì đó mà ngày càng có nhiều nhà nhân học đang
tiến hành. Khái niệm về “tư cách đạo đức hành động” đưa chúng ta đi xa hơn - tới
sự tham gia tích cực vào việc tiếp cận các vấn đề thực tế mà chúng ta đã khơi lên.
CUỘC TÌM KIẾM TÍNH PHÙ HỢP CỦA NHÂN HỌC
Đối với các nhà nhân học ứng dụng, sự cam kết hành động là điều đương nhiên;
cách thức nằm ở chỗ tiếp tục tìm các cách hành động có hiệu quả hơn hợp tư cách
đạo đức hơn trong khi nối kết tính cụ thể của việc giải quyết vấn đề bức thiết cho
bối cảnh xã hội chính trị rộng lớn hơn. Nhân học có nguồn gốc lý thuyết, ngược lại
vấp phải một ngõ cụt khác, một bế tắc khác: tìm cách để điều chỉnh các biên giới
giữa lý thuyết, nghiên cứu và hành động. Điều này đói hỏi chuyển tiêu điểm của
ngành học tới “các vấn đề đương thời, như chúng được xác đinh trong bối cảnh
trật tự xã hội rộng lớn hơn” và tránh các vấn đề được xác định đơn thuần “trong
phạm vi bối cảnh ngành học” (Baba 1994:175).
Ý thức về nhu cầu đối với một sự chuyển hướng như vậy là hiển nhiên trong các
lời kêu gọi gần đây cho sự tham gia nhiều hơn và cho tính phù hợp lớn hơn: “sự
tham gia” “tính phù hợp”. Một số các nhà nhân học đã đề cập đến một loạt các vấn
đề xã hội, trong một số trường hợp khảo sát mang tính phê phán các tiêu chí liên
17
quan đến cả sự kêu gọi và các định nghĩa về “tính phù hợp” (Mazzarella 2002).
Tuy nhiên, phần lớn sự đáp ứng của giới học vấn trước sự bế tắc này đều tập trung
vào việc phát triển các mô hình mới, khác biệt với nhân học ứng dụng và hoàn
chỉnh với các nhãn hiệu mới ví như “nhân học lợi ích công cộng” hoặc “nhân học
công cộng”. Những nhãn hiệu này tồn tại như những tập hợp các ý tưởng hoặc các
khung hơn là các chiến lược hành động đã được thử nghiệm. Một mục tiêu đã
được phát biểu là “định hình lại và thổi sức sống mới cho ngành học” (Borofsky
2000:9)—thậm chí “tái lập lại ngành nhân học” (Sanday 2003)—bằng cách đó để
tăng cường tiếng nói của nó trước công chúng. Một cách để đạt được điều này là
thông qua vai trò của ngành nhân học với tư cách một trí thức công. Một ví dụ gần
đây là tại sao các học giả hàng đầu của Hoa Kỳ lại sai lầm: bàn lại về các nhà
nhân học (Besteman and Gusterson 2004). Mặc dù có tiếng nói có giá trị về sự bế
tắc của tính phù hợp, cách tiếp cận này có những hạn chế, bởi vì theo định nghĩa,
giới trí thức công rất nhỏ bé và kén người. Phần còn lại của ngành học thì để cho
ai?
Roger Sanjek lưu ý rằng chỉ một thiểu số chúng ta được mời làm khách mời trên
vô tuyến hoặc trong các chương trình thảo luận trên đài hoặc trên các trang của tờ
New York Times; mặc dù vậy, “giữa các hướng mở có vị thế cao như vậy và việc
nghiên cứu hoặc lớp học chúng ta tìm thấy một phần lãnh thổ rộng lớn”
(2004:452). Ông đưa ra nhiều chiến lược cho việc tham gia công, bao gồm xuất
bản theo đường hướng phi học thuật, khảo nghiệm qua các cuộc điều trần chính
phủ, các hội đồng, tư vấn, các tổ chức, hành động như là người làm chứng chuyên
môn, và sẵn sàng đảm nhận các vai trò khác nhau “không còn là nhà nhân học
nữa” …. Bao gồm tham gia vào các hãng tư nhân, các tổ chức phi chính phủ hoặc
các cơ quan chính phủ, các hoạt động công dân, các chiến dịch bầu cử hoặc các
chính quyền chính trị” (Sanjek 2004:453).
