Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tài liệu Đề tài: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007 – 2012 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.55 KB, 90 trang )

DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT
CCHC: Cải cách hành chính
CCN: Cụm công nghiệp
CNTT: Công nghệ thông tin
CSHT: Cơ sở hạ tầng
CSVC: Cơ sở vật chất
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
GTGT: Giá trị gia tăng
GTSX: Giá trị sản xuất
KCN: Khu công nghiệp
KH – CN: Khoa học – Công nghệ
KHKT: Khoa học kỹ thuật
KT – XH: Kinh tế - Xã hội
KTNN: Kinh tế nhà nước
KTQD: Kinh tế quốc dân
KTTN: Kinh tế tư nhân
KVTN: Khu vực tư nhân
MTQG: Mục tiêu quốc gia
NSLĐ: Năng suất lao động
NSNN: Ngân sách nhà nước
THPT: Trung học phổ thông
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
i
MỤC LỤC
DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT i
MỤC LỤC ii
DANH SÁCH BẢNG iii
DANH SÁCH HÌNH iv
LỜI NÓI ĐẦU 1


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 2
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TỈNH HÒA BÌNH
GIAI ĐOẠN 2007 – 2012 37
CHƯƠNG III: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ
NHÂN TỈNH HÒA BÌNH 67
KẾT LUẬN 80
ii
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 1: Tình hình thu hút lao động trong khu vực KTTN Việt Nam giai đoạn 2000 - 2011
11
Bảng 2: Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, 2007-2012 43
Bảng 3: Cơ cấu theo theo ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007 – 2012 45
Bảng 4: Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực KTTN phân theo vùng tỉnh Hòa Bình
giai đoạn 2007 – 2012 46
Bảng 5: Tỷ trọng lao động phân bố theo ngành nghề kinh tế tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007
– 2012 48
Bảng 6: Xếp hạng chỉ số PCI tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007-2012 54
iii
DANH SÁCH HÌNH
Hình 1: Giá trị tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của khu vực KTTN 7
Hình 2: Đóng góp của KTTN vào Ngân sách nhà nước giai đoạn 2000-2010 9
iv
LỜI NÓI ĐẦU
Đối với mỗi quốc gia nói chung, mỗi địa phương nói riêng, khu vực kinh tế tư nhân
có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, và tỉnh Hòa Bình cũng không
nằm ngoài số đó. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp không
nhỏ về tốc độ tăng GDP, tạo việc làm, đóng góp vào thu Ngân sách,…. và đang dần thể
hiện vai trò, vị thế của mình so với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế nước
ngoài. Chính khu vực kinh tế tư nhân đã làm đa dạng hóa nền kin h tế của tỉnh, đáp ứng

nhu cầu về vốn rất lớn cả về phái người tiêu dùng lẫn chủ sở hữu, tính đa dạng đó là ưu thế
rất lớn để đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún lên nền sản xuất hàng hóa lớn.
Hơn thế nữa, với phạm vi hoạt động lớn trên mọi ngành nghề, lĩnh vực cũng như địa bàn,
kinh tế tư nhân đã và đang len lõi vào từng khu vực nhỏ nhất, tận dụng tối đa nguồn lực
của từng khu vực, điều mà khu vực kinh tế nhà nước và nước ngoài khó có thể làm được.
Với vai trò to lớn đó, cùng với sự phát triển nhanh chóng, phức tạp về cả số lượng,
quy mô trong thời gian gần đây đòi hỏi phải có những nghiên cứu chi tiết thực trạng của
khu vực kinh tế tư nhân tỉnh, đảm bảo sự phát triển đúng quỹ đạo, định hướng kinh tế mà
tỉnh Hòa Bình đặt ra.
Đề tài của tôi bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007 – 2012
Chương III: Những định hướng và giải pháp phát triên kinh tế tư nhân tỉnh Hòa Bình
Hi vọng bài viết này, về một phần nào đó sẽ giúp mọi người hình dung ra bức tranh
của khu vực kinh tế tư nhân tỉnh Hòa Bình trong thời gian gần đây, đồng thời đóng góp
những giải pháp mà tỉnh có thể thực hiện nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, biến
khu vực kinh tế tư nhân thành đầu tàu kéo cả nền kinh tế tỉnh phát triển.
1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
1.1. Kinh tế tư nhân và đặc điểm của kinh tế tư nhân
1.1.1. Khái niệm
Hiện nay đối với thuật ngữ “khu vực tư nhân” tồn tại một số cách hiểu khác nhau
tùy theo quan điểm và cách nhìn nhận mang tính chất về sở hữu. Do vậy, trong thực tế các
cách hiểu đó thường chỉ mang tính chất tương đối và không thống nhất.
Ở Việt Nam, theo cách hiểu rộng nhất thì khu vực KTTN và khu vực KTNN (hay
còn gọi là khu vực quốc doanh) là hai bộ phận cấu thành nền kinh tế. Như vậy, tư nhân bao
gồm cả các doanh nghiệp trong nước, lẫn doanh nghiệp nước ngoài dưới dạng liên doanh
hay 100% vốn nước ngoài. Đồng thời, cách hiểu này ũng đưa đến một hệ quả là khu vực
KTTN bao gồm cả các cơ sở sản xuất nông nghiệp (như hợp tác xã nông nghiệp, nuôi
trông và khai thác thủy hải sản,…) và các doanh nghiệp phi nông nghiệp. Tuy nhiên, ở

