TCNCYH 22 (2) - 2003
Thực trạng hiểu biết về chất thải y tế và quản lý
chất thải y tế tại sáu bệnh viện đa khoa tuyến tỉn
h
Lê Thị Tài, Đào Ngọc Phong, Đinh Hữu Dung,
Nguyễn Thị Thu, Vũ Thị Vựng, Phạm Thanh Tân
Đại học Y Hà Nội
Kết quả phỏng vấn 203 nhân viên y tế trong 6 bệnh viện - 3 bệnh viện đã xử lý chất thải (Phú
Thọ, Quảng Ngãi, Đồng Tháp) và 3 bệnh viện cha xử lý chất thải (Yên Bái, Quảng Nam, Cần Thơ)
về thực trạng hiểu biết về chất thải và quản lý chất thải và tình hình thơng tích do chất thải y tế
trong số đối tợng nghiên cứu cho thấy:
- Cán bộ y tế ở cả hai nhóm bệnh viện nghiên cứu đều cha hiểu biết đầy đủ về ảnh hởng của
chất thải y tế đối với sức khỏe cũng nh quản lý chất thải y tế (phân loại, thu gom, xử lý chất thải)
- Tỷ lệ thơng tích do chất thải y tế/năm chiếm 19,2 - 20,6%, không có sự khác biệt giữa nhóm
bệnh viện đã xử lý chất thải và cha xử lý chất thải
Từ các kết quả trên các tác giả kiến nghị:
- Mỗi bệnh viện cần thành lập một bộ phận chuyên môn đợc đào tạo trang bị kiến thức cần
thiết để đảm nhận việc quản lý chất thải của bệnh viện
- Cần hớng dẫn/đào tạo thờng xuyên cho toàn thể cán bộ/nhân viên bệnh viện về tác hại của
chất thải y tế cũng nh quy chế quản lý chất thải
- Nghiên cứu thêm hiểu biết của bệnh nhân và ngời nhà để có những hớng dẫn thích hợp
nhằm huy động sự tham gia của họ trong quản lý chất thải của bệnh viện.
I. Đặt vấn đề
Năm 1997, Bộ Y tế ký quyết định số
1895/1997/BYT - QĐ về việc ban hành Quy
chế bệnh viện trong đó có Quy chế công tác
xử lý chất thải, Quy chế chống nhiễm khuẩn
bệnh viện. Đến năm 1999, Quy chế quản lý
chất thải y tế đã chính thức đợc ban hành.
Song vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trờng, xử lý
chất thải y tế từ tuyến Trung ơng đến địa
phơng còn rất yếu, nhiều nơi cha có hệ thống
xử lý chất thải, một số nơi có nhng hoạt động
cha đạt yêu cầu kỹ thuật. Hơn nữa trong quản
lý chất thải, yếu tố con ngời rất quan trọng,
cho dù có hệ thống trang thiết bị, phơng tiện
đắt tiền, hiện đại nhng nếu con ngời không
hiểu hết tác hại và tầm quan trọng của chúng
thì hệ thống hoạt động vẫn không có hiệu
quả Chính vì vậy chúng tôi đã tiến hành đề tài
này nhằm hai mục tiêu sau: Đánh giá thực
trạng hiểu biết về chất thải và quản lý chất thải
của cán bộ công nhân viên trong các bệnh viện
đợc nghiên cứu. Nhận xét tình hình thơng
tích do chất thải y tế trong số đối tợng nghiên
cứu
II. Đối tợng và phơng pháp
nghiên cứu:
1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có
đối chứng
2. Nội dung nghiên cứu và kỹ thuật thu
thập thông tin:
Phỏng vấn trực tiếp cán bộ làm việc tại các
khoa phòng chuyên môn của bệnh viện (bằng
bộ phiếu phỏng vấn) để thu thập các thông tin
sau:
Hiểu biết tác hại của chất thải y tế đối với
môi trờng và sức khoẻ
Hiểu biết về quản lý chất thải y tế
(QLCTYT), bao gồm cả phân loại, thu gom,
vận chuyển và xử lý chất thải y tế
47
TCNCYH 22 (2) - 2003
Mong muốn của nhân viên y tế trong việc
quản lý chất thải y tế.
