Luận văn
Đề tài: Giao Tiếp Trong Khoa
Công Nghệ Trường Đại Học
công Nghiệp TP Hồ Chí Minh
cơ Sở Thanh Hóa
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó không những
là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách
mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực
hoạt động.
Đối với ngành công nghệ, giao tiếp không những có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp hình thành và phát triển nhân cách nhân viên kỹ thuật mà còn là bộ phận cấu thành
hoạt động kỹ thuật, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực xã hội của người làm kỹ
thuật. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức hoạt động làm việc. Nếu
không có giao tiếp thì không thể hướng hoạt động công việc của các nhân viên vào việc đạt
được mục đích công việc. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ đào tạo ngành công nghệ
là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ động chuẩn bị cho mình về năng lực giao tiếp.
Trường Đại Học Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh là một trong những nơi đào
tạo nghề cho những kỹ sư và cử nhân tương lai phục vụ công tác xây dựng nguồn nhân lực
đáp ứng nhu cầu của xã hội. Hành trang của sinh viên Đại Học Công Nghiệp Thành Phố Hồ
Chí Minh ngoài tư cách, phẩm chất, đạo đức, nhiệt huyết với công việc còn phải vững mạnh
về chuyên môn và giỏi về nghiệp vụ kỹ thuật( hay còn gọi là tay nghề đối với công nhân kỹ
thuật nói chung), trong đó có năng lực giao tiếp. Vì vậy, việc rèn luyện năng lực giao tiếp
mà cụ thể là kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên công nghệ là vấn đề thiết
yếu.
Khoa công nghệ cơ sở Thanh Hóa của Trường Đại Học Công Nghiệp Thành Phố Hồ
Chí Minh là nơi đào tạo đội ngũ kỹ sư,cử nhân Kỹ thuật công nghiệp cho các ngành nghề
kỹ thuật đang rất phổ biến hiện nay như cơ khí ô tô, điện tử - điện lạnh,kỹ thuật điện,hóa lọc
dầu,công nghệ môi trường…. Với đặc điểm của thế kỷ 21 là công nghệ đang trên đà phát
triển rất nhanh,công nghệ mới được tạo ra qua một thời gian lại đã lỗi thời.Do đó việc giao
lưu trao đổi kinh nghiệm và học hỏi công nghệ mới là yêu cầu cấp thiết đôúi với sinh viên
của khoa. Trên thực tế địa điểm của cơ sở đặt tại vùng nông thôn nên môi trường giao tiếp
của sinh viên trong khoa cũng như trong cơ sở đã bị hạn chế đi rất nhiều, bên cạnh đó là
vấn đề về sự chênh lệch giới, về thái độ giao tiếp của từng sinh viên,…cũng làm ảnh hưởng
không ít đến kỹ năng giao tiếp.
Để khắc phục những khó khăn ấy và rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên Khoa
công nghệ thì một hệ thống bài tập tình huống giao tiếp là vô cùng cần thiết . Vì vậy, tôi
mạnh dạn chọn đề tài : “Vấn đề giao tiếp của sinh viên khoa công nghệ và giải pháp nâng
cao hiệu quả học tập kỹ năng giao tiếp trong sinh viên của khoa thông qua bài tập tình
huống”. Với hy vọng góp phần nhỏ bé nhằm rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, nâng cao
khả năng giao tiếp cho các bạn sinh viên trong khoa - những kỹ sư ưu tú tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giao tiếp là một phần không thể thiếu của con người, đặc biệt là sinh viên nói chung
và sinh viên khoa công nghệ nói riêng - Những kỹ sư công nghệ tương lai của đất nước.
Hiện nay, giao tiếp hay cụ thể hơn là kỹ năng giao tiếp ngày càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết trong thời đại xã hội ngày càng văn minh. Kỹ năng giao tiếp có tốt hay
không thế hiện rõ nét nhất trong cách ứng xử, giải quyết tình huống giao tiếp diễn ra hàng
ngày xung quanh mỗi chúng ta.Vì vậy, tôi thấy cần thiết phải đi sâu vào nghiên cứu nội
dung này với hy vọng xây dựng được một hệ thống các tình huống giao tiếp điển hình trên
nhiều mặt để nâng cao một cách hiệu quả kỹ năng giao tiếp cho sinh viên công nghệ trường
Đại Học Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh cơ sở Thanh Hóa.
3. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng được một hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình
huống trong giao tiếp cho sinh viên khoa Công Nghệ trường Đại Học Công Nghiệp Thành
Phố Hồ Chí Minh Cơ sở Thanh Hóa.
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống
giao tiếp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp luyện tập giải quyết tình huống giao tiếp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Tìm hiểu nhu cầu giao tiếp, thực trạng kỹ năng giao tiếp và giải quyết tình huống
giao tiếp của sinh viên khoa Công Nghệ trường Đại Học Công Nghiệp Thành Phố
Hồ Chí Minh cơ sở Thanh Hóa.
5.3. Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống
giao tiếp cho sinh viên Khoa Công Nghệ trường Đại Học Công Nghiệp Thành Phố
Hồ Chí Minh cơ sở Thanh Hóa.
6. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, những tình huống giao tiếp nói chung là vô hạn nên trong
phạm vi đề tài của mình tôi chỉ xây dựng những bài tập tình huống điển hình, phù hợp với
nhu cầu giao tiếp của sinh viên Khoa Công Nghệ cũng như phù hợp với những kỹ năng
thiết yếu trong giao tiếp.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được dùng trong suốt quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài, từ
việc xây dựng đề cương nghiên cứu vấn đề đến việc xác định cơ sở lý luận của giao
tiếp và xây dựng hệ thống bài tập tình huống. Số lượng tài liệu tham khảo là trên 10
sách và tư liệu có liên quan (xem phần Tài liệu tham khảo)
7.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu lý thuyết về giao tiếp để xây dựng những
bài tập tình huống phù hợp nhất.
7.3. Phương pháp quan sát
Qua quan sát những biểu hiện trong các mặt hoạt động để tìm hiểu thực trạng nhu
cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên.
7.4. Phương pháp trao đổi, trò chuyện
Qua trao đổi trò chuyện với sinh viên, với cán bộ Đoàn, cán bộ lớp để tìm hiểu tâm
tư, nguyện vọng của sinh viên, thái độ của họ trong khi trả lời các phiếu điều tra, từ
đó phát hiện ra yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp.
7.5. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Phiếu điều tra đảm bảo tính khách quan, tổng hợp, gồm 95 câu hỏi về 4 lĩnh vực là:
Nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp, mức độ cởi mở của cá nhân và kỹ năng giao
tiếp, yêu cầu sinh viên chọn ý kiến phù hợp với mình. Từ đó dựa vào barem điểm,
cho điểm các phiểu điều tra.
