Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Đảng lãnh đạo phát triển ngành du lịch việt nam, giai đoạn 2001 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 132 trang )

MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: Tiềm năng du lịch Việt Nam và chủ trương của Đảng
về phát triển du lịch đến năm 2000
1.1. Vai trò của du lịch và tiềm năng du lịch Việt Nam.
1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển du lịch và thực trạng du lịch
Việt Nam đến năm 2000

7
7
18

Chương 2: Quá trình Đảng lãnh đạo phát triển Ngành Du lịch
Việt Nam thời kỳ 2001-2010
2.1. Chủ trương của Đảng và quá trình thực hiện phát triển du lịch
2.2. Du lịch Việt Nam sau 10 năm phát triển (2001-2010)

25
25
54

Chương 3: Kinh nghiệm bước đầu và một số kiến nghị tiếp tục
thực hiện chiến lược phát triển Ngành Du lịch Việt
Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
3.1. Những kinh nghiệm bước đầu
3.2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Ngành Du lịch trong thời gian tới



85
85
92

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

102
105
110


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con người ở
ngồi nơi cư trú với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử, cơng trình văn hóa, nghệ thuật... v.v. Du lịch là một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên
nhiên, truyền thống văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới.Thơng qua du lịch, mỗi
con người có thêm tình u đất nước,tính cộng đồng giữa các dân tộc anh em
tình hữu nghị với nhân dân thế giới, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh đất
nước, con người Việt Nam ra bên ngoài.
Khi cuộc sống của con người ngày càng được đáp ứng một cách đầy đủ
hơn, khi hịa bình, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế lớn thì nhu cầu
về du lịch cũng không ngừng tăng lên. Du lịch ngồi việc thoả mãn nhu cầu
giao lưu tình cảm, lí trí… cịn là hình thức nghỉ ngơi, dưỡng sức nhằm tái tạo
năng lực lao động của con người và đặc biệt là sự mở mang hiểu biết kiến

thức của mỗi người với thế giới mà chúng ta đang sống.
Du lịch là một ngành mang lại hiệu quả nhiều mặt rất to lớn. Về kinh
tế, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và lao động dịch vụ tại chỗ, một
ngành mang lại giá trị, nguồn ngoại tệ ngày càng tăng. Trong xu thế tồn cầu
hóa và phát triển kinh tế tri thức, mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm và
rất coi trọng du lịch, tìm mọi cách phát huy thế mạnh của mình để phát triển
Ngành Du lịch.
Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, nước ta là quốc gia có nhiều tiềm năng
phát triển du lịch. Cùng với q trình đổi mới tồn diện, lấy phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, Đảng ta đã sớm phát hiện ra tiềm năng của Ngành Du
lịch của đất nước. Khi khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, Đại hội Đảng
VI (12-1986) đã sớm xác định: “Chúng ta phải nhanh chóng khai thác các
điều kiện thuận lợi của đất nước để mở mang du lịch bằng vốn trong nước và
hợp tác với nước ngoài”.


2
Với những định hướng đó, trong những năm 1996-2001, Ngành Du lịch
Việt nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu, góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước.
Bước vào thế kỷ XXI, để phát huy thế mạnh của Ngành Du lịch, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX(2001) chủ trương “Phát triển nhanh du lịch thật sự
trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ để khai
thác có hiệu quả tiềm năng, điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, thúc đẩy hội nhập quốc tế; góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nói riêng và xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung.
Thực hiện chủ trương đó, tháng 7-2002, Nhà nước ta đã thơng qua
Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001-2010; Ngành Du lịch đã triển
khai các Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2001-2005 và
giai đoạn 2006-2010.

