Tiểu luân
QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ SỰ VẬN DỤNG
QUY LUẬT NÀY TRONG ĐIỀU TIẾT LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên với tình cảm sâu sắc và chân thành nhất, cho phép chúng em được bày
tỏ lòng biết ơn đến tất cả các thầy cô và bạn bè đã hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình
học tập và hồn thành bài tiểu luận này. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại
trường đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của Thầy và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy - người đã truyền đạt vốn
kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường. Nhờ có những
lời hướng dẫn, dạy bảo của thầy nên bài tiểu luận cuối kỳ của chúng em mới có thể hoàn
thành tốt đẹp.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy - người đã trực tiếp giúp đỡ, quan
tâm, hướng dẫn em hoàn thành tốt tiểu luận này trong thời gian qua.
Trong q trình làm khó tránh khỏi sai sót, rất mong thầy sẽ bỏ qua. Đồng thời do
kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài tiểu luận khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy để học thêm được nhiều kinh
nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn để làm hành trang cho tương lai. Chúng em xin gửi tới
mọi người lời chúc thành công trên con đường sự nghiệp của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy!
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................................... 1
2. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................................. 1
3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................................... 1
4. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................................ 2
6. Bố cục bài tiểu luận..................................................................................................................... 2
PHẦN II: NỘI DUNG ................................................................................................................ 2
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ............................. 2
1.1. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ ............................................................... 2
1.1.1. Nguồn gốc ............................................................................................................ 2
1.1.2. Bản chất:............................................................................................................... 4
1.1.3. Chức Năng ........................................................................................................... 5
1.2. Quy luật lưu thông tiền tệ ............................................................................................... 9
1.2.1. Nội dung ............................................................................................................... 9
1.2.2. Vai trò ................................................................................................................ 11
1.3. Lạm phát: ..................................................................................................................... 11
1.3.1. Khái niệm: .......................................................................................................... 11
1.3.2. Phân loại:............................................................................................................ 12
Chương II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM .................................................... 14
2.1. Giai đoạn 2005-2020 .................................................................................................... 14
2.2. Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ trong điều tiết lạm phát ở Việt Nam hiện nay .... 17
2.3. Giải pháp khắc phục lạm phát: ..................................................................................... 17
2.3.1. Những biện pháp tình thế ................................................................................... 17
2.3.2. Những biện pháp chiến lược .............................................................................. 18
2.3.3. Một số biện pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay ................ 19
PHẦN III: KẾT LUẬN ............................................................................................................ 20
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiền tệ là hình thức biểu hiện giá trị của hàng hóa, phục vụ cho sự lưu thơng hàng
hóa. Vì vậy ta thấy được việc lưu thông tiền tệ do lưu thông hàng hóa quyết định. Lịch
sử cho ta thấy q trình trao đổi giữa hàng hóa và tiền tệ là một q trình diễn ra rất tất
yếu của xã hội lồi người. Nó đóng vai trị quan trọng giúp đồng tiền sinh lời và là phương
tiện trao đổi hàng hóa thúc đẩy phát triển kinh tế. Tiền tệ hàng hóa khơng thể tách rời
nhau, nói cách khác quy luật lưu thơng tiền tệ phụ thuộc vào sự phát triển hay những
biến động nền kinh tế thị trường. Đi chung với vấn đề lưu thông tiền tệ ta thấy rõ được
vấn đề liên quan tới lạm phát, một trong những vấn đề cần quan tâm hàng đầu của các
chính phủ. Hiện tượng lạm phát là một căn bệnh cố hữu của mọi nền kinh tế, bởi vì lạm
phát ln ln là kết quả của sự tác động tổng hợp của các yếu tố kinh tế khác nhau, và
thường thì rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu nên chống lạm phát rất khó khăn.
Vấn đề này ngày càng được chính phủ quan tâm, từ đó có những chiến lược lâu dài đẩy
mạnh phát triển kinh tế, đẩy lùi lạm phát tới mức thấp nhất.
Để hiểu rõ được những vấn đề trên nhóm học viên đã chọn đề tài tiểu luận “quy
luật lưu thông tiền tệ và sự vận quy luật lưu thông tiền tệ trong điều tiết lạm phát ở Việt
Nam” để hiểu rõ hơn về vấn đề này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quy luật lưu thông tiền tệ và sự vận
quy luật lưu thông tiền tệ trong điều tiết lạm phát ở Việt Nam. Trong đó nghiên cứu về
nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ và đồng thời cho ta thấy được tình lạm pháp
hiện nay của Việt Nam để đưa ra những nguyên nhân và những giải pháp khắc phục.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nắm vững những kiến thức cơ bản, chức năng và đối tượng nghiên cứu của Kinh
tế chính trị Mác-Lênin. Qua đó vận dụng được những lý luận cơ bản vào thực tiễn xã
hội, góp phần phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.
1
4. Phạm vi nghiên cứu
Xoay quanh nội dung bố cục bài tiểu luận, tìm hiểu vai trị của tiền tệ và vấn đề
lạm phát.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê, tổng hợp
- Phương pháp phân tích, đánh giá
6. Bố cục bài tiểu luận
Đề tài được trình bày với nội dung gồm 2 ý chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quy luật lưu thông tiền tệ.
- Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.
- Quy luật lưu thông tiền tệ.
Chương 2: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam.
- Tình hình lạm phát từ năm 1990 đến hiện tại.
- Ổn định tiền tệ.
- Giải pháp khắc phục lạm phát
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ
1.1. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ
1.1.1. Nguồn gốc
Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã làm xuất hiện các mặt hàng
tương đương chung. Tương đương thông thường là hàng hố có thể trao đổi trực tiếp lấy
nhiều hàng hố thơng thường khác. Đó là: có giá trị, thực tế, quý hiếm, dễ bảo quản và
vận chuyển, và có tính chất địa phương.
Thời kỳ đầu, hàng hóa tương đương thường là hàng hóa có giá trị sử dụng thiết
thực cho từng khu vực hoặc nhiều vùng có điều kiện tự nhiên, tập quán xã hội tương
2
đồng. Sau đó, những thứ tương đương thơng thường được chọn làm hàng hóa có ý nghĩa
tượng trưng như vỏ sị, da thú, vịng đá, …Khi trao đổi hàng hóa trở thành nhu cầu thường
xuyên của các bộ lạc và các dân tộc thì hàng hóa ngang giá nói chung được gắn với kim
loại.
Các kim loại được dùng làm vật ngang giá chung đầu tiên là sắt và kẽm. Sau đó
là đồng và sau đó là bạc. Vào đầu thế kỷ XIX, vàng bắt đầu hoạt động như một vật tương
đương phổ quát, và kim loại này được gọi là "kim loại tiền tệ".
Khi một khối vàng có trọng lượng và chất lượng nhất định được tạo thành hình
dạng nhất định thì được gọi là tiền.
Do đó, khi vàng độc chiếm vị trí của vật tương đương phổ thơng, thì cái tên “vật
tương đương phổ thông” đã được thay thế bằng “tiền tệ”. Nói cách khác, đây là hình thái
giá trị hàng hóa bằng tiền. Từ những giá trị tương đương thơng thường của hàng hố
thơng thường thành tiền, sản xuất và trao đổi hàng hố đã có lịch sử lâu đời. Trong quá
trình này, vật tương đương chung đã tự loại trừ nhau: vật tương đương của hàng hoá
chung, có giá trị thấp và có tính chất sử dụng, được thay thế bằng vật tương đương chúng
có giá trị cao hơn và sự hoàn thiện dần của vật ngang giá chung được đánh dấu bằng sự
xuất hiện tiền đầu thế kỷ XIX, không chỉ phản ánh số lượng và chủng loại hàng hóa đưa
ra thị trường ngày càng phong phú, mà cịn phản ánh trình độ sản xuất hàng hố có bước
phát triển vượt bậc so với trước đây.
Vàng độc chiếm vai trị vật ngang giá chung, nhìn bên ngồi như một q trình
hồn tồn mang tính ngẫu nhiên. Nhưng trái lại, tiền tệ là sản phẩm và đánh giá cơng
bằng về mặt khoa học thì tiền tệ là một trong ba phát minh quan trọng nhất của xã hội
loài người từ lịch sử cổ đại cho đến ngày nay.
Khi vàng đóng vai trị vật ngang giá chung thế giới hàng hoá được chia thành hai
cực rõ rệt: một phía là những hàng hố thơng thường, trực tiếp biểu hiện giá trị sử dụng
và mỗi hàng hóa chỉ có thể thỏa mãn được một và một vài nhu cầu nào đó của con người.
Cịn phía bên kia – cực đối lập là vàng – tiền tệ, trực tiếp biểu hiện giá trị của mọi hàng
3
hóa khác. Vì tiền có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hóa trong bất kì điều kiện
nào, cho nên tiền có thể thỏa mãn được nhiều nhu cầu của người sở hữu nó. Chính vì thế
– tiền tệ được coi là một loại hàng hoá đặc biệt.
1.1.2. Bản chất:
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, đóng vai trị vật ngang giá chung để đo giá
trị của tất cả các hàng hố khác. Tiền có thể thỏa mãn được một số nhu cầu của người sở
hữu nó, tương ứng với một số lượng giá trị mà người đó tích luỹ được.
Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ
là một phạm trù kinh tế – lịch sử, là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tiền tệ ra đời,
phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và tồn tại của sản xuất và trao đổi
hàng hố. Điều đó có nghĩa là ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hố, thì chắc chắn ở đó
có tiền tệ. Q trình này đa chứng minh rằng “…cùng với sự chuyển hóa chung của sản
phẩm lao động và hàng hố, thì hàng hố cũng chuyển thành tiền tệ”.