Phiếu điều tra được phát ra hơn 200 phiếu trên hơn 200 đối tượng là sinh viên các
lớp: DHDI8, DHDI7,DHHD7,DHTH7,DHTH6,DHTH5. Tổng số phiếu thu được là
200 phiếu.
7.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhóm phương pháp này được thực hiện trong việc đưa ra các nhận định, luận cứ có
tính thực tiễn, có độ tin cậy cao trong phần tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao tiếp của
sinh viên Khoa Công Nghệ, nêu ra những nguyên nhân hạn chế của việc giao tiếp và
xử lý tình huống giao tiếp, tổng kết rút kinh nghiệm từ nhiều chuyên gia về kỹ năng
giao tiếp.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp logic, toán học thống kê,… trong việc lập
bảng và phân tích số liệu,…
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT TÌNH
HUỐNG TRONG GIAO TIẾP
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động rất phong phú, đa dạng và phức tạp của con người. Nên
khái niệm giao tiếp được giải thích cũng rất đa dạng và có nhiều bàn cãi trong lĩnh vực này.
nhận thông tin trao đổi giữa người với người.
T.Chuc Com (Mỹ): Giao tiếp là sự tác động qua lại trực tiếp lên nhân cách dẫn đến
việc hình thành những ý nghĩa biểu tượng, chuẩn mực và mục đích hành động. Quan niệm
này cụ thể hơn, đề cập đến các yếu tố tham gia trong giao tiếp nhưng chưa nêu được bản
chất của giao tiếp.
T.Stéc Sen (Pháp) đặc biệt chú ý đến sự thay đổi ý nghĩa, tình cảm và xúc cảm giữa
con người với con người và khi đó ông coi sự trao đổi này là quá trình hai mặt của sự thông
báo thiết lập, sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
L.X. Vưgôtxki (nhà tâm lý học Liên Xô) cho rằng: Giao tiếp xem như là sự thông
báo hoặc quan hệ qua lại thuần tuý giữa con người, như là sự trao đổi quan điểm và xúc
cảm (L.X.Vưgôtxki).
Ngày nay, cùng với việc xây dựng một cách tích cực và khoa học hệ phương pháp
nghiên cứu giao tiếp thì bản chất, hiện tượng giao tiếp cũng được lý giải ngày càng đầy đủ
và rõ ràng. Ở một khái niệm chung nhất chúng ta có thể hiểu: Giao tiếp là sự tác động qua
lại giữa con người với con người, mà trong quá trình của nó nảy sinh sự tiếp xúc tâm lý,
được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự ảnh hưởng lẫn nhau, sự rung cảm lẫn nhau, sự
hiểu biết lẫn nhau, và cuối cùng là những quan hệ qua lại giữa con người với con người
được thực hiện, được thể hiện và được hình thành.
1.1.2. Vai trò của giao tiếp
Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng trong khoa học
và cuộc sống.
Người ta không thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị độc lập, không phụ
thuộc vào môi trường xã hội xung quanh vì: “Bản chất con người không phải là trừu tượng
vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà của tất cả những mối quan hệ xã hội” (Mác – Anghen “Tuyển tập” – Nhà xuất bản sự
thật Hà Nội, 1971)
Cơ sở của quan hệ phụ thuộc lẫn nhau là những nhu cầu của con người biểu thị mối
liên hệ của con người với những người khác cũng như với những đối tượng và những hoàn
cảnh có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với họ và quy định vị trí cá nhân trong môi trường
xã hội. Nói cho thật đúng thì tất cả những nhu cầu của một người riêng lẻ đều chỉ có thể
thoả mãn khi tính đến những nhu cầu của những người xung quanh. Đồng thời cơ cấu nhu
cầu càng phức tạp thì quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa người này với người khác càng tăng.
Chẳng hạn chúng ta khó mà tưởng tượng là nhu cầu muốn được người khác tôn trọng lại có
thể thoả mãn ngoài mối liên hệ với những người xung quanh.
Giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành bản thân con người như là
con người xã hội, đồng thời là điều kiện tất yếu của sự tồn tại con người. Chính vì vậy mà
nhiều nhà bác học thuộc lĩnh vực tâm lý học cũng quan tâm đến vấn đề giao tiếp. Chẳng
hạn nhà bác học Đức R.Noibe đã nói: “Con người là nhu cầu quan trọng của con người, con
người sẽ bị mất mát nhiều nếu họ không thể so sánh được mình với người khác, không thể
trao đổi được với người khác về các ý nghĩ, không thể định hướng được vào người khác.
Căm thù người khác còn tốt hơn là phải sống cô đơn”
Hơn nữa, trong quá trình giao tiếp với nhau, người ta trao đổi quan niệm với nhau. Trong
quan niệm của họ thể hiện thái độ đánh giá về mặt trí tuệ của họ đối với những mặt khác
nhau của đời sống thực tế, của đời sống vật chất và tinh thần. Những quan niệm này có thể
giống nhau và như thế thì củng cố lẫn nhau và trở thành cơ sở cho hoạt động chung và cho
cách xử sự (giống nhau) của những người ấy. Những quan niệm giống nhau sẽ củng cố thái
độ đạo đức nảy sinh một cách tự phát. Còn trong trường hợp có những quan niệm khác
nhau thì sẽ nảy ra sự đấu tranh quan niệm dẫn đến việc hình thành quan điểm chung.
Trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi kiến thức cho nhau và chính như thế
là nâng cao trình độ văn hoá chung của tập thể cũng như của mỗi thành viên trong đó. Điều
quan trọng không phải là bản thân các kiến thức được truyền đạt lại mà là thái độ tích cực
đối với các kiến thức đó. Điều đó giải thích tại sao lại có sự lựa chọn thiên lệch đối với một
số nghề nghiệp, sách báo phổ biến, khoa học, tác phẩm nghệ thuật nào đó – Do ảnh hưởng
của chúng mà hình thành một cái mà ta có thể gọi là “mốt” trong nhận thức thẩm mỹ. Và
trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi cho nhau các kinh nghiệm riêng về cuộc
sống và lao động, tác động vào ý chí và tình cảm của nhau nhằm mục đích tạo nên sự thống
nhất rộng lớn để giải quyết các vấn đề xã hội một cách có kết quả.
Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là một nhân cách
qua quá trình giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và thể lực của mình trong sự
thống nhất với người khác. Từ đó, có được tình đồng chí, bè bạn và sự giúp đỡ lẫn nhau,
lòng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu sự cô lập. Đặc biệt qua quá trình giao tiếp, con người
có được ấn tượng mới và thông tin mới, truyền thụ cho nhau những kinh nghiệm xã hội và
kinh nghiệm sống, tạo nên sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của mỗi cá nhân.