Chúng ta hoan nghênh các nỗ lực xua đi sự rời rạc, đẩy mạnh cộng tác, và bằng
cách đó tập hợp các nhà nhân học trong một sự nghiệp chung để tạo ra sự khác
biệt. Nhưng nhân học ứng dụng không chỉ đơn thuần là một cách tiếp cận mới
khác. Dù hay dù dở, các nhà nhân học ứng dụng cũng đã và đang nhập cuộc vào
cái mà bây giờ được gọi theo mốt là “sự nhập cuộc” trong hàng thập kỷ nay. Bỏ
qua nghĩa của các “thuật ngữ và định nghĩa” này đóng góp vào việc trình bày sai
và xoá bỏ những kinh nghiệm rộng rãi và khối tri thức và thực hành đã đưa ta đến
với việc xác định nhân học ứng dụng và ngnha fhọc chung sẽ bị đặt vào một tư thế
rủi ro vì lại phải tìm lại bánh xe khởi động cho cuộc tìm kiếm một sự nhập cuộc
rộng lớn hơn của nó.
Các phong trào gần đây để tiến tới một ngành nhân học công lớn hơn đã có giá trị
phục vụ hữu ích cho ngành học chung giúp giữ cho ngành học khỏi chơi vơi bên
vực sâu của thời hậu hiện đại và đưa nó đến những phân tích xã hội văn hoá mang
tính phê phán nhiều hơn. Về vấn đề làm thế nào mà một người đưa nhân học vào
ứng dụng được, cả Robert Borofsky and Peggy Reeves Sanday, các chuyên gia
hàng đầu về nhân học công, trả lời: Nhập cuộc với các vấn đề trong lĩnh vực công,
18
nói ra, viết theo tinh thầnphê phán các chính sách và thực tế đã tạo sự bất công và
định hình lại “diễn ngôn công chúng” về các vấn đề xã hội phê phán. Chúng ta
nhất trí và hướng về truyền thống lâu dài của công tác ấy trong nhân học ứng
dụng. Nhưng phải chăng đây là điểm dừng lại cuối cùng của sự nhập cuộc nhân
học? Đã đến lúc toàn bộ ngành học rộng lớn phải đặt câu hỏi cho các vấn đề vừa
hướng dẫn, vừa làm hỏng nhân học trong hàng thập kỷ qua. Làm thế nào để ta
khởi động được các mục đích đề cập và làm giảm nhẹ các vấn đề xã hội? Làm thế
nào để chúng ta chuyển được kiến thức vào hành động thực tiễn một cách thành
công? Các chiến lược nào thực sự có hiệu quả? Đây là các vấn đề tạo khung cho
cốt lõi của nhân học ứng dụng.
TÁI XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ CỦA NHÂN HỌC ỨNG DỤNG
Nếu sự nhập cuộc thực tế trở thành mục đích được hiện thực hoá của nhân học, thì
chắc chắn tính phù hợp của nó cũng được khẳng định theo. Nhưng việc này đòi
hỏi một sự sẵn sàng về tư thế áp sát các vấn đề của con người, mang tính chủ thể
về chính trị và tư cách nghề nghiệp và khách thể về dân tộc học, và chấp nhận sự
đề xướng, (bất kể sự đề xướng được xác nhận thế nào) là một bộ phận của khung
chuyên ngành vốn coi trọng giá trị lý thuyết và sự xuất sắc nghiên cứu cuối cùng,
sự nhập cuộc thực tế đòi hỏi sự sẵn sàng không chỉ để định hình diễn ngôn công
mà còn đưa ra các giải pháp có cơ sở bằng chứng cho các vấn đề xã hội.