Trước khi vàng trở thành tiền tệ, kim loại bây giờ là một loại hàng hóa. Vì vậy,
cũng như các hàng hố khác, tiền có hai loại thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng
với tư cách là hàng hóa đặc biệt, tiền có giá trị sử dụng đặc biệt. Đó là giá trị sử dụng xã
hội. Về vấn đề này, Cac Mac đã viết rằng “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt đầu từ thời
điểm nó được rút ra khỏi lưu thơng, và giá trị sử dụng của tiền như một phương tiện trao
đổi. tuần hồn là tuần hồn của nó”. Lịch sử sản xuất và trao đổi hàng hoá đã chứng minh
nền kinh tế hàng hoá là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển theo quy luật
khách quan khi quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Ở giai đoạn
cao, kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa của nó, quá trình “phi vật chất”
của tiền tệ cũng diễn ra một cách tương ứng. Điều đó có nghĩa là vai trò tiền tệ của vàng
ngày càng giảm, vị thế kim loại quý của vàng ngày càng được xác lập và tăng lên. Sự
phát triển theo hai cực như trên đối với vàng cũng tương tự như vật ngang giá chung
trước nọ nó là một quy luật.
4
Ngày nay ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế thị trường
phát triển, quan niệm về tiền tệ đã có những thay đổi cơ bản. Thực tiễn đa cho thấy: tiền
không phải chỉ là vàng, mà những phương tiện có thể trao đổi được với hàng hố-dịch
vụ đều được coi là tiền. Vì vậy tiền được hiểu theo định nghĩa mới như sau: tất cả những
phương tiện có thể đóng vai trị chung gian trao đổi, được nhiều người thừa nhận thì được
gọi là tiền.
Định nghĩa mới về tiền làm phong phú bản chất của nó, đồng thời mở ra hướng
phát triển trong tương lai của các phương tiện trao đổi trong nền kinh tế thị trường.
1.1.3. Chức Năng
Thước đo giá trị
Giá trị của tiền được sử dụng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hóa
hay dịch vụ, thơng qua quan hệ này, tiền đã thực hiện chức năng thước đo giá trị.
Phương tiện lưu thông
Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền được sử dụng làm môi giới trung
gian trong trao đổi hàng hố, nó vận động đồng thời và ngược chiều với sự vận động của
hàng hoá. Quá trình thực hiện chức năng này cớ thể được diễn đạt bằng cơng thức sau:
H-T-H
Thứ nhất, q trình trao đổi hàng hoá được tách thành hai giai đoạn riêng biệt là
bán và mua. Giai đoạn “H-T” là giai đoạn bán hàng, đây là thời kỳ chuyển hóa giá trị của
hàng hố thành tiền. Đây là cơng việc khó khăn nhất của những người sản xuất hàng hoá
trong đIều kiện kinh tê thị trường.
Giai đoạn “T-H” – giai đoạn mua hàng, những người sở hữu tiền có thể thực hiện
giai đoạn này một cách dễ dàng. Hai giai đoạn mua, bán hàng hố được thực hiện hồn
tồn độc lập nhau: kết thúc giai đoạn bán, mới thực hiện mua.
Thứ hai, lưu thơng hàng hố tách rời hành vi mua và bán cả về không gian và thời
gian. Người sản xuất hàng hố có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác, bán lúc này và
5
mua lúc khác. Tình trạng này có thể dẫn đến hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu về
một số loại hàng hố nào đó theo khơng gian và thời gian.
Khi thực hiện phương tiện lưu thông, tiền tệ phải có đầy đủ điều kiện sau đây:
Phải sử dụng tiền mặt. Tiền mặt phải là tiền đang có giá trị lưu hành, chúng có
hình dáng kích thước và tiêu chuẩn giá cả nhất định, được pháp luật nhà nước thừa
nhận.khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, bắt buộc phải sử dụng tiền mặt, vì
trong quá trình trao đổi này có sự chuyển quyền sở hữu giữa người sở hữu hàng hoá và
người sở hữu tiền tệ. Bằng chứng duy nhất chứng minh lao động của người sản xuất hàng
hoá bỏ ra là cần thiết cho xã hội, khi hàng hoá của họ được bán hết và “giấy chứng nhận”
đó chính là tiền mặt.
Có thể sử dụng tiền dấu hiệu. Mục đích của người bán hàng khơng phải là để trở
thành kẻ sở hữu tiền tệ vĩnh viễn, mà là để mua hàng hoá, đạt đến một giá trị sử dụng
mới. Do vậy tiền tệ đối với họ chỉ là “mơi giới thống qua”. Chính vì thế mà khi thực
hiện chức năng phương tiện lưu thơng có thể sử dụng tiền đủ giá (tiền vàng) hoặc tiền
dấu hiệu (giấy bạc ngân hàng) cũng được.
Lưu thông chỉ chấp nhận một số lương tiền nhất định. Số lượng hàng hóa đưa vào
lưu thông trong kỳ với tổng giá cả đã được xác định. Do đó lưu thơng cũng chỉ có thể
chấp nhận một khối lượng tiền nhất định để thực hiện các quan hệ trao đổi. Đó là số
lượng tiền cần thiết. số lượng tiền này tăng hay giảm trong lưu thông phụ thuộc vào hai
yếu tố.
Thứ nhất, tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thơng.
Thứ hai, tốc độ bình qn lưu thơng của tiền tệ.