Tình hình thơng tích do chất thải y tế
3. Mẫu nghiên cứu:
Chọn có chủ định 6 bệnh viện đa khoa (BVĐK)
tỉnh để đại diện cho 3 miền: Bắc, Trung, Nam.
Tại mỗi miền chúng tôi chọn 2 bệnh viện(một
BV đã xử lý chất thải (XLCT) và một BV cha
XLCT. Cụ thể:
Miền Bắc: BVĐK Yên Bái (YB), cha XLCT
và BVĐK Phú Thọ (PT), đã XLCT
Miền Trung: BVĐK Quảng Nam (QN), cha
XLCT và BVĐK Quảng Ngãi (QNg), đã XLCT
Miền Nam: BVĐK Cần Thơ (CT), cha
XLCT và BVĐK Đồng Tháp (ĐT), đã XLCT
Trong một BV, mỗi khoa phòng chuyên môn sẽ
phỏng vấn 2 cán bộ
III. Kết quả.
Để tiện trình bầy chúng tôi quy ớc:
Nhóm 1: gồm 3 BV cha có hệ thống XLCT
là: YB, QN, CT
Nhóm 2: gồm 3 BV đã có hệ thống XLCT là:
PT, QNg, ĐT
1. Thông tin cá nhân
Tại 6 BV đợc chọn vào mẫu, chúng tôi đã
phỏng vấn 203 ngời (nhóm 1: 101 ngời,
nhóm 2: 102 ngời) chủ yếu là bác sĩ, y tá, y
sỹ, nữ hộ sinh (>99,0%), làm việc ở tất cả các
khoa/phòng chuyên môn của BV, với nhiều
nhiệm vụ chuyên môn khác nhau (điều trị, xét
nghiệm viên, quản lý, hành chính, hộ lý).
Tuổi trung bình: 43,3 5,8 (thấp nhất 26,
cao nhất 59)
Thâm niên công tác trung bình: 12,9 8,5
năm, (ít nhất: 1, cao nhất: 37 năm
Bảng 1. Thực trạng đào tạo về quản lý chất thải (CT) từ 1998 - 2002
Nhóm 1 (n = 101) Nhóm 2 (n=102) Chung (n=203)
Chỉ số nghiên cứu
n % n % n %
Số ngời đợc tập huấn: 64 63,4 55 53,9 119 58,6
1 lần 40 39,6 23 22,5 63 31,0
2 lần 19 18,8 23 22,5 42 20,7
3 lần 5 5,0 9 8,8 14 6,9
Cơ quan tập huấn
Bệnh viện 53 52,5 45 44,1 108 53,2
Phòng/sở y tế 3 3,0 7 6,9 10 4,9
Bộ Y tế 10 9,9 12 11,8 22 10,8
Đợc hớng dẫn quy chế
QLCTYT
78 77,2 84 82,3 162 79,8
Nhận xét: Trong số những ngời đợc phỏng vấn có 58,6% số ngời đã đợc tập huấn về
quản lý chất thải. Gần 80% số ngời đã đợc hớng dẫn quy chế QLCTYT (ở nhóm 2, tỷ lệ ngời
đợc hớng dẫn cao hơn ở nhóm 1)
48
TCNCYH 22 (2) - 2003
2. Hiểu biết về quản lý chất thải y tế:
Bảng 2. Tỷ lệ ngời biết các loại chất thải y tế
Nhóm 1 (n = 101) Nhóm 2 (n=102) Chung
Loại chất thải
n % n %
P
n %
Biết đầy đủ các loại 8 7,9 19 18,6 < 0,05 27 13,3
CT lâm sàng/y tế 90 89,1 100 98,0 < 0,01 190 93,6
Chất thải phóng xạ 30 29,7 34 33,3 > 0,05 64 31,5
Chất thải hóa học 40 39,6 47 46,1 > 0,05 87 42,9
Bình chứa khí áp xuất 8 7,9 21 20,6 < 0,01 29 14,3
Chất thải sinh hoạt 79 78,2 91 89,2 < 0,05 170 83,7
Không biết loại nào 11 10,9 2 2,0 < 0,01 24 11,8
Nhận xét: Bảng 3, Tỷ lệ ngời biết đầy đủ các loại chất thải rất thấp (13,3%), phần lớn những
ngời đợc phỏng vấn biết về chất thải lâm sàng và chất thải sinh hoạt còn các loại chất thải khác
số ngời biết ít hơn (< 50%). Số ngời biết đầy đủ các loại chất thải ở nhóm 1 chiếm tỷ lệ thấp hơn
ở nhóm 2 (7,9% so với 18,6%)
Bảng 3. Hiểu biết loại chất thải gây nguy hại
Nhóm1, n = 101 Nhóm2, n=102 Chung
Loại chất thải gây nguy
hại
n % n %
P
n %
CT lâm sàng/y tế 87 86,1 96 94,1 > 0,05 183 90,1
Chất thải phóng xạ 19 18,8 36 35,3 < 0,01 55 27,1
Chất thải hóa học 29 28,7 41 40,2 > 0,05 70 34,5
Bình chứa khí áp suất 3 3,0 14 13,7 < 0,01 17 8,4
Không biết loại nào 9 8,9 9 8,8 > 0,05 18 8,9
Nhận xét: > 80% những ngời đợc phỏng vấn biết chất thải lâm sàng có nguy hại đối với sức
khoẻ, còn những chất thải khác số ngời biết < 50%, đặc biệt vẫn có một số ngời (8,9%) không
biết loại chất thải y tế nào gây nguy hại.