1.1.3. Chức năng của giao tiếp
1.1.3.1. Chức năng xã hội
Trong nhóm chức năng xã hội, trước hết chúng ta phải nhắc đến chức năng thông tin
của giao tiếp. Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh truyền thông (trao đổi thông
tin) của giao tiếp: Qua giao tiếp, con người trao đổi cho nhau những thông tin nhất định.
Những thông tin này sẽ có ý nghĩa về nhiều mặt như kiến thức, tâm lý, cảm xúc. Sự thiếu
thông tin sẽ làm cho con người cảm thấy lạc lõng và cô đơn, mất đi tính cộng đồng vốn có.
Trong xã hội, con người luôn hoạt động trong một hay nhiều tổ chức nhất định. Đó
có thể là gia đình,lớp học, trường học, công ty,… Và trong một tổ chức, một công việc
thường do nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực hiện. Để có thể hoàn thành công việc một
cách tốt đẹp, những bộ phận, những con người này phải thống nhất với nhau, tức là phối
hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy họ phải tiếp xúc với nhau để trao đổi, bàn
bạc, phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến quy trình, cách thức thực
hiện công việc và trong quá trình thực hiện cũng phải có những “tín hiệu” để mọi ngươi
hành động một cách thống nhất. Đây chính là chức năng tổ chức phối hợp hành động của
giao tiếp.
Chức năng điều khiển được thể hiện ở khía cạnh tác động ảnh hưởng qua lại của giao
tiếp. Trong giao tiếp, chúng ta ảnh hưởng, tác động đến người khác và ngược lại, người
khác cũng tác động, ảnh hưởng đến chúng ta bằng nhiều hình thức khác nhau như: Thuyết
phục, ám thị, bắt chước. Đây là một chức năng rất quan trọng của giao tiếp.
Trong xã hội, mỗi con người là một chiếc gương. Giao tiếp với họ chính là chúng ta
soi mình trong chiếc gương đó. Từ đó chúng ta thấy được những ưu điểm, những thiếu sót
của mình và tự sửa chữa, hoàn thiện bản thân. Chức năng phê bình và tự phê bình này có ý
nghĩa quan trọng trong việc phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới hiện nay của xã hội.
1.1.3.2. Chức năng tâm lý
Bên cạnh nhóm chức năng xã hội, giao tiếp còn mang những chức năng tâm lý nhất
định.
Chức năng động viên khích lệ của giao tiếp liên quan đến lĩnh vực cảm xúc trong đời
sống tâm lý của con người. Trong giao tiếp, con người còn khơi gợi ở nhau những cảm xúc,
tình cảm nhất định; chúng kích thích hành động của họ. Một lời khen chân tình được đưa ra
kịp thời, một sự quan tâm được thể hiện đúng lúc có thể làm người khác tự tin, cảm thấy
phải cố gắng làm việc tốt hơn.
Giao tiếp không chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con
người, mà còn là cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ mới, phát triển và củng
cố các mối quan hệ đã có. Tiếp xúc, gặp gỡ nhau – Đó là khởi đầu của các mối quan hệ.
Nhưng các mối quan hệ này có tiếp tục phát triển hay không, có trở nên bền chặt hay
không, điều này phụ thuộc nhiều vào quá trình giao tiếp sau đó.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta có những cảm xúc cần được bộc lộ. Những
niềm vui hay nỗi buồn, sung sướng hay đau khổ, lạc quan hay bi quan,… chúng ta muốn
được người khác cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp chúng ta mới tìm được sự đồng cảm,
cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của mình.
Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận thức được các
chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội, tức là những nguyên tắc ứng
xử: Chúng ta biết được cái gì tốt, cái gì xấu; cái gì đẹp, cái gì không đẹp; cái gì nên làm, cái
gì cần làm, cái gì không được làm và từ đó mà thể hiện thái độ, hành động cho phù hợp.
Những phẩm chất như khiêm tốn hay tự phụ, lễ phép hay hỗn láo, ý thức nghĩa vụ, tôn
trọng hay không tôn trọng người khác,… Đó chính là quá trình hình thành, phát triển tâm
lý, nhân cách của mỗi chúng ta.
Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của mỗi chúng
ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đủ các chức năng này thì
điều đó không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và hoạt động, mà còn để lại
những dấu ấn tiêu cực trong sự phát triển tâm lý nhân cách của mỗi chúng ta.
1.2. Các phương tiện giao tiếp
Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp khác
nhau. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện thái độ,
tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp.
Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng nhưng chúng ta có thể chia
chúng thành hai nhóm chính: Ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp
phi ngôn ngữ ít khi tách rời nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối quan hệ
tương đối gần gũi, thân thiết, giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn trong các mối
quan hệ ít nhiều có tính chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn ngữ.
1.2.1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn ngữ, con
người có thể truyền đi bất cứ một thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự
vật… Ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây:
- Nội dung ngôn ngữ:
Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai trò của ý cá nhân
của ngôn ngữ trong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều có một hay vài ý nghĩa nhất
định. Ý nghĩa của ngôn ngữ có hai hình thức tồn tại: Khách quan và chủ quan. Khách quan
bởi nó không phụ thuộc vào sở thích, ý muốn của một cá nhân nào. Chẳng hạn, không ai
dùng từ “cái túi” để chỉ “cái cây” và ngược lại. Tính chủ quan thể hiện ở chỗ, có những từ
vô thưởng vô phạt, nhưng trong qua trình sử dụng gây ra những phản ứng, những cảm xúc
tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây chính là ý cá nhân của ngôn ngữ. Ví dụ: từ “ma tuý” đối
với người nghiện hút thì không gợi lên cảm giác tiêu cực như ở những người bình thường.
Ngay trong một nhóm người, đôi khi cũng có những quy định riêng cho một số tập
hợp từ. Tiếng “lóng” là một ví dụ. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm người từ cộng đồng địa phương
đến đẳng cấp dân tộc đều có những sắc thái riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ. Hiểu được
ý cá nhân là cơ sở tạo nên sự đồng điệu trong giao tiếp, còn được gọi là sự đồng cảm.
- Tính chất của ngôn ngữ:
Trong giao tiếp, tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu…cũng
đóng vai trò quan trọng. Có người trông vẻ ngoài hình thức khá hoàn hảo khiến mọi người
thích thú, nhưng khi họ thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm cho ta cảm thấy thất
vọng ngay. Cũng có người nhờ tiếng nói ấm áp, dịu dàng, quyến rũ làm cho người nghe
cảm tình ngay, mặc dù dung mạo không lấy gì làm khả ái.
Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu. Lời nói có được rõ ràng,
khúc triết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng. Nhờ cách nhấn giọng người nói
có thể làm cho người nghe chú ý đến những lời nói của mình. Muốn nhấn giọng cho đúng
phải hiểu rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo từng lời một. Biết nhấn mạnh những lời
quan trọng và để những lời nói phụ lướt nhẹ đi.
Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu.
Trong lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn
từng tiếng thì lời nói mới nổi bật lên. Trước và sau khi nói ra những lời quan trọng phải
ngừng một lúc, để cho người nghe chú ý.
- Điệu bộ khi nói
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa
nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa nói vừa vuốt ve, âu yếm,… Thường điệu bộ phụ hoạ
theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải
phù hợp với phong tục, tập quán, nền văn hoá. Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu
nhất, đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người này hay người khác.
1.2.2. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp, chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ
nghe qua lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ chỉ
chiếm từ 30% - 40% , phần còn lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc giao tiếp không
lời qua vẻ mặt, động tác, dáng điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện phi
ngôn ngữ là hết sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn trong giao tiếp.
- Nét mặt:
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình
nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn,
ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít
nhiều về cá tính con ngươi. Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực
tính; người có nét mặt mềm mại ở vùng miệng thì hoà nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ
thích nghi trong giao tiếp.
Nhướn mày thường là dấu hiệu cho biết người ta không hiểu và muốn lặp lại thông
tin. Đôi khi nó chỉ sự không tin tưởng mấy. Nhăn trán, cau mày là dấu hiệu phổ biến của sự
lúng túng và sự lo lắng, và đôi khi là biểu hiện của sự giận dữ.
- Nụ cười:
Trong giao tiếp, người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình.
Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn, hồn nhiên,
đôn hậu, có cái cười chua chát, miễn cưỡng, đanh ác, có cái cười đồng tình, thông cảm
nhưng cũng có cái cười chế giễu, cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười biểu hiện một thái độ nào
đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao
tiếp để biết được lòng dạ của họ.
- Ánh mắt:
Dân gian có câu nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu
cho tất cả mọi nghiên cứu quan sát, tìm hiểu qua ánh mắt con người có thể nói lên nhiều
thứ. Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của
con người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hoá” câu chuyện, biểu hiện sự
chú ý, tôn trọng, sự đồng tình hoặc là phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào
vị trí xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn (hoặc tự cho mình là người có vai
trò cao hơn) thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói, lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế
thường có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện,
người nham hiểm đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi,…
- Các cử chỉ:
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,…), của bàn tay (vẫy,
chào, khua tay), của cánh tay,… Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp.
Thật vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay là lời
mời, sự từ chối, chống đối hay van xin,…
Người ta cũng có thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp, chẳng hạn như một
số vận động của tay và đầu có ý nhắc người đối thoại nói nhanh, chậm, dừng lại hay giải
thích thêm.
Mũi cũng là phương tiện truyền thông, bởi vì khi nhìn người khác với cái vẻ coi
khinh người ta thường nhìn xuống mũi của mình. Khi động tác này đi kèm với một cái hít
vào khinh khỉnh thì thái độ phủ nhận lại càng được gia tăng. Ngoài ra, lưỡi, cằm, cử chỉ của
bàn tay, vị trí của đôi chân, … cũng nói lên nhiều điều.
- Tư thế:
Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai
trò, vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức, nó bộc lộ cương vị xã hội
mà cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau là tư thế
của bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về phía trước, tựa hồ lắng nghe là tư thế
của người cấp dưới.
Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải mái
hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận gần gũi
cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hoà hợp.
- Diện mạo:
Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi được như tạng người (cao hay thấp, mập hay
ốm, mặt vuông hay dài, môi mỏng hay dày…), sắc da (trắng hay đen, xanh xao, vàng vọt
hay “ngăm ngăm” ), và những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, trang điểm, trang sức,
trang phục…
Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ, đàn ông cao ráo,
có vẻ khoẻ mạnh, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là người thấp bé hay gầy đét; một người “tốt
tướng” thường được mọi người tôn trọng từ cái nhìn đầu tiên. Cách trang sức, cách ăn mặc
cũng nói lên nhiều cá tính, văn hoá, nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi của một cá nhân.
- Những hành vi giao tiếp đặc biệt:
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay,… Những phương tiện
này gọi là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn,
không phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta người lớn xoa đầu trẻ con
chứ không được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: Bắt tay
mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin; còn cái bắt
tay ẻo lả, ướt át thuộc về con ngươi yếu đuối và đáng ngờ.
1.3. Một số kỹ năng giao tiếp cơ bản
Giao tiếp vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Muốn thành công trong giao
tiếp, chúng ta không chỉ cần nắm vững những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực này mà còn
phải biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn hoạt động giao tiếp của mình. Tức là
nắm vững kỹ năng và không ngừng trau dồi, rèn luyện để đạt đến mức nghệ thuật. Dưới đây
là một số kỹ năng cơ bản trong giao tiếp.
1.3.1. Kỹ năng lắng nghe
Trong quá trình giao tiếp, chúng ta vừa phải tác động lại vừa phải quan sát lắng nghe
“đối phương”. Việc lắng nghe người khác, nắm bắt, thông hiểu các thông tin để có thái độ,
hành vi tương xứng là điều rất có ý nghĩa trong giao tiếp. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét
rằng, trong cuộc sống, mỗi ngày làm việc, ít ra là chúng ta phải dùng nửa thời gian để lắng
nghe và xử lý thông tin trên cơ sở đó mà chúng ta có những tác động phản hồi đối với mọi
người.
Hình 1.1. Biểu đồ thời lượng sử dụng các kỹ năng
1.3.1.1. Để có thể lắng nghe tốt
Trong quan hệ giao tiếp, việc lắng nghe tích cực thường diễn ra khi ta thật sự quan
tâm đến vấn đề nào đó và vì thế, tất nhiên khi có quan hệ, tác động ta hướng tất cả sự chú ý
vào vấn đề. Tuy nhiên có những trường hợp ngược lại: Do công việc yêu cầu, do thái độ
ứng xử đối nghịch của đối phương gây cho chúng ta sự ức chế về mặt tâm lý, đòi hỏi sự tự
kiềm chế khá căng thẳng.
Để có thể vượt qua tình thế như vậy và có thể lắng nghe có hiệu quả cần tự điều
chỉnh để tự thích ứng với tình hình, và hình thành được thái độ sau:
Thái độ tự thấu cảm: Ta tự đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người nói, thử đặt
mình vào tình cảnh như vậy, từ đó mà tạo ra sự thấu hiểu thông điệp cả từ hai phía: Phía
công khai và những gì tiềm ẩn bên trong các thông điệp đó. Trong phần lớn trường hợp
người truyền thông tin thường có mong muốn ta thấu hiểu họ một cách đầy đủ cả hai khía
cạnh ấy, nhất là ở phía “ý tại ngôn ngoại”, tiềm ẩn bên trong.