Quy luật lưu thơng tiền tệ là quy luật kinh tế phổ biến và rất quan trọng của nền
kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xác định được khối lượng tiền
cần thiết cho lưu thông một cách chính xác? Trên cơ sở đó để cung ứng tiền cho lưu
thông phù hợp.
6
Phương tiện dự trữ giá trị
Dự trữ giá trị là là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện
chuyển tài giá trị được xã hội thừa nhận, với mục đích để chuyển hố thành hàng hoặc
dịch vụ trong tương lai.
Sau khi bán hàng, nếu người sở hữu tiền tệ không thực hiện nghiệp vụ mua hàng
tiếp theo, thì lúc này tiền tạm thời ngừng lưu thơng và chúng tồn tại dưới dạng “giá trị
lưu trữ”.
Thực hiện chức năng dự trữ giá trị, các phương tiện chuyển tải giá trị phải đảm
bảo yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực.
Nghĩa là có một số lượng cụ thể cân, đong, đo đếm được, chứ không phải là một lượng
tiền “tưởng tượng”.
Thứ hai, giá trị dự trữ bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận, cũng có
thể chúng được đảm bảo bằng thông lệ của địa phương hay quốc gia.
Thứ ba, giá trị dự trữ mang tính chất thời gian, giá trị dự trữ mang tính chất thời
gian, chính vì thế mà chủ sở hữu thường chọn những phương tiện chuyển tải giá trị phù
hợp để đáp ứng yêu cầu về thời gian mà mình mong muốn. Nếu dự trữ trong tương lai
gần người ta thường sử dụng ngay các loại dấu hiệu giá trị hiện có. Nếu dự trữ giá trị cho
tương lai xa hơn, thì người ta thường chọn các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi vững giá
hoặc vàng, còn với dự trữ chỉ với mục đích dự trữ, khơng ấn định thời gian, sử dụng số
giá trị này, thì lúc này giá trị dự trữ mang mục đích cất trữ. Từ trước đến nay và trong
tương lai xa hơn nữa, kim loại vàng vẫn đáp ứng được mọi yêu cầu của mục đích cất trữ.
Tiền cất trữ thì khơng lưu thơng nữa. Những nơi cất trữ tiền thực sự lại là “kho” chứa
phương tiện lưu thông trong từng thời kỳ. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vàng
vẫn có khả năng thanh tốn khơng hạn chế. Vì vậy, cất trữ vàng khơng những là nhu cầu,
mà còn là sự ham muốn của nhiều người.
7
Phương tiện thanh toán
Tiền là phương tiện thanh toán các khoản nợ về hàng hoá - dịch vụ đã trao đổi
trước đây. Khi chức năng phương tiện thanh toán được thực hiện xong thì quan hệ trao
đổi cũng kết thúc.
Thực hiện chức năng phương tiện thanh tốn, thực tiền khơng chỉ được sử dụng
để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hố, mà chúng cịn được sử dụng để thanh tốn
các khoản nợ bên ngồI phạm vi trao đổi hàng hố như: nộp thuế, trả lương các khoản
đóng góp và chi dịch vụ v.v…
Thực hiện chức năng thanh toán có thể thực hiện tiền đủ giá (vàng) hoặc các loại
giá trị. Đặc biệt có thể sử dụng phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt để giải
quyết các khoản nợ trong nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế thị trường càng phát triển
thì doanh số thanh tốn khơng dùng tiền mặt càng chiếm tỉ trọng lớn và doanh số thanh
toán bằng tiền mặt sẽ giảm xuống tương ứng.
Phương tiện trao đổi quốc tế và tiền tệ thế giới
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa các
quốc gia, quan hệ tiền tệ thế giới cũng ngàng càng mở rộng và tăng cường.
Tất cả các hoạt động đối ngoại đều liên quan đến các khoản chi phí bằng tiền
Nhưng mỗi quốc gia có một giá trị riêng, cho nên những khoản giao dịch bằng tiền giữa
hai nước đều phải tiến hành so sánh giá trị giữa hai đồng tiền. Đó chính là quan hệ tỷ giá.
Sau khi đã có tỷ giá giữa các đồng tiền thì mọi giao dịch quốc tế đều có thể diễn ra bình
thường và thuận lợi.
Tuy nhiên, trong chức năng phương tiện trao đổi quốc tế, phạm vi lưu thơng và
thanh tốn của nhiều đồng tiền cũng bị giới hạn về không gian và thời gian. Ngay cả
những đồng tiền được coi là mạnh nhất như USD trong tương lai cũng không thể vượt
khả năng hiện nay mà nó đã có. Hơn nữa nó cũng chỉ là một loại tiền dấu hiệu cho nên
không thể là phương tiện dự trữ lâu dàI được.
8
Trong thực tiễn các quan hệ hàng hoá - tiền tệ gần như mở rộng khắp các nước và
khu vực trên hành tinh. Để thực hiện các quan hệ này, chỉ có thể sử dụng “tiền tệ thế
giới”. Tiền tệ thế giới là phương tiện thanh toán và chi trả chung giữa các quốc gia.