Nhân học ứng dụng, trong tính tổng thể của nó, đã từng thực hiện điều này trong
hàng thập kỷ ở những mức độ thành công khác nhau. Theo ý nghĩa này, nhân học
ứng dụng có thể được lập luận đã đi trước so với phần còn lại của chuyên ngành.
Vì lí do này, chúng tôi đề xuất rằng nhân học ứng dụng nên đóng vai trò như bộ
khung của sự nhập cuộc thực tế. Theo hướng này, các ví dụ về các thành công hạn
chế hoặc các hậu quả không mong muốn, thay vì được sử dụng như các lập luận
để chống lại sự ứng dụng có thể được nhìn nhận một cách xây dựng như là các bài
học về các thách đố của sự nhập cuộc.
Quan hệ giữa chính sách nghiên cứu và hành động tiếp tục là tiêu điểm của sự
phản ánh và phân tích trong nhân học ứng dụng. Sự mở rộng nỗ lực này sẽ đóng
góp một cách tích cực vào cuộc đối thoại rộng rãi đang diễn ra về tính phù hợp của
nhân học. Hàng thập kỷ kinh nghiệm ứng dụng, dù hay dù dở, đang chào đời được
tiếp cận bởi những người mà với họ lời kêu gọi nhập cuộc còn là một tiếng nói
mới. Đồng thời, nhân học ứng dụng có thể làm lợi cho các xem xét lý thuyết sâu
xuất hiện từ một ngành học mang tính nhập cuộc nhiều hơn.
Nhân học ứng dụng ngày nay bao gồm một sự đa dạng lớn trong các lĩnh vực ứng
dụng, các phương pháp, các khung lý thuyết, các vai trò và các vũ đài nghiên cứu
và làm việc. Nếu ta tính đến tất cả những gì các nhà nhân học ứng dụng đã làm
trong nỗ lực của họ nhằm tiếp cận những vấn đề xã hội “từ A ‘Aging = lâu đời’
đến Z ‘Zoo = Sở thú’ thì bảng kê này sẽ rất dài và còn tiếp tục kéo dài nhanh
chóng ” (Singer 2000b:6). Còn có sự đa dạng trên các vũ đài hành động ngược lại
với nhận thức trong một số giới, các nhà nhân học ứng dụng không hoạt động vì
19
các cơ chế bàn giáy phát triển rộng lớn, họ làm việc trong các cộng đồng, cho các
nhóm văn hoá và bộ tộc, các cơ quan công, các cơ quan chính phủ, các bộ y tế và
giáo dục, các tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuân, các cơ quan chính sách quốc
tế, cũng như cho các cơ sở tư như là các công đoàn, các phong trào xã hội, và gần
mới đây nhất, các công ty. Một số lượng ngày càng tăng các nhà nhân học còn
phục vụ trên các cương vị chính sách liên bang và tiểu bang, và một số khác thậm
chí trong các cơ quan công cao cấp. Phân lớn công việc này đều liên quan rõ rệt
đến vấn đề “lợi ích công”.
Cũng giống như trường hợp ở các khoảng thời gian khác nhau trong lịch sử, ứng
dụng tiếp tục giữ vai trò nền tảng cho nhân học lý thuyết bằng cách cung cấp việc
làm vượt lên trên tháp ngà cho một tỷ lệ ngày càng tăng các sinh viên tốt nghiệp
đại học (Baba 1994). Mặc dù vậy số lượng các chương trình giúp sinh viên có việc
làm bên ngoài trường đại học vẫn còn hạn chế, mặc dù có một sự thật ràng là non
nửa số tiến sĩ về nhân học cuối cùng cũng chỉ tìm được các vị trí giảng dạy truyền
thống. (Price 2001; Schensul et al. 2003). Đề cập các hạn chế này và xem xét lại
chương trình đào dạo sau đại học hiện đang được tranh luận là một trong những
cách thức mang tính phê phán và tính trách nhiệm cao nhất trong đó nhân học có
thể tăng tính phù hợp của nó. Lamphere (2004) cho rằng các chương trình sau đại
học mở rộng để bao gồm sự cộng tác, sự vươn xa và các nghiên cứu chính sách.