Bảng 4. Hiểu biết về những nguy hại của chất thải đối với sức khỏe
Nhóm 1 (n= 101) Nhóm 2 (n=102) Chung
Các loại nguy hại
n % n %
P
n %
Lan truyền bệnh 95 94,1 100 98,0 > 0,05 195 96,1
Gây thơng tích 49 48,5 58 56,9 > 0,05 107 52,7
Ung th (do phóng xạ, hóa
chất độc, bay hơi)
20 19,8 28 27,5
> 0,05 28 13,8
Tập trung côn trùng 8 7,9 29 28,4 < 0,01 37 18,2
ảnh hởng đến môi trờng,
tâm lý
22 21,8 32 31,4
> 0,05 54 26,6
49
TCNCYH 22 (2) - 2003
Nhận xét: ảnh hởng của chất thải y tế đợc nhiều ngời biết đến là khả năng lan truyền bệnh
tật (96,1%) và gây thơng tích/tai nạn (52,7%), các ảnh hởng khác số ngời biết chiếm tỷ lệ thấp
hơn (<30%)
Nhìn chung, số ngời nhận biết đợc sự nguy hại của chất thải y tế đối với môi trờng và
sức khỏe ở nhóm 2 cao hơn ở nhóm 1 (P < 0,05)
Bảng 5. Hiểu biết về những đối tợng dễ bị ảnh hởng bởi chất thải y tế
Nhóm 1 (n = 101) Nhóm2 (n=102) Chung
Đối tợng dễ bị ảnh
hởng
n % n %
P
n %
Hộ lý 90 89,1 97 95,1 > 0,05 187 92,1
Bác sĩ/y tá 77 76,2 85 83,3 > 0,05 162 79,8
Nhân viên thu gom, vận
chuyển, xử lý rác
38 37,6 60 58,8
< 0,01 98 48,3
Bệnh nhân 23 22,8 31 30,4 > 0,05 54 26,6
Ngời bới rác 14 13,9 32 31,4 < 0,01 46 22,7
Dân sống quanh bệnh viện 42 41,6 48 47,1 > 0,05 90 44,3
Không biết 1 1,0 2 2,0 > 0,05 3 1,5
Nhận xét: phần lớn những ngời đợc phỏng vấn cho rằng đối tợng dễ bị ảnh hởng của chất
thải y tế là nhân viên y tế (bác sĩ, y sỹ, y tá và hộ lý từ 79,8% - 92,1%), những đối tợng khác đợc
biết ít hơn. Số ngời biết về đối tợng dễ bị ảnh hởng của chất thải y tế ở nhóm 2 cũng cao hơn ở
nhóm 1
Bảng 6. Hiểu biết về xử lý chất thải y tế
Nhóm 1 (n = 101) Nhóm 2 (n=102) Chung
Biết hình thức xử lý
n % n %
P
n %
Đối với chất lâm sàng:
Đốt 82 81,2 90 88,2 > 0,05 172 84,7
Chôn lấp 11 10,9 7 6,9 > 0,05 18 8,9
Đối với chất thải phóng xạ
Không biết 72 71,3 52 51,0 < 0,01 124 61,1
Đối với chất thải hóa học
Đốt 32 31,7 33 32,4 > 0,05 65 32
Xử lý bằng hóa chất 4 4,0 9 9,0 > 0,05 17 8,4
Trả về nơi cung cấp 1 1,0 5 4,9 > 0,05 6 3,0
Các bình chứa khí có áp suất :
Trả về nơi cung cấp 20 19,8 57 55,9 < 0,01 77 37,9
Nhận xét: Phần lớn những ngời đợc phỏng vấn biết biện pháp xử lý đối với chất thải lâm sàng
(84,7%), các chất thải khác số ngời biết chỉ chiếm < 50%. ở nhóm 2 tỷ lệ ngời biết các biện pháp
xử lý chất thải cũng cao hơn ở nhóm 1
50
TCNCYH 22 (2) - 2003
Bảng 7. Tình hình thơng tích do chất thải y tế:
Nhóm 1 = 78 Nhóm 2 =102 Chung = 180
Thông tin
n % n %
P
n %
Tổng số ngời bị thơng
tích/1 tháng
5 6,4 8 7,8