Khác với các đồng tiền quốc gia, chỉ lưu thơng và thanh tốn có giới hạn, tiền tệ
thế giới khơng những là phương tiện thanh tốn chung, phương tiện chi trả chung, mà
còn là phương tiện di chuyển tài sản và của cải giữa các quốc gia.
Ngày nay trên trường quốc tế vàng ít được lưu thông, mà chủ yếu lưu thông dấu
hiệu giá trị. Vàng chỉ được sử dụng để thanh toán cuối cùng khi cán cân thanh tốn quốc
tế của nước nào đó bị chênh lệch thiếu; hoặc vì nhu cầu khẩn cấp của quốc gia.
1.2. Quy luật lưu thông tiền tệ
1.2.1. Nội dung
Xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Giữa các quốc gia số lượng các phương tiện là tiền không giống nhau. Điều này
hồn tồn phụ thuộc vào quy chế tài chính và sự tiến bộ của công nghệ ngân hàng ở mỗi
quốc gia. Còn tổng khối lượng các phương tiện được coi như tiền là bao nhiêu thì khó
xác định chính xác, như các tác nhân phát hành, chế độ và phương thức sử dụng phương
tiện lưu thông, không gian và thời gian nghiên cứu, phương pháp thống kê v.v…từ căn
cứ thực tế này định nghĩa về khối lượng tiền trong lưu thông được nêu ra như sau: khối
lượng tiền trong lưu thông là chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian
trao đổi với mọi hàng hoá và dịch vụ tại một thị trường nhất định và trong một thời gian
nhất định.
Cung ứng tiền cho lưu thông
-
Ngân hàng phát hành là tác nhân cung ứng tiền trực tiếp và quan trọng nhất
cho lưu thông. Ngân hàng phát hành cung ứng tiền cho lưu thông qua các nghiệp vụ
chủ yếu sau:
Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ, tiền gửi và các chứng từ có giá
khác của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
9
Tái cầm cố các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá khác
của các ngân hàng thương mại.
-
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Những tổ chức này cung ứng tiền cho lưu thông bằng cách:
+ Cho khách hàng vay quá nguồn vốn của mình.
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng là một lượng có
hạn. Nhưng có nhiều trường hợp cá tổ chức này đã cho khách hàng vay quá nguồn vốn
hiện có. Số cho vay vượt mức trên là số tiền khơng có thực do ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng tạo ra.
+ Cho khách hàng “thấu chi”, thể hiện: Xử lý chứng từ thanh tốn cho khách hàng
bằng cách ghi “có” trước và ghi “nợ” sau.
Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.
Những nghiệp vụ này gọi là nghiệp vụ tạo tiền của ngân hàng thương mại. Tùy
theo quy chế tài chính của nhà nước và nghiệp vụ kiểm tra của ngân hàng trung ương,
mà nghiệp vụ này sẽ được thực hiện đến mức độ nào đó, hoặc bị ngăn cấm, nghiệp vụ
này vẫn diễn ra và một lượng tiền nào đó vẫn được tạo ra trong lưu thông. Tuy bước đầu
chúng chỉ tồn tại dưới dạng bút tệ, nhưng chúng sẽ phát huy chức năng phương tiện thanh
toán như những đồng tiền thực sự. Đồng thời trong một thời gian ngắn chúng có thể
chuyển hóa hết thành những phương tiện chuyển tải giá trị khác nhau.
- Các tác nhân và tổ chức phi ngân hàng cũng cung cấp cho nền kinh tế quốc dân
những phương tiện truyền tải giá trị như: thương phiếu, tín phiếu kho bạc, cơng trái, trái
khốn cơng ty v.v…
Nhu cầu tiền trong lưu thông
Số tiền do các tác nhân và thể nhân giữ lại vì một mục đích nào đó hợp thành tổng
cầu tiền. Về mặt kinh tế tiền giữ lại không sinh lời. Thời gian giữ lại càng lâu, lợi tức
mất đI càng lớn, nó trái ngược với đầu tư. Do đó, các tác nhân và thể nhân chỉ giữ lại
tiền khi có một khoản lợi ích nào đó bù đắp vào lợi tức bị mất ở trên.
10
1.2.2. Vai trị
Giúp cho chính phủ căn cứ để phát hiện cần thiết cho lưu thông.
Giúp cho hệ thống ngân hàng nhà nước và kinh doanh đIều hồ lưu thơng tiền tệ
khống chế kiểm soát lạm phát củng cố sức mua để đồng tiền chuyển đổi.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng ngày một vững bền. Thúc đẩy
tăng trưởng và cảI thiện vật chất.
1.3. Lạm phát:
1.3.1. Khái niệm:
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các
yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hố khơng được tôn trọng, nhất là quy luật lưu
thông tiền tệ. Ở đâu cịn sản xuất hàng hố, cịn tồn tại những quan hệ hàng hố tiền tệ
thì ở đó cịn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu
thông tiền tệ bị vi phạm.
Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải
được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của
mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu
thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình
trạng lạm phát xuất hiện.