Sự tập trung, chú ý vào nội dung thông tin với thái độ khách quan là không thể thiếu.
Cần hết sức chăm chú nắm bắt thông tin, sẵn sàng phản hồi bằng ngôn ngữ, bằng tín hiệu,
bằng biểu cảm (thái độ) ví dụ như: Gật gù tỏ vẻ hiểu, hưởng ứng, mỉm cười tán đồng. Tất
nhiên để bộc lộ thái độ khách quan như vậy, ta phải hết sức tự kiềm chế, kiên nhẫn với thái
độ tự tin để duy trì sự giao lưu, tiếp xúc diễn ra một cách thuận lợi. Đôi lúc có thể kiểm tra
ngược lại hoặc để tâm xem lại những điều mình đã nắm được, ta có thể xen kẽ bằng những
câu nhắc lại những gợi ý khéo như: “Theo anh nên hiểu vấn đề ấy như thế nào?” hoặc gợi
mở thêm sự giao lưu được tiếp tục kiểu như “Hình như anh cũng cảm thấy khó xử…” thậm
chí có thể tỏ thái độ trung lập với những gợi ý vô thưởng vô phạt như “Tôi hiểu anh trong
trường hợp này…”. Tác dụng của những câu đưa đẩy ấy sẽ duy trì được sự giao lưu, tiếp
xúc và nếu có dụng ý ta sẽ gián tiếp hiểu được thái độ đích thực của đối tượng giao tiếp.
1.3.1.2. Những trở ngại trong việc lắng nghe
Có nhiều trở ngại khiến cho chất lượng lắng nghe người khác nói không phải lúc
nào cũng như nhau, do nhiều nguyên nhân rất dễ sa vào tình trạng chất lượng kém với các
mức độ khác nhau như: Do không tập trung chú ý nên chẳng nắm được nội dung, nghe lõm
bõm, chỉ thông hiểu một phần, nghe nhưng nắm thông tin không chính xác, nghe rồi nhưng
không có chủ định và quên mất thông tin,….
Trước hết phải nói đến trở ngại về mặt tâm lý – Ví dụ như tốc độ suy nghĩ, chúng ta
có thể nghe với tốc độ nhanh nhưng người nói lại rề rà, quá chậm. Do vậy có những khoảng
trống, khiến ta dễ liên tưởng, dễ suy nghĩ lan man về các vấn đề khác. Hơn thế nữa, trong
trường hợp tâm trạng chúng ta xao động, ta mải chú ý vấn đề khác, nếu người nói lại không
“tâm lý” dễ dẫn ta đến trạng thái suy nghĩ lan man. Có thể xem trở ngại tâm lý là trở ngại
quan trọng nhất, làm giảm hiệu quả của sự lắng nghe.
Cùng với tốc độ suy nghĩ, việc phân tán chú ý còn do nội dung thông tin quá khó, ta
không thể hiểu rõ và cũng không thể không nắm bắt được thực chất của thông tin, cảm thấy
căng thẳng do vậy không tập trung được chú ý.
Cũng có thể do thiếu kiến thức, đôi khi trong trao đổi, một bên cứ nói và một bên cứ
lảng đi, không chịu “nghe”. Như vậy là trong giao tiếp, sự hiểu biết về đối tượng: Cá tính,
trình độ học vấn, kinh nghiệm xử thế,…thì chắc chắn sẽ gặp ít trở ngại hơn.
Về mặt cá tính, một số người có tính thiếu kiên nhẫn trong giao tiếp – Thái độ này sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giao lưu, tiếp xúc. Với tâm trạng như vậy, chúng ta nói
vào tai này thì thông tin sẽ trượt ra tai khác, vô hiệu quả.
Thực tế chứng tỏ rằng đôi khi thái độ thờ ơ, tiêu cực trong giao tiếp nảy sinh ra do
định kiến, thành kiến và nhân cách của ai đó; thái độ gây nên trạng thái ức chế, cản trở sự
trao đổi thông tin, nghĩa là không chịu tiếp nhận, trao đổi các thông tin.
1.3.2. Kỹ năng đặt câu hỏi
Thu thập thông tin từ người khác là một kỹ năng khá quan trọng trong giao tiếp. Có
nhiều thông tin chúng ta cần được chứa đựng trong não bộ của người khác. Có lúc chính họ
tự nguyện, tự giác cho ta tin tức, nhưng đa số trường hợp chúng ta phải khai thác nó bằng
các câu hỏi khác nhau. Muốn khai thác thông tin có hiệu quả chúng ta cần thực hiện nó một
cách có bài bản.
Muốn khuyến khích việc cung cấp tin, bạn phải làm sao cho việc ấy trở thành niềm
vui thú đối với người khác. Hãy sử dụng nghệ thuật lắng nghe để tạo hứng thú ở đối tượng
cung cấp thông tin.
Khi muốn khai thác thông tin, bạn hãy bắt đầu bằng một câu hỏi dễ. Những câu hỏi
dễ sẽ giúp người khác có cơ hội trả lời đúng một cách dễ dàng. Chúng làm cho đối tượng
thoải mái, bớt căng thẳng và tự tin hơn. Nói chung, trước hết cần phải làm nóng cuộc nói
chuyện để khi người đối thoại thấy được sức cuốn hút thì anh ta sẽ say sưa trút bầu tâm sự.
Sau khi đã làm cho người khác cảm thấy thoải mái, bạn cần biết đặt những câu hỏi
để có được những tin tức đầy đủ và chính xác. Có rất nhiều loại câu hỏi để bạn có thể sử
dụng, tuỳ vào từng hoàn cảnh và dụng ý sử dụng.
- Câu hỏi hẹp:
Đó là những câu hỏi nhằm thu hẹp vấn đề để tranh thủ những thông tin chính xác,
ngắn gọn. Ví dụ: “Ai thực hiện việc này?”, “Tên anh là gì?”. Những câu hỏi hẹp có ích khi
bạn cần những dữ kiện rõ ràng, thẳng thắn. Hầu hết các cuộc gặp gỡ đều có những câu hỏi
hẹp ở một thời điểm nào đó.
- Câu hỏi trực tiếp:
Tức là hỏi thẳng vào vấn đề mà mình cần tìm hiểu. Loại này có ưu điểm là thu thập
thông tin một cách nhanh chóng và thường tạo ra yếu tố bất ngờ ở đối tượng. Hỏi trực tiếp
thường để lộ mục đích tìm hiểu, làm cho đối tượng không được tự nhiên.