Chúng tôi muốn nói thêm rằng sự hiểu biết về việc các nhà nhân học ứng dụng
thực sự làm gì cũng nên là một bộ phận của các nỗ lực như vậy. “Việc học phục
vụ cộng đồng đã được đề xuất như một phương tiện khác để cung cấp kinh nghiệm
và đào tạo cho việc nhập cuộc với các vấn đề xã hội nổi bật” (Keene and Colligan
2004). Một lần nữa, nhân học ứng dụng có thể phục vụ như một mô hình, bởi vì
các kỳ thực tập, một hình thức học tập trên cơ sở phục vụ, đã từ lâu là một bộ phận
cấu thành của các chương trình đào tạo ứng dụng.
SỰ TẬP HỢP ĐẦY Ý NGHĨA: ĐƯA NHÂN HỌC VÀO THỰ TIỄN SỬ
DỤNG
Cũng giống như toàn bộ nền nhân học có một lịch sử chung đôi khi có vấn đề,
chúng ta cũng có cùng một tương lai chung. Trong bài báo này, tôi đã lập luận
rằng, nhân học, qua lịch sử của nó đã được đưa vào thực tiễn sử dụng cách này hay
cách khác. Và điều này sẽ là sát thực hơn trong những năm tới. Thách thức nằm ở
chỗ đảm bảo cho sự vân động không ngừng của nhân học thành một ngành học
phù hợp, trên nền tảng học vấn mạnh mẽ và tư cách nghề nghiệp vững chãi được
hướng dẫn bởi các chiến lược cụ thể để nhập cuộc xã hội.
Thực hành nhân học đã từng được coi là “phân ngành thứ năm” (Baba 1994),
nhưng nó có tiềm năng để trở thành ngành học xuyên ngành - kết nối sự đa dạng
tồn tại trong toàn bộ ngành nhân học với các thực tế của một thế giới ngày càng
trở nên phức tạp. Trên thực tế, chúng ta đã hình dung ra ngành học này nói chung
trên một trục thực hành. Từ viễn cảnh đó, các phạm trù riêng rẽ như “ứng dụng”
hay “lý thuyết” không còn ý nghĩa gì nữa , bởi vì việc đặt nó vào trục này không
20
chỉ phụ thuộc vào công việc được đặt tên như thế nào mà, mà trong một chừng
mực nào đó, phụ thuộc vào hành động được tích hợp với lý thuyết như thế nào.
Tóm lại, chúng ta bàn luận cho việc đưa vào khái niệm hoá nhân học ứng dụng
như là “nhân học trong sử dung”, điều này phản ánh một cách chính xác hơn thực
tế ngành học. Có thể là không xa với sự thật khi nói rằng hầu hết các nhà nhân học
ứng dụng đã từng thực hiện hoặc đang làm hình thức nào đó của công tác ứng
dụng trong nghề nhân học của họ - Việc họ có gọi nó là “ứng dụng” hay không lại
là một vấn đề khác.
Đường phân ranh giữa nhân học ứng dụng và lý thuyết là quá mờ hoặc quá thiếu
ý nghĩa ngày nay so với bất kỳ thời gian nào trong suốt 50 năm qua. Và như Hill
đã lưu ý, các nhà nhân học ứng dụng và truyền thống có cùng “một nền tảng
chung … nền tảng lý thuyết và phương pháp của ngành học” (2000:12). Khi
chúng ta đang tiến nhanh vào bối cảnh xã hội thay đổi nhanh chóng của thế kỷ
mới, thực hành không phải là một giải pháp cho nhân học nếu nó không giúp nhân
học tồn tại. Thực hành là một bộ phận của số phận ngành học và phải được đặt ở
trung tâp các cuộc thảo luận về tương lai của nhân học
Các nhà phê phán dựa trên cơ sở tên gọi và nhãn mác hoặc những người dựa trên
cơ sở bỏ qua phần lớn các công trình có nội dung nhân học sâu hoặc xoá bỏ lịch sử
về nhân học chẳng qua là những người bàn lùi bởi vì họ đã bỏ qua các lĩnh vực
của thành công sáng tạo mà nhân học đã làm được. Sự quy tụ ý nghĩa của một nền
nhân học đúng về phương pháp mang tính phê phán, tính phản ánh, tính nhập cuộc
- trở thành một sự quy tụ được xây dựng trên, và rút kinh nghiệm học tập từ, các
kinh nghiệm rộng rãi của quá khứ về việc đưa nhân học vào sử dụng - sự quy tụ
này sẽ giúp chúng ta tự do tập trung tiêu điểm vào các khác biệt thực sự là vấn đề
trong thế giới thực tại: Sự phân chia bắt buộc này đã tách biệt kẻ có người không,
người đáng kính trọng và kẻ đáng khinh, những người được hưởng quyền lực
không công bằng và những người có quyền hành và tiếng nói hạn chế với những
kẻ đứng ở trung tâm và những kẻ bị gạt ra ngoài lề.