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được
sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: "Lạm phát là sự tăng lên của mức
giá trung bình theo thời gian"
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP
thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn
Ip = ip.d ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
11
1.3.2. Phân loại:
Trên thực tế, việc phân loại lạm phát thường được thực hiện dựa trên hai tiêu thức
đó chính là định lượng và định tính.
Phân loại lạm phát căn cứ theo định lượng
Lạm phát thể hiện những mức độ nghiêm trọng khác nhau. Chúng được phân
thành ba cấp: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
-
Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự
đốn được. Tỷ lệ lạm phát hàng năm là một chữ số. Khi giá tương đối ổn định, mọi người
tin tưởng vào đồng tiền, họ sẵn sàng giữ tiền vì nó hầu như giữ ngun giá trị trong vòng
một tháng hay một năm. Mọi người sẵn sàng làm những hợp đồng dài hạn theo giá trị
tính bằng tiền vì họ tin rằng giá trị và chi phí của họ mua và bán sẽ khơng chệch đi quá
xa.
-
Lạm phát phi mã: tỷ lệ tăng giá trên 10% đến < 100% được gọi là lạm phát
2 hoặc 3 con số. Đồng tiền mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn giữ
tiền mặt mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho việc thanh tốn hằng
ngày. Mọi người thích giữ hàng hóa, vàng hay ngoại tệ. Thị trường tài chính khơng ổn
định (do vốn chạy ra nước ngồi).
-
Siêu lạm phát: tỷ lệ tăng giá khoảng trên 1000% /năm. Đồng tiền gần như
mất giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra trên cơ sở hàng đổi hàng tiền khơng cịn làm
được chức năng trao đổi. Nền tài chính khủng hoảng (siêu lạm phát đã từng xảy ra ở Đức
1923 với tỷ lệ 10.000.000.000% và xảy ra ở Bolivia 1985 với 50.000%/năm).
Phân loại lạm phát căn cứ theo định tính
Căn cứ vào định tính, lạm phát được chia ra thành hai nhóm: lạm phát cân bằng
và lạm phát không cân bằng, lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường.
12
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thực tế thu nhập của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất của từng doanh nghiệp. Do đó, tình trạng này không
ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của người lao động và nền kinh tế nói chung.
Lạm phát khơng cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động. Trên thực tế, tình trạng này thường hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước được: Là loại lạm phát xảy ra hằng năm trong thời kỳ
tương đối dài với tỷ lệ lạm phát ổn định. Loại lạm phát này có thể dự đốn được tỷ lệ của
nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng này và khơng
ảnh hưởng nhiều đến đời sống, kinh tế.
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể chưa từng xuất hiện trước đó.
Loại làm phát này ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống của người dân vì họ chưa kịp thích
nghi. Từ đó gây ra biến động với nền kinh tế và làm giảm niềm tin của nhân dân với
chính quyền.
13
Chương II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2.1. Giai đoạn 2005-2020
Giai đoạn từ 2004 đến 2011:
Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so
sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc:
6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật
Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát
của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng
trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở
lại đây.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở
Việt Nam từ cuối năm 2009. Giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt Nam
đảo ngược xu thế gia tăng đáng ngại của lạm phát trong năm 2008. Khi các gói kích cầu
của Chính phủ bắt đầu gia tăng từ quý II năm 2009, cung tiền cũng bắt đầu tăng mạnh
và tín dụng cũng có dấu hiệu tương tự. Các ngân hàng thương mại trở nên thiếu hụt tiền
mặt và đều cố gắng tăng lãi suất nhằm thu hút tiền gửi. Vì vậy, cuộc cạnh tranh lãi suất
đã bắt đầu khiến cho lãi suất cho vay bị đẩy lên cao (vượt trần lãi suất do các khoản phí
cho vay).
Trong năm 2010, do dịp Tết nguyên đán và việc tăng giá điện, lạm phát trong hai
tháng đầu năm tăng cao. Năm tháng tiếp theo của năm 2010 chứng kiến tỷ lệ lạm phát
tương đối ổn định ở mức thấp chứng tỏ các biện pháp kiểm sốt lạm phát của Chính phủ
đã có tác động. Tuy nhiên, lạm phát lại tăng trở lại mạnh mẽ từ tháng 9 năm 2010 khiến
cho chỉ số giá tiêu dùng CPI cho 11 tháng đã tăng lên đến 9,58% so với 20,71% và 5,07%
của cùng kỳ năm 2008 và 2009. Việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010
và biến động của thị trường vàng trong nước và quốc tế vừa qua được coi là một vài
trong số những nguyên nhân chủ yếu khiến cho lạm phát tăng cao lúc này. Việt Nam vẫn
có những nguy cơ tiềm tàng khiến cho lạm phát có thể vẫn tiếp tục tăng cao: (i) giá của
14
một loạt các mặt hàng cơ bản như điện và xăng dầu vẫn bị kiểm soát; (ii) VND vẫn đang
chịu áp lực mất giá dù NHNN đã phá giá 2 lần trong năm 2010; (iii) giá cả ở Trung Quốc
cũng đang tăng lên khiến cho chi phí nhập khẩu cho các cơng trình cơ sở hạ tầng 12 với
ngun liệu nhập khẩu chủ yếu ở Trung Quốc cũng tăng lên và (iv) áp lực mới lỏng tiền
tệ sẽ gia tăng vì lãi suất hiện giờ đang cao. Một phần những nguy cơ này đã trở thành
hiện thực trong những tháng vừa qua của năm 2010.