> 0,05 13 7,2
1 lần 4 2,6 4 3,9 8 5
2 lần 1 1,3 2 2,0 3 1,7
3 lần 0 0 1 1,0 1 0,6
Tổng số ngời bị thơng
tích/1 năm
15 19,2 21 20,6
> 0,05 36 20,0
1 lần - 3 lần 12 15,4 18 17,6 30 16,7
> 3 lần 3 3,8 3 2,9 6 3,3
Nhận xét: Không có sự khác nhau đáng kể
về tỷ lệ thơng tích do chất thải y tế giữa hai
nhóm bệnh viện đã xử lý chất thải và cha xử
lý chất thải
IV. Bàn luận:
Sự nguy hại của chất thải y tế không phải
chỉ ở những chất thải nhiễm khuẩn mà còn có
những chất thải không nhiễm khuẩn nhng là
chất độc hại (chất phóng xạ, chất gây độc tế
bào, các hóa chất độc dùng trong các phòng xét
nghiệm)
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
phần lớn những ngời đợc phỏng vấn biết sự
nguy hại của chất thải lâm sàng, còn những
chất thải khác số ngời biết không tới 50%, đặc
biệt vẫn có một số ngời (8,9%) không biết loại
chất thải y tế nào gây nguy hại. Những tác hại
cụ thể đợc biết đến là khả năng lan truyền
bệnh tật (96,1%) và gây thơng tích cho ngời
tiếp xúc (52,7%), các ảnh hởng khác số ngời
biết chiếm tỷ lệ rất thấp (13,8 - 26,6%)
Về đối tợng dễ bị ảnh hởng của chất thải
y tế, nhiều nghiên cứu đã cho thấy đối tợng bị
ảnh hởng bởi chất thải y tế bao gồm nhân viên
y tế (hộ lý, bác sĩ, y tá) nhân viên thu gom, vận
chuyển, xử lý rác trong bệnh viện, bệnh nhân,
ngời bới rác, dân sống quanh bệnh viện [3, 6,
5]. Vì vậy quản lý tốt chất thải y tế không
những bảo vệ cho nhân viên y tế mà còn bảo vệ
cho cộng đồng tránh đợc những nguy cơ từ
chất thải y tế. Những cán bộ y tế trong nghiên
cứu này phần lớn mới chỉ nhận thấy đối tợng
dễ bị ảnh hởng của chất thải y tế là nhân viên
y tế (79,8% - 92,1%), những đối tợng khác chỉ
có < 50%. Đặc biệt, bệnh nhân là đối tợng rất
cần quan tâm để tránh nguy cơ của chất thải thì
chỉ có 26,6 % số ngời nghĩ tới.
Nh chúng ta đã biết, các vật sắc nhọn
không những có nguy cơ gây thơng tích cho
những ngời phơi nhiễm mà qua đó còn có thể
truyền các bệnh nguy hiểm. (Ví dụ, theo số liệu
thống kê của Nhật Bản, nguy cơ mắc bệnh sau
khi bị bơm kim tiêm bẩn xuyên qua da nh sau:
HIV: 0,3%; Viêm gan B: 3%; Viêm gan C: 3 -
5 %). Trong nghiên cứu này tỷ lệ thơng tích
do chất thải y tế/1năm chiếm 20,% (thực tế có
thể còn cao hơn). Tỷ lệ này cao hơn một số liệu
của Mỹ (180/1000/năm) [3]. Không có sự khác
nhau đáng kể về tỷ lệ thơng tích do chất thải y
tế giữa hai nhóm bệnh viện đã xử lý chất thải
và cha xử lý chất thải. Đây cũng là một con số
cần đợc quan tâm nhằm bảo vệ sức khỏe cho
cho nhân viên y tế.