Trên cơ sở đánh giá khái quát kết quả thực hiện chủ trương phát triển
du lịch của Đảng sau 15 năm đổi mới, Luận văn “Đảng lãnh đạo phát triển
Ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010” tập trung nghiên cứu quá
trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Ngành Du lịch trong 10
năm mở cửa và hội nhập quốc tế gần đây, nêu ra những kinh nghiệm qúy báu,
những phương hướng nhằm tiếp tục phát triển Ngành Du lịch trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế (2010-2020).
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, Ngành Du lịch nước ta trở thành
vấn đề được quan tâm của Đảng, nhà nước ta và nhiều nhà khoa học. Đã có
nhiều chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, nhiều cơng trình khoa học liên quan đến
sự phát triển Ngành Du lịch ở nước ta.
Có thể nêu một số cơng trình chủ yếu sau: Nguyễn Đình Hòe (2001) Du
lịch bền vững, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Thu Trang, Cơng Nghĩa (2001),
Du lịch văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh; Du lịch và kinh


3
doanh du lịch của tác giả Trần Đình Nhỗn (1996), Nxb VHTT; Những điều
kiện và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế
mũi nhọn, Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Vũ Đình Thụy, Đại học Kinh tế
quốc dân; Các giải pháp tài chính phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010,
Luận án Tiến sỹ của tác giả Chu Văn n, Đại học Tài chính kế tốn; Đầu tư
nước ngồi vào Ngành Du lịch Việt Nam trong thời kì đổi mới Luận án Tiến sỹ
của tác giả Nguyễn Thị Bằng, Đại học Tài chính kế tốn...v.v.
Hầu hết các cơng trình đó tập trung nghiên cứu dưới góc độ quản lý
Ngành Du lịch, kinh tế du lịch, quá trình phát triển, những thành tựu, tồn tại
và giải pháp để phát triển du lịch nước ta trong xu thế mở cửa hội nhập; chưa
có cơng trình nào chun sâu trên lĩnh vực Lịch sử Đảng như Đảng lãnh đạo
phát triển Ngành Du lịch giai đoạn 2001- 2010.

Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên và tập trung làm rõ quá trình
“Đảng lãnh đạo phát triển Ngành Du lịch Việt Nam, giai đoạn 20012010” là hướng nghiên cứu mới mẻ của Luận văn. Luận văn làm rõ sự chuyển
biến tư duy của Đảng ta, quá trình Đảng lãnh đạo phát triển Ngành Du lịch
trước xu thế hội nhập quốc tế trong 10 năm 2001-2010. Việc tìm hiểu nghiên
cứu làm rõ vai trị lãnh đạo của Đảng trong phát triển Ngành Du lịch có ý
nghĩa thiết thực, đóng góp vào sự hoạch định chính sách để tiếp tục phát triển
Ngành Du lịch những năm tới như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
(2011) khẳng định “Xây dựng một số trung tâm du lịch lớn trong nước, gắn
kết có hiệu quả với các trung tâm du lịch lớn của các nước trong khu vực ”
và thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam (2011-2020)
và thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản thành
nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
- Trình bày thực trạng của Ngành Du lịch nước ta và những chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển Ngành Du lịch trước năm 2001.


4
- Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo phát triển du lịch trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế (2001- 2010). Tổng
kết nêu ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp về tiếp tục
phát triển Ngành Du lịch trong thời kỳ mới (2011- 2020).
3.2. Nhiệm vụ
Khái quát những chủ trương lớn của Đảng về phát triển Ngành Du lịch
từ khi đổi mới, nhất là thời kỳ 1996-2000; làm rõ thực trạng du lịch nước ta
những năm cuối thế kỷ XX.
Làm rõ những chủ trương của Đảng, quá trình Đảng lãnh đạo phát
triển du lịch trong thời kỳ 2001- 2010.
Tổng kết thành tựu, hạn chế của du lịch Việt Nam (2001- 2010); nêu

những kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển Ngành Du lịch
trong thời kỳ mới 2011- 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển
Ngành Du lịch ở nước ta từ 2001 đến 2010. Đó là q trình phát triển đường
lối, tổ chức thực hiện đường lối và kết quả quá trình lãnh đạo của Đảng phát
triển du lịch ở nước ta giai đoạn 2001- 2010.
Thời gian nghiên cứu rõ sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển
Ngành Du lịch ở nước ta chủ yếu từ 2001 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hóa; căn cứ vào
đường lối phát triển Ngành Du lịch của Đảng ta trong thời kỳ 2001- 2010.
Nguồn tài liệu chủ yếu của luận văn được sử dụng là các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, Nhà nước về du lịch Việt Nam; Chương trình hành động, các báo cáo
của Tổng cục Du lịch, của các sở du lịch, các cơng trình khoa học, các luận văn,
luận án, các bài báo, tạp chí nghiên cứu về du lịch Việt Nam.