- Câu hỏi gián tiếp:
Tức hỏi về một vấn đề này để suy ra vấn đề mình cần tìm hiểu. Loại câu hỏi này
thường dùng để khai thác những yếu tố tế nhị mà không thể hỏi trực tiếp.
- Câu hỏi gợi mở:
Là loại câu hỏi mà không thể trả lời có hoặc không được, chúng đòi hỏi phải có lời
giải thích tại sao. Nhờ câu hỏi này mà chúng ta bước vào một giai đoạn mới của cuộc đàm
phán độc thoại chuyển thành đối thoại. Loại câu hỏi này làm dễ dàng cho người đối thoại.
Mục đích của loại câu hỏi này chủ yếu là thu thập thông tin sâu hơn mà câu hỏi hẹp không
làm được.
- Câu hỏi để suy nghĩ:
Mục đích của câu hỏi này nhằm xây dựng bầu không khí thân thiện, hiểu biết lẫn
nhau. Chúng đặc biệt có lợi khi nhắc lại một phần các ý kiến đã phát biểu. Câu hỏi này sẽ
tạo điều kiện cho đối tác cải chính, bổ sung vấn đề đã được trình bày.
1.3.3. Kỹ năng thuyết phục
Để giải quyết tốt một công việc nào đó, chúng ta thường cần sự giúp đỡ, hợp tác của
người khác. Điều này đòi hỏi giữa chúng ta và họ phải có sự thống nhất về quan điểm, lập
trường, về cách giải quyết công việc. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta thường gặp trường
hợp, trong đó người khác không cùng chung ý kiến, quan điểm với chúng ta. Trong trường
hợp này, việc chúng ta có đạt được mục đích hay không phụ thuộc vào khả năng thuyết
phục của chúng ta. Thuyết phục chính là đưa ra tình tiết, sự kiện, phân tích, giải thích làm
cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, mà làm theo.
1.3.3.1. Những điểm cần chú ý khi thuyết phục
Thuyết phục người khác là một công việc không hề đơn giản, bởi một lẽ thường tình
là bất kỳ ai, khi đã có ý kiến về một vấn đề nào đó, cũng có niềm tin nhất định vào mình và
không muốn tiếp thu ý kiến của người khác. Hơn nữa không phải ai cũng biết cách thuyết
phục người khác. Để thuyết phục có hiệu quả chúng ta cần chú ý một số điểm sau đây:
Bầu không khí bình đẳng là điều kiện đầu tiên để có thể thành công trong thuyết
phục, bởi vì nó làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái, được tôn trọng, làm giảm sự đề
phòng, phản kháng của họ.
Thông thường người đối thoại luôn muốn bảo vệ ý kiến của mình, không muốn tiếp
thu ý kiến của người khác. Muốn thuyết phục họ, trước hết phải tôn trọng và lắng nghe họ.
Đến một lúc nào đó sẽ xuất hiện chỗ hở trong quan điểm của người đối thoại vì thiếu thông
tin, vì cân nhắc chưa thấu đáo. Lúc này họ sẽ cảm thấy thiếu tự tin và muốn nghe ý kiến.
Đây chính là lúc để thuyết phục.
Khi trình bày ý kiến cần lưu ý: Lý lẽ đưa ra phải rõ ràng và có cơ sở; lời nói phải
ngắn gọn và có trọng tâm, không nên dài dòng tràn lan, phải nhã nhặn, ôn tồn, lịch sự; ngôn
ngữ và cách lập luận phải phù hợp với trình độ nhận thức của người đối thoại; biết thừa
nhận những điểm có lý trong ý kiến của người đối thoại; cần tác động đến cả nhận thức,
tình cảm và ý chí của người đối thoại.
1.3.3.2. Quy trình thuyết phục
Từ sự phân tích trên, ta có thể đưa ra một quy trình thuyết phục bao gồm các bước
cơ bản:
Trước hết hãy tạo một không khí bình đẳng, thân thiện gây thoải mái cho người đối
thoại. Đây là một bước quan trọng, ảnh hưởng khá nhiều đến kết quả thuyết phục. Sau khi
đã tạo được một không khí cởi mở nhất định, chúng ta cần tìm hiểu, lắng nghe để hiểu tâm
lý người đối thoại. Muốn thuyết phục ai đó về một vấn đề nào đó. Trước hết hãy tìm hiểu
quan điểm cá nhân của họ về vấn đề, những vướng mắc, bận tâm khiến họ lo ngại, từ chối.
Chúng ta không thể đưa ra cách giải cho một bài toán khi chưa biết đề bài. Hãy vận dụng
hết khả năng lắng nghe trong bước này.
Bất kỳ ai cũng đều mong muốn có được sự đồng cảm, chia sẻ của người khác với
những ý kiến, lo lắng của mình. Hãy chứng tỏ sự cảm thông với những vướng mắc đó, coi
vướng mắc của người đối thoại cũng chính là vướng mắc của người thuyết phục.
Và cuối cùng, khi đứng trên quan điểm của người đối thoại đồng thời trên quan điểm
của người đưa ra được cách giải quyết những vướng mắc ấy, chúng ta cần dùng lý lẽ để giải
tỏa lo ngại và bận tâm của người đối thoại.
1.3.4. Kỹ năng thuyết trình
Trong cuộc sống, có những khi đối tượng chúng ta cần trình bày quan điểm, suy nghĩ
về vấn đề nào đó, không chỉ là một hay hai người, mà có thể là mười người, hai mươi
người, một trăm người, hay hơn thế nữa. Đó chính là lúc chúng ta thực hiện một bài thuyết
trình. Thuyết trình hay còn gọi là diễn thuyết, là nói chuyện trước nhiều người về một vấn
đề nào đó một cách có hệ thống.
1.3.4.1. Các bước thuyết trình
Một bài thuyết trình thành công bao giờ cũng đi qua ba bước: Chuẩn bị thuyết trình,
tiến hành thuyết trình và kết thúc thuyết trình.
- Chuẩn bị thuyết trình
Bất kỳ một nhà diễn thuyết chuyên nghiệp nào cũng có lúc lúng túng, e ngại, căng
thẳng. Để có thể đường hoàng, tự tin, chúng ta và cả những nhà diễn thuyết chuyên nghiệp
cũng đều phải có sự chuẩn bị chu đáo cho buổi nói chuyện của mình.
Khi được mời thuyết trình về một vấn đề nào đó, chúng ta cần cân nhắc hai vấn đề. Đó là:
Chúng ta có am hiểu vấn đề, có đủ thông tin để trình bày hay không? Con người và cương
vị của người nói có được người nghe chấp thuận hay không? Nói cách khác, tầm quan trọng
của vấn đề phải ngang tầm với người diễn thuyết, nếu không người nghe sẽ thiếu tin tưởng.