Việt Nam, nhiều người không đồng ý với định nghĩa rộng này vì trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và trong các công ty cổ phần hóa có sự tham gia góp vốn của các
doanh nghiệp nhà nước, và khi thống kê kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty cổ phần có cổ đông là doanh nghiệp nhà nước,
người ta không thể tách bạch được phần của doanh nghiệp nhà nước là bao nhiêu.
Cách hiểu thứ hai về KTTN dựa trên việc chia nền kinh tế thành 3 khu vực là khu
vực nhà nước (quốc doanh), khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài. Định nghĩa này đã đưa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi “khu vực ngoài
quốc doanh, coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực riêng. Theo đó, khu vực
ngoài quốc doanh chỉ bao gồm các chủ thể kinh doanh trong nước, nhưng vẫn gồm các chủ
thể sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trong giáo trình “Kinh tế phát triển” của
ĐHKTQD khi phân tích về vấn đề tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 cũng
xét theo khía cạnh tăng trưởng nhanh được thể hiện ở các khu vực kinh tế bao gồm: khu
vực nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy rằng đã có
sự tương đồng về khái niệm KTTN theo cách hiểu thứ 2 này.
Như vậy, các cách hiểu về các thuật ngữ “khu vực quốc doanh”, “khu vực ngoài
quốc doanh” và “khu vực tư nhân” đều mang tính ước lệ chưa thống nhất hoàn toàn.
2
Trong chuyên đề này, thuật ngữ “khu vực kinh tế tư nhân” được hiểu hẹp hơn nữa,
bao gồm các doanh nghiệp trong nước trừ bộ phận kinh tế phi nông nghiệp ngoài quốc
doanh. Khu vực này bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và không bao gồm bộ
phận kinh tế nông nghiệp ngoài quốc doanh, kể cả lâm nghiệp, thủy sản, làm muối (bộ
phận này gồm các cá nhân, hộ gia đình và hợp tác xã phi nông nghiệp và hợp tác xã nông
nghiệp tham gia sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trông thủy, hải sản,…).
1.1.2. Đặc điểm
1.1.2.1. KTTN gắn liền với lợi ích cá nhân – là động lực để thúc đẩy xã hội phát triển.
Lợi ích cá nhân là động lực trước hết để phát triển xã hội. KTTN là khu vực kinh tế
năng động, người lao động tự chủ tiến hành hoạt động kinh doanh, do đó hoạt động có hiệu
quả cao.

KTTN mà tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là mô hình tổ chức kinh doanh của
nền sản xuất hàng hóa ở giai đoạn cao.
Hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa gắn liền với sự phân công lao động xã hội.
Trước khi xuất hiện nền đại công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa còn ở trình độ thấp, đó là
nền sản xuất hàng hóa giản đơn, chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Hình thức tổ
chức sản xuất doanh nghiệp là hình thức tiên tiến, gắn liền với nèn đại công nghiệp, phát
triển cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở hình thức tổ chức
này, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất tăng nhanh.
1.1.2.2. KTTN là nền tảng của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là cách thức tốt nhất và duy nhất để một nền kinh tế vận hành có
hiệu quả. Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến nền sản xuất lớn, hiện đại và hiệu
quả. Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến nền sản xuất lớn, hiện đại. Và cơ chế thị
trường hiện đại là môi trường để KTTN phát triển. KTTN mà điển hình là mô hình tổ chức
doanh nghiệp là sản phẩm tự nhiên của kinh tế thị trường, và tự lớn lên trong kinh tế thị
trường.
KTTN ở nước ta được khôi phục từ sau công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển, quan hệ sản xuất thống trị xã hội
3
không phải là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do vây, KTTN ở nước ta có một số đặc
điểm riêng biệt khác nữa so với các nước trên thế giới:
Thứ nhất, KTTN ở nước ta là kết quả của chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, là bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển KTTN
nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Do đó, về mặt bản chất, nó khác với
KTTN ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, KTTN ở nước ta mang trong mình yếu tố có tính xã hội chủ nghĩa. Điều
này thể hiện ở chỗ: KTTN đại diện cho một lực lượng sản xuất mới góp phần giải phóng
lực lượng sản xuất, thức đẩy tăng trưởng xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo,

Thứ ba, các doanh nghiệp tư nhân thông qua hoạt động của mình củng cố, tăng

cường khối đoàn kết dân tộc, gắn kết các giai tầng xã hội vì mục tiêu dân giàu, nươc mạnh,
xã họi công bằng, văn minh.
Cuối cùng, mối quan hệ trực tiếp giữa các chủ doanh nghiệp tư nhân với người lao
động doanh nghiệp không còn là quan hệ đối kháng, chủ - thợ, quan hệ giữa một bên là chủ
sở hữu tư liệu sản xuất, một bên là người bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất mà là mối quan
hệ hợp tác.
1.1.3. Các loại hình kinh tế tư nhân
KTTN có hai hình thức biểu hiện chính đó là hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ và các
loại hình doanh nghiệp thuộc tư nhân.
1.1.3.1. Kinh tế cá thể, tiểu chủ:
Hộ kinh doanh cá thể là một chủ thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ gia đình là
chủ, mang các đặc điểm sau:
- Có địa điểm, khu vực sản xuất kinh doanh ổn định, sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và vốn.
- Chủ hộ kinh doanh cá thể toàn quyền quyết định về phương thức quản lý, tổ
chức hoạt động kinh doanh, phân phối lợi nhuận.
- Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán.
4
- Sử dụng lao động trong gia đình, dòng họ, giải quyết công ăn việc làm cho
bản thân và hộ gia đình.
Hộ kinh doanh cá thể được thừa nhân là một đơn vị kinh tế tự chủ, gốp phần tích
cực giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, ổn định chính trị
xã hội.
1.1.3.2. Các loại hình doanh nghiệp của kinh tế tư nhân
Doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN bao gồm các loại hình sau:
- Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Đặc điểm:
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân, chịu trách nhiệm vô hạn.

+ Chủ doanh nghiệp toàn quyền quyết định quy mô, phương thức hoạt động, quản lý
kinh doanh, sử dụng lợi nhuận sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Công ty Cổ phần
Công ty Cổ phần là một loại hình doanh nghiệp có tính xã hội hóa cao, người lao
động có thể trở thành người chủ sở hữu, gắn được lợi ích cá nhân với hoạt động của doanh
nghiệp, do đó là một mô hình hoạt động có hiệu quả hiện nay. Đặc điểm:
+ Vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa.
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp.
- Công ty TNHH
Công ty TNHH là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, được pháp luật thừa
nhận. Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng biệt. Trước pháp luật,
công ty là pháp nhân, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng
với quyền sở hữu công ty.
5
Đặc điểm:
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không quá 50.
+ Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và có nghĩa vụ tài sản khác trong
phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là tổ chức kinh doanh có ít nhất hai cá nhân là thành viên hợp
danh làm chủ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các khoản nợ
và nghĩa vụ của công ty.
Đặc điểm:
+ Công ty có tư cách pháp nhân.
+ Công ty phải có từ hai cá nhân trở lên tham gia thành lập bao gồm thành viên hợp
danh, thành viên góp vốn (có thể có).
+ Thành viên hợp danh phải là người có trình độ, có uy tín nghề nghiệp, chịu trách

nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình.
+ Thành viên góp vốn là thành viên chỉ góp vốn vào công ty và chịu trách nhiệm hữu
hạn trong phần vốn góp của mình.
+ Tài sản của công ty độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng
chính tài sản đó.
1.2. Vai trò của kinh tế tư nhân
1.2.1. Kinh tế tư nhân góp thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ
chế quản lý theo hướng thị trường, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền
kinh tế
Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, còn lại hầu hết
là do khu vực KTTN tham gia, thậm chí còn chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương
thực, thực phẩm, nuôi trồng thủy hải sản, đánh cá, lâm nghiệp, hàng hóa bán lẻ, chế biến,
sành sứ, giày dép, dệt may,… , đã mang về hàng tỷ đô là ngoại tệ cho nền kinh tế. Chính
sự phát triển phong phú đa dạng các cơ sở sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm
dịch vụ, các hình thức kinh doanh,… của khu vực KTTN đã tác động mạnh đến các doanh
6
nghiệp nhà nước, buộc khu vực KTNN phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ,
đổi mới phương thức kinh doanh dịch vụ,… để tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Qua đó, khu vực KTTN đã thúc đẩy sự cạnh tranh
giữa các khu vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên năng động; đồng thời cũng tạo nên
sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nên kinh tế thị trường nói chung.
1.2.2. Kinh tế tư nhân góp phần khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn,
các nguồn nguyên liệu ở từng địa phương.
Khu vực KTTN có hiệu quả đầu tư cao hơn rất nhiều so với doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo tính toán, để tạo 1 đơn vị giá trị GDP, các
doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chỉ cần 3,74 đơn vị đầu tư, trong khi ở khu vực nhà
nước cần tới 8,28 đơn vị và doanh nghiệp khu vực FDI cần 4,99 đơn vị. Doanh thu trên
tổng số tài sản khu vực tư nhân cũng cao hơn các khu vực khác, nếu với 1 tỉ đồng tài sản,
doanh nghiệp tư nhân sẽ tạo ra được 1,18 tỉ đồng doanh thu, thì doanh nghiệp ở khu vực

nhà nước chỉ tạo ra được 0,80 tỉ đồng và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 0,89 tỉ
đồng. Chính vì thế, vai trò của KTTN trong nền kinh tế ngày càng trở nên quan trọng.Biều
hiện, sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP cả nước ngày một tăng.
Hình 1: Giá trị tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của khu vực KTTN
Đơn vị: Tỷ đồng.
7
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Không những tăng về số lượng đóng góp mà KTTN còn gia tăng cả tỷ trọng đóng
góp cho GDP. Nếu như năm 2005, KTTN chỉ đóng góp 45,6% GDP thì sang đến năm
2011 đã tăng lên mức hơn 48%. Như vậy, vai trò của KTTN ngày càng quan trọng trong
nền KTQD.
Ngoài ra, KTTN tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát.
1.2.3. Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
năng động
Khu vực KTTN đã đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nhất là trong những năm gần đây. Đặc biệt trong nông nghiệp, nó đã góp phần đáng kể
trong trồng trọt, chán nuôi và quan trọng hơn cả là trong các ngành chế biến, xuất khẩu,
nhờ đó kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Hơn thế nữa, mục tiêu của phát triển là nhằm tạo cho người dân có mức thu nhập
cao hơn thông qua sự tăng trưởng nhanh trong tổng sản phẩm quốc nôi. Trong nền kinh tế
thị trường, điều này có thể đạt được cùng với nỗ lực của khu vực công và khu vực tư nhân.
Một trong những đóng góp quan trọng của khu vực tư nhân đối với phát triển kinh
tế là khả năng huy động vốn cho việc sản xuất các hàng hóa và dịch vụ. Nguồn vốn là yếu
tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Trong một nền kinh tế đang phát triển, nguồn
vốn rất khan hiếm, và đặc biệt đối với các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam thì nguồn
vốn càng khan hiếm hơn khi các tổ chức tài chính chưa phát triển và không có khả năng
huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn
cho đầu tư. Do đó, khả năng huy động vốn của khu vực KTTN trở nên rất quan trọng.

Bên cạnh đó, sư phát triển của khu vực KTTN góp phần thu hút được nhiều lao
động ở nông thôn vào cac ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiêp đã giup chuyển đổi
cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cáu kinh tế đất nước.
Khu vực KTTN tăng về số lượng và khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế.
Nếu như trước đây, KTTN không được thừa nhận, bị coi là đối tượng của cách mạng
8
XHCN, phải được cải tạo và xóa bỏ, với tư tưởng như thế trong giai đoạn đó KTTN vẫn
chưa được phát triển mà hầu như còn bị vùi dập, kinh tế đất nước với sự hiện diện toàn bộ
bởi kinh tế tập thể với cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Từ đường lối đổi
mới (Đại hội 6 của Đảng 12/1986) khẳng định nền kinh tế nước ta với cơ cấu nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phàn kinh tế tồn tại lâu dài thì KTTN được phát triển rất mạnh
mẽ, tạo cho cơ cấu kinh tê có xu hướng chuyển dịch cân bằng giữa KTTN và kinh tê tập
thể.
Cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện về số lượng
giữa KTTN và kinh tế tập thể, mà còn thể hiện rất rõ trong sự phát triển của các vùng lãnh
thổ, và giữa các ngành. Các doanh nghiệp đăng ký hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh
donh thương mại chiếm 42% tổng số doanh nghiệp, công nghiệp và xây dựng 31%, dịch
vụ khác 22%, nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn khoảng 5%.
1.2.4. Kinh tế tư nhân đóng góp thu ngân sách
Đóng góp của các doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước có xu hướng tăng nhanh,
bao gồm các nguồn thu: thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, thuế môn
bài, VAT trong nhập khẩu và các khoản phí khác.
Với sự phát triển nhanh chóng của khu vực KTTN đã đóng góp rất lớn vào sự phát
triển của đất nước với số vôn huy động lớn trong xã hội, KTTN đã đóng góp ngày càng
tăng vào ngân sách nhà nước. Năm 2000 nộp 5.802 tỷ đồng, ước tính chiếm 6,39% tổng
nguồn thu ngân sách thì đến năm 2010, doanh nghiệp tư nhân nộp ngân sách nhà nước trên
69.925 tỷ đồng, chiếm 7,42% tổng thu ngân sách nhà nước.
Hình 2: Đóng góp của KTTN vào Ngân sách nhà nước giai đoạn 2000-2010
Đơn vị: Tỷ đồng.
9