5
Phương pháp nghiên cứu của Luận văn chủ yếu là phương pháp lịch
sử và phương pháp lôgic. Phương pháp lịch sử sử dụng làm rõ quá trình Đảng
lãnh đạo phát triển du lịch thời gian 2001-2010; phương pháp lôgic kết hợp
nhằm phân tích q trình đó, tổng kết, nêu kinh nghiệm và đề xuất phát triển
Ngành Du lịch Việt Nam trong thời gian tới.
Ngồi ra, Luận văn cịn kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp để làm cơ sở cho những nhận định khái
quát trong các phần của Luận văn.
6. Cái mới của luận văn
Nghiên cứu hệ thống quá trình phát triển và nội dung đường lối phát

triển Ngành Du lịch của Đảng; trình bày rõ thực trạng, những thành tựu và
hạn chế, nguyên nhân của quá trình Đảng lãnh đạo phát triển Ngành Du lịch
Việt Nam thời kì 2001-2010; nêu ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất
một số giải pháp nhằm phát huy sự lãnh đạo của Đảng với phát triển du lịch
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc
tế 2011-2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Về lý luận
Luận văn góp phần nghiên cứu cơ sở khách quan và sự cần thiết phát
triển ngành du lịch Việt Nam.
Góp phần tái hiện một cách hệ thống q trình hình thành, phát triển
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển ngành du lịch .
Bổ sung lý luận phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
7.2. Về thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài kiệu tổng kết của ngành du lịch và tài
liệu tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về du lịch ở các
trường trung cấp, cao đẳng, đặc biệt trong hệ thống các trường du lịch.


6
Góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra bên
ngồi; con Việt Nam có thêm tình yêu đất nước, tính cộng đồng giữa các dân
tộc anh em tình hữu nghị với nhân dân thế giới...
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
chia thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Tiềm năng du lịch Việt Nam và chủ trương của Đảng về
phát triển du lịch đến năm 2000.
Chương 2: Quá trình Đảng lãnh đạo phát triển ngành Du lịch Việt Nam
thời kỳ 2001- 2010.

Chương 3: Kinh nghiệm bước đầu và một số kiến nghị tiếp tục thực
hiện phát triển ngành Du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới.


7
Chương 1
TIỀM NĂNG DU LỊCH VIỆT NAM VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG
VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐẾN NĂM 2000
1.1. Vai trò của du lịch và tiềm năng du lịch Việt Nam
1.1.1. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển đất nước
1.1.1.1. Khái niệm
Du lịch ngày nay đã trở thành một hiện tượng văn hóa phổ biến ở mọi
quốc gia trên thế giới. Về mặt khoa học, hiện còn những định nghĩa và cách
hiểu khác nhau. Theo ngôn ngữ tiếng Anh, du lịch nghĩa đơn giản là dã ngoại:
to tour , theo tiếng Pháp: tour - du lịch nghĩa là dạo chơi, vận động ngoài trời.
Hiểu theo nghĩa rộng hơn, nhà khoa học Kuns (Thụy sĩ) cho rằng:
“Du lịch là hiện tượng những con người chỗ khác đi đến nơi không phải
thường xuyên cư trú của họ bắng phương tiện vận tải và dùng các dịch vụ
du lịch” [53, tr.29].
Hai nhà nghiên cứu người Mỹ là Mathieson và Wall định nghĩa: “Du
lịch là sự di chuyển tạm thời của con người dân đến ngoài nơi ở và làm việc
của họ, là những hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi ở và các cơ sở
vật chất tạo ra để đáp ứng nhu cầu của họ” [63, tr.11].
Kết luận của Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch năm 1963 họp ở Rôma,
Italia khẳng định “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các
hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân
và tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hịa bình. Nơi
họ đến lưu trú khơng phải là nơi làm việc của họ” [63, tr.12].
Nhà nghiên cứu Trần Nhạn định nghĩa “Du lịch là quá trình hoạt động
của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là

được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo với q
hương, khơng nhằm mục đích sinh lợi được tính bằng đồng tiền” [53, tr.30].