Bài nói chuyện phải được xây dựng xung quanh người nghe, lấy người nghe làm
trung tâm. Cùng một vấn đề nhưng nói cho những đối tượng khác nhau thì cách xây dựng
bài nói cũng khác nhau. Chẳng hạn, cùng một vấn đề thời sự nhưng nói cho sinh viên khác
với nói cho giáo viên. Vì vậy, người thuyết trình cần tìm hiểu người nghe là ai, giới tính,
tuổi tác, nghề nghiệp, tín ngưỡng…để chuẩn bị bài nói chuyện cho phù hợp.
Bài diễn thuyết cần được chuẩn bị một cách chu đáo. Người diễn thuyết có thể thảo
sẵn nội dung diễn thuyết ra giấy hoặc chí ít cũng phải lập một đề cương chi tiết các ý cần
phải trình bày và những dẫn chứng, những số liệu để minh hoạ. Không nên quá tin tưởng
vào trí nhớ. Nếu lần đầu diễn thuyết thì cần tập dượt trước . Sự chuẩn bị tốt luôn làm người
diễn thuyết tự tin trong quá trình nói chuyện.
- Tiến hành thuyết trình
Khi tiến hành thuyết trình, điều quan trọng nhất của người diễn thuyết là kiểm soát
được nội dung mà mình đang trình bày. Tránh tình trạng, vì một vài câu hỏi hay một vài
yếu tố khách quan dẫn đến quên mất trình tự hay quên mất nội dung định trình bày. Để có
được một bài thuyết trình hay, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là khả năng dẫn dắt
vấn đề, khả năng gây thiện cảm, khả năng xử lý tình huống của người thuyết trình.
- Kết thúc thuyết trình
Người thuyết trình cần biết kết thúc đúng lúc. Khi người nói đã dùng đến cụm từ
“cuối cùng là…” thì có nghĩa chỉ còn vài phút nữa thôi. Nếu sau đó, người nói vẫn còn
muốn nói tiếp thì người nghe sẽ cảm thấy rất ức chế. Sau khi tóm tắt những ý then chốt của
bài nói chuyện và tuỳ theo tính chất của bài nói chuyện mà đưa ra lời kêu gọi, lời chúc
mừng, cần nhớ cảm ơn thính giả đã chú ý lắng nghe. Trong trường hợp cần thiết, cần dành
một ít thời gian để giải đáp những ý kiến, những thắc mắc của người nghe.
1.3.4.2. Một số điểm cần lưu ý với người thuyết trình
Ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng có một vị trí nhất định trong sự thành công của bài
thuyết trình. Để có được những ấn tượng tốt đẹp ấy, người thuyết trình cần chú ý một số
điểm sau:
Trước hết người thuyết trình phải ăn mặc nghiêm túc, lịch sự, phù hợp với tính chất
của buổi thuyết trình. Tránh những bộ quần áo cầu kỳ, kiểu cách, xa lạ với người nghe.
Quần áo phù hợp sẽ làm cho người thuyết trình thêm tự tin. Bên cạnh đó, dáng đi chững
chạc cũng thể hiện sự đường hoàng, tự tin của người thuyết trình, không nên đi quá nhanh
nhưng cũng đừng chậm chạp, ung dung, thong thả quá. Khi bước ra chào, cần tiếp xúc bằng
mắt và mỉm cười với người nghe.
Khi đứng trên bục, người thuyết trình cần đứng thẳng người với tư thế tự nhiên,
không bỏ tay túi quần, mắt nhìn thẳng xuống người nghe, ánh mắt nhẹ nhàng, tôn trọng và
quan tâm. Trước khi nói chuyện, cần tự giới thiệu về bản thân, những lời giới thiệu này nên
ngắn gọn, không rườm rà, dài dòng.
Khi nói, giọng nói cần to, rõ ràng đủ cho người ngồi xa nhất cũng có thể nghe thấy.
Thêm vào đó, cần thay đổi tốc độ nói, nhịp độ nói: Khi lên, khi xuống, khi trầm, khi bổng,
khi nhanh, khi chậm, khi lướt qua, khi nhấn mạnh, tuỳ thuộc vào nội dung trình bày. Trong
quá trình trình bày, thường xuyên đưa mắt xuống người nghe, bao quát tất cả những người
có mặt trong phòng, đừng để ai đó có cảm giác bị “bỏ rơi”.
Ngoài ánh mắt, người thuyết trình cần chú ý sử dụng cả phương tiện phi ngôn ngữ
khác như nét mặt, cử chỉ, động tác. Tuy nhiên, cần sử dụng chúng một cách tự nhiên, hợp
lý. Người diễn thuyết có thể đi lại trong khi nói chuyện, song không nên rời khỏi tầm nhìn
của một nhóm người nghe nào đó quá lâu. Chẳng hạn, trong khi giảng bài, có những giáo
viên đi xuống cuối lớp và dừng lại ở đó trong một khoảng thời gian. Trong trường hợp này,
những học sinh ngồi ở dãy bàn đầu dễ phân tán chú ý và sẽ khó tiếp thu bài giảng hơn.
1.3.5. Kỹ năng đọc và tóm tắt văn bản
1.3.5.1. Kỹ năng đọc
Đọc là hoạt động nhận thức có từ lâu đời, nó xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước công
nguyên. Đọc là một kỹ năng. Để đọc có hiệu quả, chúng ta cần được dạy cách đọc và không
ngừng rèn luyện để biến kỹ năng thành kỹ xảo. Để đọc có hiệu quả, cần chú ý một vài khía
cạnh sau:
Khi đọc một đoạn văn bản, chúng ta cần nắm được thông tin chứa đựng trong đó.
Trở ngại lớn nhất cho sự lĩnh hội là khi đọc, người đọc không được tiếp xúc trực tiếp với
người viết. Vì vậy, điểu cốt lõi khi đọc là người đọc phải thực hiện một cuộc đối thoại trong
tưởng tượng với người viết, tức là phải tập trung tư tưởng cao độ đặt câu hỏi, phân tích, và
tự tìm lời giải đáp cho những câu hỏi đó. Đó là đọc tích cực.
Tốc độ đọc cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đọc. Các kết quả nghiên cứu cho
thấy, tốc độ đọc trung bình vào khoảng 250 từ/1 phút. Bí quyết để đọc có hiệu quả là chọn
tốc độ đọc phù hợp với tài liệu. Không nên đọc nhanh với bất kỳ tài liệu nào, cũng đừng
bận tâm đọc kỹ mọi thứ. Để có thể quyết định có nên đọc một tài liệu nào đó hay không,
hoặc đọc phần nào, tốc độ nào, người đọc có thể sử dụng phương pháp khảo sát, phân tích
và đọc với tốc độ phù hợp. Khi khảo sát, người đọc chỉ cần đọc phần đầu, phần cuối và lướt
qua bố cục. Điều này giúp người đọc nắm bắt được cấu trúc tổng quát và những điểm chính
của văn bản. Từ đó, mà quyết định văn bản có đáng đọc hay không và đọc với tốc độ nào.