Để bảo vệ môi trờng, bảo vệ sức khỏe cho
cộng đồng khỏi những ảnh hởng của chất thải
y tế đòi hỏi sự hiểu biết của tất cả những ngời
có liên quan đến chất thải y tế nh đã nói đến ở
51
TCNCYH 22 (2) - 2003
trên. Vì vậy ngoài nhân viên y tế, bệnh nhân và
ngời nhà cũng là đối tợng cần đợc nghiên
cứu.
Trong tổng số lợng chất thải rắn phát sinh
từ các bệnh viện phần lớn các chất thải thực sự
là không độc, chỉ có khoảng 15% chất thải
nguy hại [6]. Vì vậy, phân loại chất thải tốt sẽ
làm giảm lợng chất thải nguy hại cần phải xử
lý đặc biệt, giảm chi phí cho bệnh viện đồng
thời giúp cho việc quản lý tốt chất thải, hạn chế
sự lan truyền các yếu tố nguy cơ từ chất thải ra
môi trờng bệnh viện cũng nh ra ngoài bệnh
viện. Thực tế, tại 6 bệnh viện trên chúng tôi
thấy phần lớn cán bộ y tế đợc phỏng vấn cha
hiểu biết đầy đủ về phân loại chất thải mà chủ
yếu mới chỉ biết chất thải lâm sàng và chất thải
sinh hoạt còn các loại chất thải khác đợc biết
đến ít hơn, bên cạnh đó thì vẫn còn một số
ngời không biết có loại nào (chiếm 10,9%).
Đối với việc xử lý chất thải, hầu hết những
ngời đợc phỏng vấn quan niệm đúng rằng
cần phải có biện pháp xử lý riêng biệt cho các
loại chất thải khác nhau nhng biện pháp cụ thể
thì số ngời biết ít hơn (chủ yếu biết biện pháp
xử lý đối với chất thải lâm sàng). Với chất thải
phóng xạ, chất thải hoá học và các bình chứa
khí có áp suất thì phần lớn không biết biện
pháp xử lý và thậm chí có một số ngời không
biết biện pháp nào (16,7%).
Kết quả trên cho thấy mặc dù tỷ lệ hiểu biết
của cán bộ y tế ở nhóm 2 cao hơn ở nhóm 1
nhng ở cả hai nhóm đều cha đáp ứng đợc
yêu cầu thực tế. Sự hiểu biết đầy đủ của cán bộ
y tế về ảnh hởng của chất thải y tế đối với môi
trờng và sức khoẻ là rất cần thiết bởi vì họ là
những ngời liên quan trực tiếp với chất thải y
tế. Ngoài việc phải tự bảo vệ cho mình tránh
đợc ảnh hởng của chất thải y tế, mỗi cán bộ
y tế còn có trách nhiệm bảo vệ sức khoẻ cho
bệnh nhân, cho cộng đồng, giúp cho cộng đồng
có hiểu biết để tránh đợc những ảnh hởng đó.
Hơn nữa, trong quản lý chất thải, đòi hỏi tất cả
mọi ngời trong các mắt xích của dây truyền
này bắt đầu từ bác sỹ, y tá, hộ lý đến nhân viên
vận chuyển chất thải, xử lý chất thải đều phải
có sự hiểu biết đầy đủ về nguy cơ của chất thải
và vai trò của quản lý chất thải trong việc bảo
vệ sức khỏe, bởi vì từ chỗ có kiến thức đến thực
hành đúng còn đòi hỏi có thời gian và sự rèn
luyện thờng xuyên nhng nếu không có kiến
thức thì khó có thể thực hành đúng. Nh vậy,
sự hiểu biết không đầy đủ này sẽ ảnh hởng rất
lớn đến việc quản lý chất thải của bệnh viện
Qua kết quả phỏng vấn chúng tôi đợc biết
công tác đào tạo, tập huấn về quản lý chất thải
cha đợc triển khai đến toàn thể cán bộ công
nhân viên của bệnh viện hoặc thực hiện nhng
không thờng xuyên (trong số ngời đợc
phỏng vấn mới chỉ có 58,6% số ngời đã đợc
tập huấn về quản lý chất thải, và chỉ 1 - 2 lần
trong vòng 5 năm, việc hớng dẫn thực hiện
quy chế quản lý chất thải y tế cũng mới chỉ đạt
xấp xỉ 80%). Ngoài ra hầu hết các bệnh viện
cha có một bộ phận chuyên môn có đủ năng
lực để thực hiện nhiệm vụ này.