8
Từ điển tiếng Việt 2008 định nghĩa: “Du lịch là đi chơi đến những nơi
xa để hiểu biết thêm về phong cảnh, con người, cuộc sống” [34, tr.339].
Mục 1. Điều 4 Luật Du lịch năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam định nghĩa “ Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi
của con người ngồi nơi cư trú thường xun của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định”[34, tr.28].
Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội năm 1995 định nghĩa du lịch
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả du lịch và ngành Du lịch:
1. Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của con
người ở ngồi nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cơng trình văn hóa, nghệ thuật... v.v.
2. Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống văn
hóa dân tộc, từ đó góp phần vào tình u đất nước, đối với con
người nước ngồi là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh
tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể
coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và lao động dịch vụ tại chỗ
[69, tr.864].
Sự phát triển của ngành Du lịch gắn bó mật thiết với dịng khách du
lịch. Pháp lệnh du lịch (năm 1999) đã chỉ rõ, khách du lịch là người đi du lịch
hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để
nhận thu nhập ở nơi đến. Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách
du lịch quốc tế. Khách du lịch nội địa là công dân nước ta và nước ngoài cư
trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Cịn khách du

lịch quốc tế là người nước ngồi hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào nước ta du lịch và cơng dân nước ta, người nước ngồi cư trú tại Việt
Nam ra nước ngoài du lịch.


9
Mục 1. Điều 4 Luật Du lịch năm 2005 định nghĩa một số hoạt động
liên quan đến du lịch như:
- Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường
hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
- Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến du lịch.
- Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích
lịch sử - văn hố, cơng trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị
nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ
bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
- Tham quan là hoạt động của khách du lịch trong ngày tới thăm nơi có
tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thưởng thức những giá trị của tài
nguyên du lịch.
- Đô thị du lịch là đô thị có lợi thế phát triển du lịch và du lịch có vai
trị quan trọng trong hoạt động của đơ thị.
- Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên
du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
- Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu
tham quan của khách du lịch.
- Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở
cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ, đường hàng không.

- Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
- Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển,
lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thơng tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.


10
- Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các
dịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du
lịch chủ yếu.
- Chương trình du lịch là lịch trình, các dịch vụ và giá bán chương trình
được định trước cho chuyến đi của khách du lịch từ nơi xuất phát đến điểm
kết thúc chuyến đi.
- Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc
tồn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch.
- Hướng dẫn du lịch là hoạt động hướng dẫn cho khách du lịch theo
chương trình du lịch. Người thực hiện hoạt động hướng dẫn được gọi là
hướng dẫn viên và được thanh toán cho dịch vụ hướng dẫn du lịch.
- Phương tiện chuyên vận chuyển khách du lịch là phương tiện bảo đảm
các điều kiện phục vụ khách du lịch, được sử dụng để vận chuyển khách du
lịch theo chương trình du lịch.
- Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm
tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
- Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của
tương lai.
- Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc
văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
- Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc

với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống.
- Môi trường du lịch là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhân
văn nơi diễn ra các hoạt động du lịch.
Theo các định nghĩa trên, du lịch được hiểu theo hai nghĩa chủ yếu là
hoạt động du lịch và ngành Du lịch.


11
1.1.1.2. Vai trò của du lịch với sự phát triển đất nước
a. Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng
Du lịch là ngành kinh tế mang lại nguồn lợi về kinh tế và tinh thần ngày
một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần
kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân, mang lại thu nhập không chỉ cho những đối
tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan,
xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương.
Du lịch là ngành xuất khẩu vơ hình và cịn là ngành xuất khẩu tại chỗ
có hiệu quả kinh tế cao. Phát triển du lịch góp phần thúc đẩy giải quyết việc
làm cho người lao động đồng thời tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế có
liên quan cùng phát triển cũng như sự phát triển của các vùng miền của Tổ
quốc góp phần đa dạng hố sản phẩm của đất nước tạo điều kiện khai thác tốt
tiềm năng của đất nước.
Du lịch được xem xét là ngành kinh tế có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế của nhiều quốc gia. Có nhiều nhà kinh tế dự đốn thế kỉ XXI là thế kỉ
của ngành dịch vụ, trong đó phát triển kinh tế du lịch đóng vai trị to lớn. Phát
triển kinh tế du lịch có vai trị rất quan. Phát triển du lịch quốc tế sẽ làm tăng
nhanh nguồn thu nhập ngoại tệ cho địa phương và cho nền kinh tế đất nước.
Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định du lịch là ngành lớn nhất thế giới
tính theo thu nhập. Du lịch là ngành đứng đầu về thu thuế, là ngành có khả
năng nhất về tạo cơng ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp cho người lao động,