BARBARA RYLKO-BAUER Department of Anthropology,
Michigan State University, East Lansing, MI 48824
MERRILL SINGER Director of Research, Center for Community
Health Research, Hispanic Health Council, Hartford, CT 06106
JOHN VAN WILLIGEN Department of Anthropology, University
of Kentucky, Lexington, KY 40502
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Arnold, Bettina
21
2002 Thanh minh cho diệt chủng: Khảo cổ học và thiết lập sự khác biệt.
Trong Xoá bỏ sự khác biệt: Nhân học của sự diệt chúng Alexander
Laban Hinton, bs tr. 95–116. Berkeley: Nxb. ĐH California.
Asad, Talal, ed. 1973 Anthropology and the Colonial Encounter. London: Ithaca
Press.
Baba, Marietta L.
1994 Phân ngành thứ năm: Thực hành nhân học và tương lai của nhân
học: Human Organization 53:174–185.
2000 Lý thuyết thực hành nhân học: Một đành giá mang tính phê phán.
Trong Sự thống nhất của thực hành và lý thuyết trong nhân học. Carole E. Hill
and Marietta L. Baba, eds. Pp. 17–44. Bản tin của Hiệp hội Thực hành Nhân học
Quốc gia, 18.Washington, DC:American Anthropological Association.
Baba, Marietta, and Carole E. Hill, eds.
1997 Thực hành toàn cầu về nhân học. Williamsburg, VA: College of
William and Mary Press.
Baer, Hans
2001 Đại học tổ chức theo hình thức công ty không phải là tháp ngà: các
khả năng đảm báo một không gian phê phán cho các nhà nhân học. Practicing
Anthropology 23(3):50–51.
Baer, Hans, Merrill Singer, and Ida Susser
2004 Nhân học y học và hệ thống thế giới. 2nd edition. Westport, CT:
Praeger.
Basch, Linda G., Lucie Wood Saunders, Jagna Wojcicka Sharf, and James
Peacock, eds.
1999 Chuyển đổi giới học vấn: thách thức và cơ hội cho nhân học nhập
cuộc. American Ethnological Society Monograph Series, 8. Washington, DC:
American Anthropological Association.
Beals, Ralph L., with the Executive Board
1967 Thông tin nền về các vấn đề nghiên cứu nhân học và đạo đức.
American Anthropological Association Fellow Newsletter 8(1):1–13.
Bennett, John W.
1996 Nhân học ứng dụng và hành động: các khía cạnh khái niệm và ý
tưởng. Current Anthropology 36(suppl.): S23–S53.
Besteman, Catherine, and Hugh Gusterson, eds.
2004 Tại sao các học giả hàng đầu của Mỹ sai: Các nhà nhân học bàn lại:
University of California Press.
Bodley, John
1990 Các nạn nhân của sự tiến bộ. Ấn bản lần thứ 3. Mountain View, CA:
Mayfield.
Borofsky, Robert
2000 Nhân học công: Đi đâu? Làm gì tiếp? Anthropology Newsletter
41(5):9–10. Castro, Arachu, and Merrill Singer, eds.