V. Kết luận
- Hiểu biết về nguy cơ của chất thải y tế đối
với môi trờng và sức khoẻ cũng nh quản lý
chất thải ở cả hai nhóm bệnh viện còn hạn chế:
cha hiểu biết đầy đủ về đối tợng có nguy cơ
cũng nh nguy cơ của chất thải y tế đối với sức
khỏe và phân loại, thu gom, xử lý chất thải
- Tỷ lệ thơng tích do chất thải y tế/năm
chiếm 19,2 - 20,6%, không có sự khác biệt giữa
nhóm bệnh viện đã xử lý chất thải và cha xử
lý chất thải
VI. Kiến nghị
- Mỗi bệnh viện cần thành lập một bộ phận
chuyên môn đợc đào tạo, trang bị kiến thức
cần thiết để đảm nhận việc quản lý chất thải
của bệnh viện
- Cần hớng dẫn/đào tạo thờng xuyên cho
toàn thể cán bộ/nhân viên bệnh viện về tác hại
của chất thải y tế cũng nh quy chế quản lý
chất thải y tế
52
TCNCYH 22 (2) - 2003
- Nghiên cứu thêm hiểu biết của bệnh
nhân và ngời nhà để có những hớng dẫn thích
hợp nhằm huy động sự tham gia của họ vào việc
quản lý chất thải của bệnh viện
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Y tế - WHO (1996), Đánh giá
nguy cơ của môi trờng đối với sức khoẻ.
Tài liệu lớp tập huấn
2. Bộ Y tế (1999), Quy chế quản lý chất thải
y tế, Nhà xuất bản Y học, Hà nội.
3. Bộ Y tế - Vụ Điều trị (2000),Tài liệu
hớng dẫn thực hành quản lý chất thải y tế
(tài liệu dành cho giảng viên). Nhà xuất bản
Y học
4. Bộ Y tế (2001), Hội nghị đánh giá
thực hiện quy chế quản lý chất thải y tế,
chống nhiễm khuẩn bệnh viện.
5. Carolline Cook (1998), Công tác quản
lý chất thải bện viện của quốc tế. Kỷ yếu
hội thảo Quản lý chất thải bệnh viện, Hà
Nội.
6. Nguyễn Thị Hồng Tú (1998), Công
tác quản lý chất thải bện viện - Luật pháp và
chính sách có liên quan, Kỷ yếu hội thảo
Quản lý chất thải bệnh viện, Hà Nội.
7. WHO (1987), Hospitals and health
for all, Geneva.
8. WHO (1994), Guideline for Health care
waste management
Knowledge on hospital wastes and hospital waste
management at six general hospitals at provincal level
The results of the interview of 203 staffs in 6 hospitals - 3 hospitals with treatment of wastes
(Phutho, Quangngai, Dongthap), 3 hoospitals without treatment of wastes (Yenbai, Quangnam, Can
tho) about knowledge on hospital wastes and hospital waste management injury rate caused by
sharp wastes among the interviewed staffs show:
- Medical staffs in both two groups have poor understanding about the impacts of hospital
wastes, and hospital wastes management (classification, collection, transport and treatment wastes)
- The injuries rate in the staffs that interviewed is 20.0%, and there is no sisnifical difference
between two groups
Recommenendations:
- Every hospital should: establish one specific department with the trained staffs that have
necessary kowledge so that it can run hospital waste management, and conduct continuing training
for all medical staffs in the hospital so that they have good understanding about impacts of hospital
wastes and hospital waste management regulations (classification, collection, transport and
treatment)
- Make research on the knowledge of patients and their visitors to have the appropriate guides to
involve them in hospital waste management
53