Tóm lại, đọc là một kỹ năng quan trọng trong giao tiếp gián tiếp. Nó giúp chúng ta
thu thập được nhiều thông tin có chiều sâu trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.
1.3.5.2. Kỹ năng tóm tắt văn bản
Tóm tắt văn bản là trình bày lại nội dung của văn bản, có loại bỏ những thông tin
không cần thiết theo mục đích đã định. Như vậy, văn bản tóm tắt bao giờ cũng ngắn gọn
hơn văn bản gốc. Trong tóm tắt văn bản, việc lựa chọn thông tin nào để đưa vào văn bản
tóm tắt phụ thuộc vào mục đích và yêu cầu của người tóm tắt.
Khi tóm tắt văn bản, cần loại bỏ hết những thông tin không cần thiết đối với mục
đích tóm tắt, diễn đạt lại nội dung văn bản bằng cách vắn tắt và súc tích nhất nhưng vẫn
phản ánh trung thực nội dung của văn bản gốc. Điều khác biệt giữa văn bản tóm tắt và văn
bản gốc là người tóm tắt phải diễn đạt lại văn bản gốc theo ý của mình, hạn chế đến mức
thấp nhất việc sử dụng lại các câu, các đoạn của văn bản gốc.
Nói chung, văn bản tóm tắt dài bao nhiêu là phụ thuộc vào văn bản gốc và mục đích
và mục đích tóm tắt của chúng ta. Cũng có những trường hợp cả một bài văn dài, chỉ được
tóm tắt bằng một câu. Ví dụ, khi giới thiệu bộ sử thi Ramayana của Ấn Độ thời cổ đại, tác
giả Cao Huy Đỉnh viết: “Ramayana chủ yếu mô tả cuộc tình duyên trắc trở và mối tình
chung thuỷ của hoàng tử Rama và nàng Xita”.
1.4. Các tình huống giao tiếp đặc trưng
Con người sống trong một xã hội với rất nhiều mối quan hệ giao tiếp phức tạp. Các
tình huống giao tiếp diễn ra hàng ngày với mỗi người cũng vô cùng phong phú. Để tìm hiểu
một cách chung nhất, ta có thể xem xét các tình huống giao tiếp nảy sinh trong ba môi
trường: Gia đình, nhà trường và xã hội.
1.4.1. Tình huống giao tiếp trong gia đình
Gia đình xét trên quan điểm của tâm lý học là một tập thể nhỏ, trong đó mọi người
quan tâm đến nhau, chú ý đến những nhu cầu, hứng thú của nhau. Giao tiếp trong gia đình
là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển nhân cách của mỗi con người.
Không khí tươi vui, lành mạnh trong gia đình là một “tiểu khí hậu” thuận lợi cho sự
phát triển đầu đời của mỗi chúng ta. Trong một gia đình đầm ấm, yêu thương thì ngay từ
những ngày đầu tiên, con trẻ đã được phát triển dưới ảnh hưởng của sự giao tiếp thường
xuyên với cha mẹ, ông bà, anh chị em. Sự giao tiếp thường xuyên và tích cực này không chỉ
gắn kết các thành viên trong gia đình lại với nhau, mà còn xây dựng một nền tảng vững
chắc cho việc hình thành kỹ năng giao tiếp sau này của trẻ.
Mỗi một cá nhân sống trong gia đình đều có vị trí nhất định, họ mang trên mình
nhiều chức danh. Ví dụ: Người phụ nữ trong gia đình có thể là vừa là người vợ, người mẹ,
người con, người em,… Với mỗi một chức danh họ lại có những tiêu chuẩn đạo đức, văn
hoá, cách giao tiếp khác nhau. Làm sao đảm bảo trong gia đình có đầy đủ lễ nghĩa, có trên
có dưới để trở thành một gia đình văn hoá.
Thời gian sống trong gia đình của mỗi con người là rất lớn, vì vậy mà thời gian giao
tiếp cũng như các tình huống giao tiếp xảy ra trong gia đình cũng vô cùng phong phú và
khá phức tạp. “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, mỗi gia đình đều có những truyền
thống, những đặc điểm riêng, vì vậy mà những tình huống phát sinh trong các gia đình khác
nhau là khác nhau.
Tình huống giao tiếp trong gia đình nảy sinh do nhiều nguyên nhân như: Truyền
thống đạo đức, khác biệt giữa các thế hệ, bất đồng về tính cách giữa các thành viên,…
Những tình huống này có khi chỉ là tình huống giao tiếp xã giao thông thường như: Mời,
chào, hỏi,… Nhưng có khi nó lại là những tình huống giao tiếp có mâu thuẫn nảy sinh mà
muốn giải quyết được, các thành viên trong gia đình phải có những kỹ năng giao tiếp và xử
lý tình huống nhất định.
Xử lý tốt các tình huống giao tiếp nảy sinh trong gia đình sẽ mang đến không khí yên
vui, hạnh phúc. Góp phần làm nền tảng tinh thần và vật chất của mỗi thành viên thêm vững
chắc.
1.4.2. Tình huống giao tiếp trong nhà trường
Sau gia đình, nhà trường được xem như môi trường giao tiếp quan trọng thứ hai, bởi
lẽ nhà trường không chỉ là nơi đào tạo, giáo dục con người về tri thức, nhân cách mà còn là
nơi thiết lập những mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi người đó là tình thầy
trò, tình bạn.
Môi trường giao tiếp trong nhà trường là lớp học. Trong đó, đối tượng giao tiếp là
thầy cô, bạn bè, sách vở. Khác với gia đình, cá nhân trong nhà trường không có quan hệ về
huyết thống và đặc điểm giao tiếp trong môi trường này cũng có những sắc thái riêng, đó là
“Kính thầy, yêu bạn”. Cũng chính từ sắc thái riêng này mà chúng ta có thể phân chia các
tình huống giao tiếp trong nhà trường thành hai mảng đó là: Tình huống giao tiếp giữa thầy
giáo - Học sinh và tình huống giao tiếp giữa người học với người học.
Để xử lý tốt cả hai mảng tình huống trên, trước hết, chúng ta cần thể hiện sự khéo
léo, tế nhị, linh hoạt của bản thân sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau, đồng thời
phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản giữa các mối quan hệ. Những nguyên tắc cơ bản đó