Nguồn: Tổng cục thống kê.
Qua số liệu trên cho chúng ta thấy KTTN có vai trò rất lớn trong nguồn thu ngân
sách của nhà nước. Với tốc độ phát triển nhanh chóng như hiện nay thì chỉ trong một vài
năm gần đây KTTN sẽ thể hiện một vị thế quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế và là chỗ
dựa vững chắc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trở thành một nước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.5. Kinh tế tư nhân góp phần giải quyết việc làm cho người lao động
KTTN phát triển sẽ tạo ra việc làm cho một lượng lớn lao động, góp phần vào việc
ổn định đời sống cho người dân. Thật vậy, trong giai đoạn 2000-2005, hằng năm khu vực
KTTN cả nước thu hút khoảng 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc và đang trở thành nơi thu hút
lao động chủ yếu của cả nước. Phần lớn các doanh nghiệp khu vực KTTN có quy mô vừa
và nhỏ, dễ thích nghi với điều kiện nông thôn, nơi có nhiều lao động nhàn rỗi nên đã góp
phần vào giải quyết việc làm, giảm thất nghiệpcho khu vực này. Hơn nữa, nhờ chi phí tạo
một việc làm mới rẻ hơn so với doanh nghiệp nhà nước (theo tính toán của Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, chỉ hết 224 triệu đồng so với 436,5 triệu đồng) mà khu vực
KTTN đã còn góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng việc làm cho nhà nước.
Chính vì vậy, khu vực KTTN đã giúp giải quyết việc làm cho phần lớn lao động
Việt Nam. Cụ thể:
10
Bảng 1: Tình hình thu hút lao động trong khu vực KTTN Việt Nam giai đoạn
2000 - 2011
Năm Lao động khu vực KTTN
(Nghìn người)
Tỷ trọng LĐ khu vực KTTN
(%)
2000 32358,6 87,3
2001 33356,6 87,4
2002 34216,5 87,1
2003 34731,5 86,0
2004 35633,0 85,7

2005 36694,7 85,8
2006 37742,3 85,8
2007 38657,4 85,5
2008 39707,1 85,5
2009 41178,4 86,2
2010 42214,6 86,1
Sơ bộ 2011 43401,3 86,2
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Như vậy, hơn 85% việc làm của cả nước là do khu vực KTTN tạo ra. Điều này cho
thấy vai trò cực kỳ quan trọng của khu vực KTTN trong việc giải quyết việc làm, giảm thât
nghiệp cho nền kinh tế.
Với công nghệ kỹ thuật ngày càng được cải thiện và nâng cao, dây truyền sản xuất
ngày càng hiện đại, đòi hỏi ở công nhân một trình độ tay nghề phù hợp với điều kiện làm
việc, chinh vì thế quá trình đào tạo nghề được đưa lên vị trí hàng đầu. Hiện nay, trình độ
tay nghề của công nhân được nâng lên rõ rệt, bên cạnh đó việc xây dựng chiến lược và
chương trình phát triển đào tạo nghề được hình thành. Trong đó cần trú trọng đào tạo công
nhân kỹ thuật lành nghề à công nhân trình độ cao cho khu vực KTTN. Mặt khác, điều kiện
11
để đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi hơn so với các khu vực kinh tế khác, hầu
hết được đào tạo tại chỗ, thông qua kèm cặp của người nhà đã có tay nghề. Chi phí cho đào
tạo không đáng kể, đồng thời qua truyền nghề như vậy sẽ duy trì được những làng nghề
truyền thống, góp phần cùng xã hội dạy nghề mà chi phí chung của xã hội (kể cả chi phi
của tư nhân và nhà nước) không đáng kể.
Việc tạo ra nhiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao đông trong xã hội,
nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải quyết số dôi dư
từ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giảm biên chê, ….
1.2.6. Kinh tế tư nhân góp phần xóa đói giảm nghèo
Khu vực KTTN đã góp phần đáng kể vào việc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời
sống nhân dân ở khu vực thành thị và nông thôn. Theo thực tế khảo sát, thu nhập của
người lao động trong khu vực KTTN thường có mức tường hoặc cao hơn thu nhập của lao

động trồn lúa ở nông thôn cùng địa bàn. Mức thu nhập của khu vực KTTN tuy thấp hơn
các DNNN nhưng cao hơn khu vực kinh tế tập thể. Thu nhập trung bình của một lao động
trong khu vực KTTN cao gấp 2 đến 3 lần so với mức lương cơ bản của Nhà nước quy định.
1.3. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của khu vực tư nhân
1.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
1.3.1.1. Khung khổ pháp lý, chính sách:
Đây là các quy định pháp luật tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong đó, các chính sách tác động trực tiếp là các chính sách liên quan đến gia
nhập thị trường, thuế, lao động, đất đai, cạnh tranh, xuất nhập khẩu và các chính sách hỗ
trợ của nhà nước… Chi phí gia nhập thị trường cao do những quy định về cấp phép và
đăng ký kinh doanh có thể là một cản trở thành lập doanh nghiệp. Chính sách thuế không
rõ ràng, hợp lý sẽ vô tình làm doanh nghiệp gặp khó khăn trong mở rộng kinh doanh…
Hay các chính sách khác cũng vậy. Nếu các chính sách này ban hành không hợp lý có thể
gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp.
12
1.2.6.1. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến khả năng vận chuyển, giao lưu, trao đổi hàng hóa với các
vùng khác cũng như giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm. Do đó, nó ảnh hưởng trực tiếp
tới sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và khu vực KTTN nói riêng.
1.2.6.2. Môi trường kinh doanh
- Môi trường quốc tế:
Hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới khiến sự gắn kết của các nước với
nền kinh tế thế giới ngày càng chặt chẽ. Vì vậy, các bất ổn của nền kinh tế thế giới có thể
ảnh hưởng nhanh chóng và sâu rộng tới sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
- Môi trường trong nước:
Sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho KVTN của vùng yên tâm đầu tư sản xuất. Đồng
thời, quy mô thị trường lớn sẽ là yếu tố thu hút các DNTN đầu tư và mở rộng sản xuất.
Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh của quốc gia, của vùng tốt, có kinh nghiệm marketing
quốc tế từ phía chính phủ và doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng trong việc mở