22
2004 Chính sách sức khoẻ không lành mạnh: Một khảo cứu nhân học phê
phán. Walnut Creek, CA: AltaMira Press.
D’Andrade, Roy
1995 Các mô hình đạo đức trong nhân học. Current Anthropology
36(3):399–408.
Dobyns, Henry F., Paul L. Doughty, and Harold D. Lasswell, eds.
1971 Nông dân, quyền lực và biến đổi xã hội ứng dụng: Vicos như một mô
hình. Beverley Hills, CA: Sage.
Doughty, Paul L.
1987 Chống lại những bất cập: Hợp tác và phát triển ở Vicos . Trong
Nghiên cứu hợp tác và biến đổi xã hội: Applied Anthropology in Action. Donald
D. Stull and Jean J. Schensul,eds. Pp. 129–157. Boulder, CO: Westview.
Eddy, Elizabeth M., and William L. Partridge, eds.
1987 Nhân học ứng dụng ở Mỹ. Ấn bản lần thứ 2. New York: Columbia
University Press.
Ervin, Alexander M.
2000 Nhân học ứng dụng: Công cụ và viễn cảnh thực hành hiện tại .
Needham Heights, MA: Allyn and Bacon.
Farmer, Paul
2003 Bệnh lý học quyền lực: Sức khoẻ, Quyền con người và cuộc chiến
chống nghèo đói. Berkeley: University of California Press.
Fetterman, David M., ed.
1993 Nói ngôn ngữ của quyền lực: Giao tiếp, cộng tác và đề xướng.
Washington, DC: Falmer.
Forman, Shepard, ed. 1995
Tìm hiểu nước Mỹ: Nhân học và nhập cuộc vào công chúng. Ann Arbor:
University of Michigan Press.
Foster, George M., and Barbara Gallatin Anderson
1978 Nhân học y học . New York: John Wiley and Sons.
Gonz´alez, Roberto J.
2004 Từ Indigenismo tới Zapatismo: Lý thuyết và thực hành trong nhân học
Mê Hi Cô. Human Organization 63(2):141–150.
Gough, Kathleen
1968 Những đề xuất mới cho các nhà nhân học. Current Anthropology
9(5):403–407.
Green, Linda
1999 Sợ hãi như là một cách sống: Các quả phụ người Máy ở Guatemala.
New York: Columbia University Press.
Greenwood, Davydd J., and Morten Levin
1998 Dẫn luận nghiên cứu hành động: Nghiên cứu xã hội cho biến đổi xã
hội. Thousand Oaks, CA: Sage.
Greider, Thomas
23
1993 Bế tắc về đạo đức và các trói buộc về xuất bản của các nhà thực hành
ứng dụng trên cơ sở khách hàng. Human Organization 52(4):432–433.
Gross, Daniel, and Stuart Plattner
2002 Nhân học như là công tác xã hội: Mô hình hợp tác nghiên cứu nhân
học. Anthropology News 43(8):4.
Guerr´on-Montero, Carla
2002 Dẫn luận: Thực hành nhân học ở Mỹ La tinh. Anthropology
24(4):2–4.
Gulliver, P. H.
1985 Một nhà nhân học ứng dụng ở Đông Phi trong thời kỳ thuộc địa
Trong Nhân học xã hội và chính sách phát triển .Ralph Grillo and Alan Rew, eds.
Pp. 35–57. London: Tavistock.
Hastrup, Kirsten, and Peter Elass
1990 Đề xướng nhân học: Mâu thuẫn trong thuật ngữ. Current
Anthropology 31(3):301–311.
Hill, Carole E.
2000 Các vấn đề chiến lược cho việc xây dựng một sự tổng hợp lý thuyết và
thực hành . Trong Thống nhất Lý thuyết và thực hành trong nhân học
Carole E. Hill and Marietta L. Baba, bs. Pp. 1–16. National Association
for the Practice of Anthropology Bulletin, 18. Washington, DC: American
Anthropological Association.
Hill, Carole E., and Marietta L. Baba, eds.