Giai đoạn từ 2012 đến 2015:
Lạm phát giảm mạnh sau khi Chính phủ thực hiện quyết liệt chính sách kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ. Điển hình như: Khởi đầu là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày
24/2/2011, tiếp sau đó các Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 3/1/2012), Nghị quyết 01/NQCP
(ngày 7/1/2013), Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 2/1/2014) lần lượt ra đời.
Cùng với các chính sách kiềm chế lạm phát, Chính phủ cịn đưa ra nhiều biện
pháp đồng bộ và mạnh mẽ nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mơ, trong đó
chủ chốt là chính sách tiền tệ thắt chặt và tài khóa chặt chẽ. Nhờ đó, chỉ số CPI đã giảm
mạnh từ 18,1% năm 2011 xuống 6,8% năm 2012; 6% năm 2013; 1,8% năm 2014 và
0,6% năm 2015.
Giai đoạn 2016- 2018:
Trong bối cảnh lãi suất quốc tế gia tăng (Fed 9 lần tăng lãi suất từ tháng 12/2015
đến tháng 12/2018, từ mức gần 0% lên mức 2,25-2,5%), NHNN đã điều hành đồng bộ
các giải pháp chính sách tiền tệ nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, góp phần ổn định kinh
tế vĩ mơ và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý.
Điểm khá đặc biệt trong cách thức điều hành tỉ giá của NHNN so với trước đây,
đó là, đã sử dụng những cơng cụ mang tính thị trường hơn là các cơng cụ mang tính áp
đặt hành chính. Điều này thể hiện quyết tâm theo đuổi cơ chế tỉ giá trung tâm linh hoạt
và định hướng thị trường của ngành NH. Nhờ đó, tỉ giá được duy trì ổn định, thanh khoản
thị trường được đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ diễn ra thông suốt, dự trữ ngoại hối được
tăng cường.
15
Giai đoạn 2016- 2019:
Đều vượt dự toán; chi NSNN chuyển biến tích cực, bội chi được kiểm sốt tốt, nợ
cơng nằm trong giới hạn an toàn cho phép. Bội chi NSNN so với GDP giảm mạnh từ
mức 5,52% năm 2016 xuống 3,46% năm 2018 và dự toán bội chi năm 2016 là 3,6%;
năm 2020 là 3,44%. Như vậy, bình quân cả giai đoạn 2016- 2020, bội chi NSNN khoảng
3,6 – 3,7%, hoàn thành mục tiêu Quốc hội đề ra ở mức 4% đến năm 2020.
Nhờ kiểm soát bội chi, các khoản vay bảo lãnh của Chính phủ nên tốc độ tăng của
nợ công đã giảm hơn một nửa và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa. Nếu như
giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng nợ công là 18,1%/năm trong khi GDP danh nghĩa
tăng 14,5%/năm thì giai đoạn 2016 – 2018, tốc độ tăng nợ công là 8,2%/năm trong khi
GDP danh nghĩa tăng 9,7%/năm. Nhờ vậy, ước tính nợ cơng đến cuối năm 2020, chỉ cịn
54,3% từ mức 64,3% năm 2016.
Vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam được tăng cường trên cơ sở thặng dư cán
cân vãng lai và dòng vốn FDI đổ vào mạnh mẽ. Cán cân thương mại hàng hóa của Việt
Nam đạt kỷ lục thặng dư 9,9 tỷ USD trong năm 2019, vượt đỉnh gần nhất là 9 tỷ USD
vào năm 2017.
Năm 2020:
Một năm biến động khó lường, lạm phát tăng cao ở những tháng đầu năm, việc
nguồn cung một số mặt hàng thực phẩm thiết yếu, đặc biệt là nguồn cung thịt lợn giảm
do dịch bệnh tả lợn Châu Phi đã đẩy giá nhóm thực phẩm tăng cao; ở chiều ngược lại,
do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu tiêu dùng nhiên liệu giảm nên giá xăng dầu
năm 2020 giảm khá sâu. Cùng với việc phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong công tác
điều hành giá các mặt hàng do nhà nước quản lý và việc chỉ đạo triển khai tốt cơng tác
bình ổn thị trường hàng hóa nên về cơ bản diễn biến lạm phát năm 2020 tương đối sát
với dự báo từ đầu năm, nằm trong kịch bản CPI tăng thấp. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2020
tăng 3,23% so với năm 2019 và tăng 0,19% so với tháng 12 năm 2019. Lạm phát cơ bản
bình quân năm 2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019.