rộng thị phần trong thị trường thế giới. Tuy nhiên, nếu thiếu năng lực cạnh tranh nhưng lại
thực hiện mở cửa nền kinh tế thì sẽ có nguy cơ nhiều doanh nghiệp không cạnh tranh nổi
và phá sản.
1.2.7. Nhóm nhân tố nội tại của doanh nghiệp
1.2.7.1. Vốn
Vốn là yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Vốn chủ sở hữu càng cao thì khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh cũng
như khả năng mở rộng, phát triển doanh nghiệp càng lớn. Bên cạnh đó, khả năng huy động
vốn cũng vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, hầu hết vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp không
đủ cung cấp cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, khiến cho các doanh nghiệp phải tìm
cách huy động nguồn vốn từ bên ngoài để duy trì và phát triển sản xuất. Tuy nhiên, khả
năng huy động vốn, đặc biệt là vốn vay ngân hàng phụ thuộc đòi hỏi doanh nghiệp phải
13
đáp ứng được nhiều yêu cầu như: tài sản thế chấp, chứng minh hiệu quả sản xuất kinh
doanh… do đó, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể dễ dàng huy động vốn.
1.3.2.2. Số lượng và chất lượng nguồn lao động
Số lượng lao động trong doanh nghiệp quyết định đến khả năng chuyên môn hóa
trong sản xuất của doanh nghiệp. Với các DNTN có quá ít lao động thì một lao động phải
đảm đương nhiều công việc khác nhau, do đó tính chuyên môn hóa trong công việc thấp,
dẫn đến NSLĐ không cao.
Chất lượng nguồn lao động quyết định trực tiếp tới NSLĐ, do đó quyết định đến hiệu quả
sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.7.2. Năng lực quản lý, tổ chức, điều hành và tham vọng của chủ doanh nghiệp
Chủ doanh nghiệp là người quyết định hướng đi cũng như chiến lược phát triển cho
doanh nghiệp của mình. Do đó, hướng đi sai hay tầm nhìn không dài hạn của người chủ
doanh nghiệp có thể khiến cho doanh nghiệp khó phát triển, thậm chí còn bị phá sản. Đồng
thời, khả năng quản lý, tổ chức, điều hành của chủ doanh nghiệp cũng quyết định đến việc
sử dụng hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển. Bên cạnh
đó, một người chủ có tham vọng cao, sẵn sàng chấp nhận rủi ro thì doanh nghiệp mới có
thể tăng trưởng nhanh.

1.2.7.3. Đổi mới công nghệ
doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ, tiếp cận những nguồn công nghệ hiện
đại sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành. Điều này hỗ trợ doanh nghiệp
tăng trưởng
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách toàn
diện nền kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường; thực hiện nhiều chính sách mở cửa với nhiều đặc điểm phát triển và vấn đề tương
tự nhau; đang trong giai đoạn phát triển thị trường, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Với lợi
14
thế là nước tiến hành cải cách sau, Việt Nam có cơ hội để học tập và tận dụng những bài
học thành công và không thành công của Trung Quốc, tránh những tác động tiêu cực có thể
nảy sinh trong quá trình chuyển đổi.
Quá trình phát triển của khu vực KTTN ở Trung Quốc
Sau ngày thành lập nước, Trung Quốc đã nhanh chóng hình thành nên một khu vực
kinh tế nhà nước lớn mạnh với sự giúp đỡ của Liên Xô cũ. Vào năm 1949, doanh nghiệp tư
nhân chiếm 63,3% sản lượng công nghiệp nhưng đến năm 1952, tỷ lệ này đã giảm nhanh
chóng xuongs còn 39%. Trong thời gian đó, chính phủ đã kiểm soát khu vực tư nhân thông
qua biện pháp quốc hữu hóa. Đến năm 1952, 56% sản phẩm đầu ra của khu vực tư nhân là
theo đặt hàng của nhà nước hay được tiêu thụ thông qua nhà nước. Bên cạnh đó, một vài
doanh nghiệp tư nhân đã chuyển sang hình thức công tư hợp doanh. Năm 1952, sản lượng
của khu vực tư nhân chiếm 5,7% tổng sản lượng quốc dân. Năm 1953, trong Đường lối
chung cho thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra một lịch trình hoàn thành
việc cải tạo xã hội chủ nghĩa các doanh nghiệp tư nhân và hộ thủ công trong vòng 15 năm.
Vào lúc đó, lịch trình trên là rất khả thi và đã nhanh chóng được đẩy mạnh, nhưng cũng
nhanh chóng kết thúc vào năm 1956. Sau Đại nhảy vọt, chính quyền trung ương lại mở
cánh cửa cho các doanh nghiệp cá thể quy mô nhỏ, bao gồm cả hộ thủ công, nhưng doanh
nghiệp tư nhân vẫn chưa được xem xét đến (cho tới tận năm 1988). Tuy nhiên tất cả đã
phải đóng cửa khi Cách mạng văn hóa bùng nổ nằm 1966.