2000 Thống nhất Lý thuyết và thực hành trong nhân học: Xây dựng lại một
thể thống nhất đã bị chia tách. National Association for the Practice of
Anthropology Bulletin, 18.Washington, DC: American Anthropological
Association.
Hinsley, Curtis M., Jr.
1976 Những người đa tình và những nhà chuyên môn ở Washington, 1879
đến 1903. Trong Nhân học Mỹ, những năm sơ khai. John V. Murra, bs. Pp. 147–
167. New York: West Publishing.
1979 Nhân học như khoa học và chính trị: Sự đối lập trong bộ máy dân tộc
học Mỹ, 1870–1904. Trong Sự sử dụng nhân học, Walter Goldschmidt, ed. Pp. 15–
32. Washington, DC: American Anthropological Association.
Hoben, Allan
1982 Các nhà nhân học và sự phát triển. Annual Review of Anthropology.
Pp. 349–374. Palo Alto, CA: Annual Reviews.
Holmberg, Allan R.
1958 Nghiên cứu và phát triển: phương pháp nghiên cứu sự thay đổi.
Human Organization 17:12–16.
Hopper, Kim
2002 Khi (làm việc) ở Rome: Ứng dụng nhân học trong vương quốc của
Caesar. Human Organization 61(3):196–209.
2003 Tính đến những người vô gia cư. Ithaca, NY: Cornell University
24
Press.
Horowitz, Irving Louis, ed.
1967 Sự phát triển và đổ vỡ của dự án Camelot: Nghiên cứu mối quan hệ
giữa khoa học xã hội và chính trị thực hành. Cambridge, MA: MIT Press.
Hymes, Dell, ed.
1974 Nghiên cứu lại nhân học. New York: Random House. Johnston,
Barbara Rose
2001 Nhân học và công lý môi trường: Các nhà phân tích, đề xướng, hoạt
động và những kẻ phá rối. Trong Nhân học và môi trường. Carole L. Crumley,
ed. Pp. 132–149.Walnut Creek, CA: AltaMira Press.
2005 Nghiên cứu các vấn đề pháp lý Chixoy Dam Tài liệu điện tử,
/>, Truy cập ngày 30 tháng 8.
Johnston, Barbara Rose, and Carmen-Garcia Downing
2004 Ở Pehuenche: Quyền con người, môi trường và phát triển nguồn nước
ở sông Biobio, Chile. Trong Các dân tộc bản địa, phát triển và môi trường.
Harvey Feit and Mario Blaser, eds. Pp. 211–231. London: Zed Books.
Jones, Delmos J.
1971 Trách nhiệm xã hội và niềm tin vào nghiên cứu cơ bản: Một ví dụ từ
Thái Lan. Current Anthropology 12(3):347.
Keene, Arthur S., and Sumi Colligan
2004 Dịch vu-học tập và nhân học. Michigan Journal of Community
Service Learning 10(3):5–15.
Lamphere, Louise
2004 Sự hội tụ của nhân học công, thực hành và ứng dụng trong thế kỷ 21.
Human Organization 63(4):431–443.
LeCompte, Margaret, Jean Schensul, Margaret Weeks, and Merrill
Singer, bs.
1999 Vai trò nghiên cứu và cộng tác trong nghiên cứu: Công cụ của nhà
địa dân tộc học, tập. 6. Walnut Creek, CA: AltaMira Press.
Little, Peter D.
2000 Viết lại cuộc tranh luận: Lý thuyết phát triển và thực hành nhân học.
Trong Sự thống nhất giữa lý thuyết và thực hành trong nhân học. Carole E. Hill
and Marietta L. Baba, eds. Pp. 119–131. National Association for the Practice of
Anthropology Bulletin, 18. Washington, DC: American Anthropological
Association.
Marcus, George E., and Michael M. J. Fischer
1986 Nhân học như là phê phán văn hoá: Một chút thử nghiệm trong khoa
học nhân văn. Chicago: University of Chicago Press.
Mazzarella, William
2002 Về sự phù hợp của nhân học. Anthropological Quarterly 75(3):599–
607.
Mead, Margaret
25