16
2.2. Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ trong điều tiết lạm phát ở Việt
Nam hiện nay
Là giải pháp tình thế và chiến lược của nhà nước nhằm hạn chế và đi đến chấm
dứt lạm phát, khôi phục lại giá trị của giấy bạc tạo điều kiện cho nền kinh tế –xã hội phát
triển bình thường.
Chống lạm phát là một chính sách kinh tế chiến lược của nhà nước nhưng tuỳ theo
điều kiện của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, chính phủ có thể áp dụng những giải pháp
khác nhau.
2.3. Giải pháp khắc phục lạm phát:
2.3.1. Những biện pháp tình thế
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt lạm phát
“trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp này thường
được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.
Thứ nhất: các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp dụng, trước
hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thơng.
Biện pháp này cịn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập
tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ
như ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín
dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát
hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm giảm lượng
tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn
hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại tệ và vay, phát hành các cơng cụ nợ của chính phủ
để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước, tăng lãi suất tiền
gửi đặc biệt là tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực
vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn
rỗi trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
17
Ở việt nam các biện pháp này đã được áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu
những năm 90.
Thứ hai: thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản chi
chưa cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có
thể được.
Thứ ba: tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu
thơng bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần
thiết khác để thu hút hàng hố từ ngồi vào.
Thứ tư: đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài.
Thứ năm: cải cách tiền tệ, đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên chưa
đem lại hiệu quả mong muốn.
2.3.2. Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho đất nước.
Thứ nhất: thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hố và mở rộng lưu thơng hàng
hố. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì sự ổn định tiền
tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước càng phát triển thì càng tạo tiền đề
vững chắc cho sự ổn định tiền tệ. Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng
hoá, phát triển ngành du lịch …
Thứ hai: kiện tồn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính.
Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của
ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước.
Thứ ba: tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở
tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu về
thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước.
18
2.3.3. Một số biện pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay
Tình hình kinh tế tài chính của nước ta trong những năm vừa qua đạt được sự ổn
định và có chiều hướng tốt, nạn lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi từ 67.5% năm
1991 xuống còn 17,5% năm 1992, 5,2% (1993), 14.2% (1994), trong khi đó vẫn đảm
bảo mức tăng trưởng kinh tế 8,6% (!992), 8,1% (1993), 8,7% (1994). Tỷ giá VNĐ so với
đôla Mỹ từ cuối năm 1991 là 14,194 VNĐ đã lên giá dần và giữ ở mức trên dưới
10.800 VNĐ/USD từ tháng 11.1992 cho đến nay. Đồng thời cán cân thanh toán được cải
thiện rõ rệt. Mặt khác xuất nhập khẩu có xu hướng tăng lên.
Để khắc phục và kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay cần phải thực hiện
nhiều biện pháp đồng bộ như sau:
-
Trước hết phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP.
Bởi và bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gây ra sự mất cân đối giữa cung và
cầu.
-
Phải nâng cao sản lượng hàng hoá trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất
công, nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm, một số hàng hoá là tư
liệu sản xuất và các loại hàng hoá là nhiên liệu, năng lượng. Mặt khác cần tiếp tục đổi
mới cơ cấu kinh tế và cải tiến công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi
phí sản xuất.
-
Về lĩnh vực ngân hàng với trách nhiệm là một ngành đóng vai trị quan
trọng nhất trong việc kiềm chế lạm phát, cần tiến hành các bước sau:
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn và cho
vay hiệu quả các dự án.
+ Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục tiêu ngoại
tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam.
+ Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
+ Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương mại.
19
+ Xử lý tôt mối quan hệ với ngân sách nhà nước, phát triển thị trường vốn, đồng
thời xúc tiến nhanh việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam và sự hoà nhập của
thị trường này vào cộng đồng kinh tế quốc tế, nhất là từ khi Việt Nam trở thành thành
viên thứ 7 của khối ASEAN để thu hút nhanh chóng hơn nữa nguồn vốn nước ngồi góp
phần phát triển kinh tế đất nước.
Ngồi ra cần tổ chức quản lý nợ nước ngồi có kế hoạch và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như vay vốn của IMF,
WB, ADB, …
Tóm lại, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các
cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô của nhà nước
(giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu, điều
hành tốt giá cả và lưu thơng hàng hố, ...) để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm
chế lạm phát ở mức tốt nhất.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày
một ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xố bỏ hồn tồn lạm phát thì cái giá
phải trả khơng tương xứng với lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát
đã hồnh hành cơng khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xoá bỏ cơ chế
bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát 1989 đưa đất nước
vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta.
Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực
giáo dục, khoa học, chính trị... Những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt đựơc trong cơng
cuộc chống lạm phát cũng khơng vì thế mà làm chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát
luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà nước cần phải
ln thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát
20
triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển
của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này
khơng chỉ của riêng ai mà một phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp
phần làm rạng danh đất nước trong nhiều năm tới này.
Lạm phát đã và đang sẽ là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính - Tiền tệ. Tuy
vậy, em đã cố gắng tới mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của mình. Bài viết
này chỉ là những thu nhặt bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát triển nhận thức
sau này.
21