KTTN không tồn tại trong giai đoạn từ 1966 đến 1979. Sau những cải cách ở khu
vực nông thôn cuôi năm 1978, khu vực tư nhân đã lại xuất hiện. Tuy nhiên, cuộc cải cách
này cũng như hầu hết những cải cách gần đây tại Trung Quốc, không hẳn đã được nhìn
nhận trước một cách thấu đáo mà đúng hơn là được thực hiện dưới áp lực về kinh tế và
những tác động mang tính lịch sử khác.
Ở khu vực nông thôn, KTTN cũng đã phát triển mạnh sau những cải cách thể chế
mà trong đó có cơ chế khoán theo hợp đồng được thực hiện. Những thay đổi này đã tạo ra
động lực khuyến khích nông dân làm ăn và sản lượng nông nghiệp theo đó cũng tăng lên.
Đồng thời với sự phát triển nhanh chóng đó, nhiều hộ gia đình ở nông thôn đã trở nên giàu
có. Tuy nhiên, ngay từ giai đoạn đầu của cải cách quan trọng này, lao động nông nghiệp đã
trở nên dư thừa với mức báo động. Hai yếu tố trên đã kéo các doanh ngiệp tư nhân quay về
khu vực nông thôn.
15
Ở các thành phố, sự trỗi dậy của KTTN cũng do áp lực giải quyết nạn thất nghiệp
trong thanh niên thành thị đang đè nặng lên vai chính phủ. Cuối nhưng năm 70, đầu 80,
hàng triệu thanh niên trước đây đi về các vùng nông thôn trong cách mạng văn hóa nay
quay trở lại thành phố. Việc làm cho những thanh niên này thực sự trở thành một gánh
nặng cho chính phủ. Chính phủ đã khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm bên cạnh việc
tìm những công việc chính thức khác. Sau đó, một thành phần đặc biệt đã ra đời: hộ cá thể.
Trong những năm 80, hộ cá thể đã phát triển lớn mạnh và nhanh chóng đạt con số
23,05 triệu, chiếm 10% tổng lao động phi nông nghiệp trong toàn quốc. Có được sự lớn
mạnh nhanh chóng trên là do: thứ nhất, cải cách ở khu vực thành thị đã cho ra đơi hệ thống
hai giá mà nhờ đó rất nhiều nguồn lực được đưa vào thị trường. Được hưởng lợi nhiều nhất
là những người dân ở khu vực nông thôn. Lần đầu tiên sau hơn hai mươi năm họ có thể có
các nguyên liệu đầu vào quan trọng mặc dù phải trả giá cao hơn. Động lực này đã giúp các
hộ cá thể phát triển; thứ hai, cải cách ở khu vực nông thôn đã mang lại nhiều lợi ích to lớn
cho nông dân, cung cấp vốn ban đầu cần thiết cho KTTN ở nông thôn; cuối cùng, cầu về
các hàng hóa thiết yếu như thực phẩm, hàng may mặc, các hàng hóa tiêu dung khác cũng
tăng lên do sức mưa của người dân ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên. Cộng them
việc nguồn cung rất hạn chế do hậu quả của quá trình phát triển dựa trên công nghiệp nặng

để lại một nền thị trường rộng lớn đã mở ra cho hộ cá thể phát triển.
Sự phát triển của hộ cá thể đầu những năm 1980 đã đặt nền móng vững chắc cho sự
xuất hiện chính thức của doanh nghiệp tư nhân năm 1988. Trước năm 1988, rất nhiều hộ cá
thể có thể coi là doanh nghiệp tư nhân nếu xét dưới góc độ lao động. Theo kết quả điều tra
của một nhóm nghiên cứu thuộc Hội đồng nhà nước trong 300 làng tiến hành năm 1987, có
0,2 hộ nông dân thuê trên 8 nhân trong năm 1986. Như vậy có thể ước tính rằng cuối năm
1988 đã có khoảng 500.000 hộ cá thể có thể coi là doanh nghiệp tư nhân.
Bên cạnh đó còn rất nhiều doanh nghiệp tập thể những thực chất là sở hữu tư nhân.
Đó là những “doanh nghiệp đội mũ đỏ” với mục đích núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh
những ngăn cấm từ phía chính phủ và những phân biệt về mặt tư tưởng hệ. Loại doanh
nghiệp này vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi quá trình tư nhân hóa đang diễn ra mạnh mẽ và
rộng khắp. Mặc dù không có số liệu chính thức những hầu hết các doanh nghiệp cấp làng ở
Thuận Đức là doanh nghiệp mũ đỏ trước khi chương trình tư nhân hóa được thực hiện năm
1992. Ngoài ra còn có rất nhiều doanh nghiệp tập thể cho tư nhân thuê để hoạt động. Con
số này ở Hà Bắc, Thiên Tân, Liêu Ninh và Ninh Hạ năm 1984 là 18,6%, 30%, 40% và
16
50%. Sau khi trả một khoản tiền thuê, tư nhân có thể điều hành doanh nghiệp như doanh
ngiệp của chính mình và có thể tích lũy được những khoản tiền đáng kể. Dần dần, tỷ lệ tài
sản của tập thể trong doanh nghiệp giảm xuống và doanh nghiệp sẽ chuyển thành sở hữu tư
nhân. Cuối năm 1989, số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký là 90.600.
Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 gây ra một bước thụt lùi cho khu vực tư nhân vì sau đó
chính quyền đã có nhiều những chính sách mang tính bảo thủ. Số lượng hộ cá thể giảm từ
23,05 triệu cuối năm 1988 xuống còn 19,41 triệu cuối năm 1989; số lượng doanh nghiệp tư
nhân cũng giảm từ 90.600 cuối năm 1989 xuống 88.000 tháng 6 năm 1990. Ở Hà Nam, số
lượng doanh nghiệp tư nhân giảm 23% trong thời kỳ 1989 – 1991. Xu hướng này chỉ dừng
lại sau chuyến công tác nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình xuống phía Nam mà tại đó ông đã
kêu gọi tiếp tục các nỗ lực cải cách. Cuối năm 1992, số lượng hộ cá thể và doanh nghiệp tư
nhân đã là 26,99 triệu và 139.600. Giai đoạn 1992 – 1994 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất
của các doanh nghiệp tư nhân. Trên thực tế, khu vực tư nhân đã thực sự cho doanh nghiệp
nhà nước thấy tính hiệu quả của sở hữu tư nhân.

Tư nhân hóa và sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân
Năm 1995, chính quyền trung ương sau nhiều lần khảo sát điều tra đã đưa ra chính
sách “nắm lớn, thả nhỏ”, theo đó nhà nước chỉ trú trọng vào tư 500 đến 1000 doanh nghiệp
lớn và cho thuê hoặc bán các doanh nghiệp nhỏ hơn. Từ chính sách “thả nhỏ” này đã xuất
hiện thuật ngữ “thay đổi sở hữu”. Nội dung của “thay đổi sở hữu” bao hàm cả khoán và
cho thuê, hai biện pháp được sử dụng trước đây, và các biện pháp như bán, chuyển thành
công ty do người lao động nắm giữ hay chuyển thành hợp tác xã. Chính sách này có tác
động trực tiếp tới các doanh nghiệp mũ đỏ. Với quyết tâm loại bỏ hoàn toàn những doanh
nghiệp kiểu này, tháng 3 năm 1998 Quốc Vụ Viện đã ban hành một chỉ thị trong đó yêu
cầu tất cả các doanh nghiệp mũ đỏ phải “lột mũ” muộn nhất là đến tháng 11 năm 1998.
Tuy nhiên, không phải tất cả các địa phương đều có sự chuẩn bị tốt cho việc chuyển
đổi sở hữu. Nhiều doanh nghiệp chỉ đơn thuần là thay đổi tên gọi. Điều này đặc biệt đúng
đối với doanh nghiệp do người lao động nắm giữ cổ phần. Các doanh nghiệp này vẫn được
coi là doanh nghiệp tập thể và chính quyền địa phương vẫn can thiệp vào hoạt động của
chúng. Ở đây xuất hiện vấn đề thay đổi chức năng của các cơ quan công quyền. Như vậy,
nếu chỉ có tư nhân hoá mà không có sự thay đổi vai trò của cơ quan công quyền thì sẽ là
chưa đủ để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế.
17
Một số vấn đề cần tiếp tục được giải quyết trong phát triển kinh tế tư nhân ở Trung
Quốc
* Về tài chính
Có 3 cách để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn tài chính: vay phi chính
thức, vay từ các ngân hàng, và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Vay phi chính thức cho đến nay vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu cho các doanh
nghiệp tư nhân ở Trung Quốc. Kết quả một cuộc khảo sát 500 công ty ở 6 thành phố năm
1999 cho thấy, trong 3 năm gần đây, chỉ có 33% số công ty vay vốn từ ngân hàng. Điều
này có nghĩa là rất nhiều công ty dựa vào nguồn vốn phi chính thức để hoạt động kinh
doanh và đầu tư tài chính. Vay vốn phi chính thức là cách huy động vốn ưa chuộng nhất
đối với các doanh nghiệp tư nhân nhỏ. Ưu điểm quan trọng nhất của nó là thuận lợi và
nhanh chóng.

Trong những năm tới, vay phi chính thức vẫn sẽ là nguồn tài chính chủ yếu cho các
doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, những quy định pháp luật của Trung Quốc trong việc
điều chỉnh hoạt động vay mượn phi chính thức hiện lại rất thiếu. Ví dụ, các quỹ tiết kiệm
sử dụng luân phiên quy mô nhỏ thì được phép tồn tại, nhưng lớn thì không. Quỹ tiết kiệm
quay vòng quy mô lớn thực chất có thể gây ra những vấn đề về tài chính, ổn định xã hội và
cần phải có quy định điều chỉnh. Vấn đề chính là chưa xác định được rõ ràng phạm vi
“quyền” của quỹ tiết kiệm quay vòng này.
Ở Trung quốc, nguồn tín dụng chính thức dành cho doanh nghiệp tư nhân rất hạn
chế, dưới 20% tổng vốn cho vay của 4 ngân hàng nhà nước lớn. Mặc dù về mặt văn bản
không có sự phân biệt lớn và trong nhiều trường hợp còn khuyến khích cho vay đối với
doanh nghiệp tư nhân, nhưng trên thực tế vẫn còn thái độ phân biệt doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp nhà nước không trả nợ đúng hạn thì tiền
vẫn nằm trong tay nhà nước, còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì trong trường hợp này
tiền nằm trong tay chủ doanh nghiệp. Do đó ngân hàng cho rằng rủi ro khi cho doanh
nghiệp nhà nước vay thấp hơn so với doanh nghiệp tư nhân.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với doanh nghiệp tư nhân trong việc tiếp cận các
nguồn vốn tín dụng chính thức không phải là sự phân biệt nói trên mà quy mô doanh
nghiệp nhỏ và tính phi chính thức.
18
Một điều dễ nhận thấy là sự tiếp cận các khoản vay ngân hàng có liên quan đến quy
mô doanh nghiệp. Trong cuộc điều tra 500 doanh nghiệp nói trên, kết quả cho thấy chỉ
17% số doanh nghiệp có 50 lao động hoặc ít hơn có vay vốn ngân hàng, trong khi đó 83%
số doanh nghiệp có hơn 500 lao động vay vốn ngân hàng. Một cuộc điều tra khác tiến hành
năm 1996 cho kết quả tương tự: năm 1995, khoảng 38% số doanh nghiệp có ít hơn 30 lao
động vay tiền từ ngân hàng cho hoạt động kinh doanh và 33% vay vốn đầu tư ban đầu,
nhưng toàn bộ các doanh nghiệp nhiều hơn 200 lao động có vay tiền kinh doanh và 50%
doanh nghiệp vay vốn đầu tư ban đầu.
Xét về mặt kinh tế, hoàn toàn có lý khi ngân hàng không cho doanh nghiệp nhỏ vay.
Lý do trước hết là số tiền vay quá nhỏ để ngân hàng có thể kiếm lời từ đó. Hơn nữa, chi phí
để ngân hàng thu thập thông tin về doanh nghiệp nhỏ đôi khi lại lớn hơn so với doanh

nghiệp lớn. Các công ty lớn ghi chép tài chính tốt hơn và ít làm giả tài liệu vì cần giữ uy
tín. Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ thường không ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ và hay
làm sai lệch số liệu. Do đó một trong những lý do doanh nghiệp tư nhân lớn tiếp cận nguồn
vay ngân hàng dễ hơn so với doanh nghiệp nhà nước là chúng có ghi chép sổ sách tốt.
Đối với các công ty đang phát triển thì khó khăn của họ không phải là tài chính cho
hoạt động hàng ngày mà là cho việc mở rộng phạm vi và quy mô kinh doanh. Dưới góc độ
này thì thị trường vốn dường như quan trọng hơn các khoản vay của ngân hàng nếu muốn
tăng nhanh tốc độ phát triển khu vực tư nhân nhưng cho tới nay Trung Quốc mới có hai thị
trường chứng khoán và doanh nghiệp tư nhân lại không được phép tham gia. Quy định đó
tuy đã được xoá bỏ năm 2000 nhưng thị trường chứng khoán vẫn chủ yếu dành cho doanh
nghiệp nhà nước.
Sẽ là phi thực tế nếu chỉ dựa vào thị trường chứng khoán để giải quyết vấn đề vốn
cho các doanh nghiệp tư nhân. Cách đây vài năm, cũng đã từng có rải rác ở một vài địa
phương thị trường chứng khoán giao ngay cho các doanh nghiệp địa phương, tuy nhiên
những thị trường này đã tan rã ngay sau khi hiệp hội tín dụng địa phương ngừng hoạt động.
Xét trên khía cạnh quốc tế thì chưa nước nào có nhiều kinh nghiệm về việc giải quyết vấn
đề tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ. Ở một nước rộng lớn như Trung Quốc, thị trường
chứng khoán địa phương có thể xem là một giải pháp tốt.
Tóm lại, các công ty tư nhân ở Trung Quốc chủ yếu phụ thuộc vào thị trường vốn
phi chính thức cho hoạt động kinh doanh của mình. Có sự không tương xứng giữa những
19
đóng góp vào nền kinh tế với việc phân phối nguồn lực tài chính: trong khi đóng góp của
khu vực ngoài nhà nước chiếm gần 2/3 GDP thì tỷ lệ vay vốn từ ngân hàng của khu vực
này chỉ chiếm 20%. Cho dù nguồn vốn thiếu hụt đó được tạo ra thông qua vay mượn trên
thị trường phi chính thức đi chăng nữa cũng vẫn cần phải củng cố lại vai trò của Chính
phủ.
* Tính phi chính thức của doanh nghiệp tư nhân
Nếu có sự cản trở tiềm năng phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Trung quốc thì đó
chính là tính phi chính thức của khu vực này. Tính phi chính thức rất đa dạng, dưới nhiều
góc độ và hậu quả của nó cũng rất nặng nề.

Trước hết, các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ không
thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ. Nhiều trường hợp, doanh nghiệp tư nhân cố ý
sử dụng mánh khoé trong việc ghi chép và lưu giữ nhiều loại sổ sách kế toán: một cho chủ
doanh nghiệp, một để tính thuế, và một cho ngân hàng. Thông tin cho chủ doanh nghiệp là
thực ghi, bộ sổ sách thứ hai nhằm giảm thu nhập và lợi tức của công ty và bộ thứ ba lại
nhằm thổi phồng mình. Thực tế này đã tạo ra tính không chắc chắn cho bên thứ ba đối với
thông tin về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp công ty có nhu cầu
vay vốn bên ngoài thì ngân hàng lại do dự khi cấp các khoản vay cho họ cho dù họ có cung
cấp thông tin thật bởi vì ngân hàng biết rằng phần lớn DNV&N không tiết lộ thông tin thật.
Thậm chí nếu ngân hàng rất sẵn lòng cho vay thì chi phí liên quan đến việc xác định chính
xác thông tin tài chính của doanh nghiệp cũng rất cao.
Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân dường như không có ý thức tuân thủ pháp luật. Ví
dụ, có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đã đăng ký bảo hộ tên mác sản phẩm
nhưng lại sản xuất sản phẩm có chất lượng thấp hơn. Chính hành vi này đã làm giảm lòng
tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm của họ, điều đó sẽ gây tổn thương cho chính các
doanh nghiệp tư nhân. Hơn thế nữa, mức độ tin tưởng lẫn nhau ngay giữa các doanh
nghiệp tư nhân cũng rất thấp, việc khất nợ là phổ biến, lừa đảo xảy ra thường xuyên. Cuối
cùng, phần lớn các DNV&N không tuân thủ chuẩn mực về lao động, công nhân thiếu sự
bảo hộ tối thiểu và nợ tiền lương cũng phổ biến. Những hành vi này làm tăng chi phí giao
dịch và chi phí quản lý, và rốt cuộc sẽ gây hại cho chính doanh nghiệp.
Thứ ba, đa số các công ty tư nhân không có cơ chế quản lý nội bộ hợp lý, điều này
là thực tế ngay cả đối với một số doanh nghiệp quy mô lớn. Nhiều công ty tư nhân là các
20
công ty gia đình - ở đó không có một cơ chế quản lý minh bạch, rõ ràng. Quyền ra quyết
định thường được trao cho một ai đó. Trong trường hợp xấu, công ty sẽ ngừng hoạt động
chỉ vì chủ doanh nghiệp không ở nhà. Một vấn đề khác nữa là nhiều công ty không có đội
ngũ nhân viên đủ khả năng. Ví dụ, nhiều doanh nghiệp tư nhân có điểm xuất phát thấp với
các nhân viên có trình độ, kỹ năng hạn chế. Sau khi công ty lớn mạnh, những nhân viên đó
không đáp ứng được yêu cầu về quản lý doanh nghiệp nữa, tuy vậy họ lại không muốn
thuê các nhà quản lý có trình độ điều hành công ty. Trong nhiều trường hợp, các bên chấm

dứt hợp tác với những tranh chấp khó giải quyết và có thể dẫn đến giải thể công ty.
Cuối cùng, các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa đánh giá đúng nguồn vốn con người.
Chẳng hạn, so sánh với DNNN và doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp tư nhân thường trả
một mức lương thấp cho các sinh viên mới tốt nghiệp. Nguyên nhân của hiện tượng này là
doanh nghiệp tư nhân nhấn mạnh đến yếu tố kinh nghiệm tích luỹ trong doanh nghiệp
mình. Điều này chắc chắn sẽ đặt doanh nghiệp tư nhân vào thế bất lợi nếu xét về sự phát
triển dài hạn.
Như vậy, sau hơn hai mươi năm đổi mới, khu vực tư nhân Trung quốc cuối cùng đã
có được xử đối xử công bằng. Những năm 90 chứng kiến nhiều thay đổi tích cực nhất
trong chính sách của Đảng và Chính phủ Trung Quốc đối với khu vực tư nhân. Đến nay,
các chính sách đã được ban hành khá đầy đủ và khu vực kinh tế tư nhân đã bước vào giai
đoạn cất cánh. Trong 10 năm tới, chúng ta sẽ được chứng kiến sự phát triển không ngừng
của doanh nghiệp tư nhân. Đây sẽ là một giai đoạn khó khăn cho khu vực tư nhân vì hầu
hết các nỗ lực cải cách đã được thực hiện, môi trường kinh doanh đã khá bình đẳng, và do
đó các doanh nghiệp tư nhân sẽ phải phát triển dựa vào chính nội lực của mình. Dưới khía
cạnh tính phi chính thức, con đường phía trước cho các doanh nghiệp tư nhân hẳn không
hề bằng phẳng.
Chính phủ cũng cần nỗ lực để tự hoàn thiện mình, đặc biệt là khu vực tài chính. Một
mặt, khu vực này cần phải mở rộng cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài;
mặt khác, nguồn lực tài chính cần được chuyển từ khu vực nhà nước sang cho khu vực tư
nhân. Trên thực tế, hai mặt trên có quan hệ với nhau: nếu các định chế tài chính tư nhân
được phép tham gia thị trường tài chính thì tự nhiên, các nguồn lực tài chính sẽ được
chuyển sang cho khu vực kinh tế tư nhân.
21

×