đặc biệt là thanh niên mới lập nghiệp và phụ nữ. Hội đồng Du lịch và Kinh
doanh Du lịch thế giới ước tính: “Du lịch và kinh doanh du lịch tạo ra cho
144 triệu việc làm trên thế giới từ 2000- 2005... Số tiền trả cho các chuyến du
lịch sẽ tăng từ 450 tỷ USD năm 1998 lên 555 tỷ USD năm 2000 và 1500 tỷ
USD vào năm 2010. Như vậy sau 20 năm nữa du lịch rất có thể trở thành
ngành kinh tế phát triển mạnh hàng đầu thế giới” [34, tr.75].
Theo số liệu của Tổ chức du lịch thế giới: Năm 1950 tồn thế giới có
25 triệu du khách, năm 1996 có 592 triệu và năm 2000, con số này tăng lên


12
637 triệu. Trong vòng 36 năm (1960-1996), thu nhập du lịch của thế giới tăng
lên 62 lần, từ 6, 8 tỷ USD năm 1960 tăng lên 423 tỷ USD năm 1996
Du lịch Việt Nam cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập: năm
1990 thu nhập về du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2009, con số đó
ước đạt 70.000 tỷ đồng, gấp trên 50 lần.
Trong mọi quốc gia, hiệu quả kinh tế - xã hội, làm giàu cho xã hội của
hoạt động du lịch ngày càng rõ nét. Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ
trọng GDP của ngành Du lịch trong khu vực dịch vụ. Ở đâu du lịch phát triển,
ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, môi trường sạch đẹp hơn,
đời sống nhân dân được cải thiện.
Du lịch tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ sản
xuất trong nước, thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục nhiều lễ hội
và nghề thủ cơng truyền thống; góp phần vào sự phát triển của ngành giao
thơng vận tải, nhất là hàng khơng; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và vươn
lên làm giàu, mở rộng giao lưu văn hóa- thơng tin giữa các vùng, miền trong
nước và với nước ngồi.
Điểm mấu chốt là thơng qua du lịch đã kích cầu có hiệu quả cho các
ngành kinh tế khác phát triển. Thông qua du lịch các ngành kinh tế-xã hội

khác phát triển; mở thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho các ngành
khác, thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức
xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Thông qua du lịch mà môi trường tự
nhiên được cải thiện tốt hơn lên. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, giao
thông, xây dựng, viễn thơng, văn hố nhờ phát triển du lịch mà những năm
qua đã có thêm động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế - xã hội được
cải thiện và nâng lên trình độ cao hơn.
b. Du lịch với chính trị, văn hóa, đối ngoại
Khơng chỉ có ý nghĩa kinh tế, văn hóa, du lịch có ý nghĩa tích cực đối
với các mặt chính trị, xã hội. Sự phát triển kinh tế du lịch sẽ tạo điều kiện


13
giúp cho du khách ngày càng có sự hiểu biết sâu rộng về đất nước, con người,
truyền thống, lịch sử, văn hoá của các dân tộc trên thế giới. Từ đó làm tăng
cường tình đồn kết hữu nghị giữa các dân tộc nhằm mục đích hồ bình và
tiến bộ xã hội. Phát triển du lịch góp phần vào việc mở rộng và củng cố mối
quan hệ đối ngoại. Hình ảnh của mỗi nước, thông qua hoạt động du lịch là
thông điệp gần gũi chuyển tải đến bạn bè thế giới làm tăng sự hiểu biết của
nhân dân thế giới về đất nước ấy.
Thông qua tiếp xúc với con người nơi khác, dân tộc khác, tuy vẫn có
tác động tiêu cực về lối sống “sính ngoại”, về tác động tiêu cực về mơi
trường, về truyền bá văn hóa phẩm độc hại..., nhưng qua du lịch con người lại
củng cố thêm lòng tự hào, tự tơn dân tộc. Về mặt nào đó, thông qua du lịch
mà ý thức đảm bảo an ninh quốc phịng và trật tự an tồn xã hội của mỗi
người dân được nâng lên rõ rệt.
Du lịch là “giấy thơng hành của hịa bình”, là cầu nối hịa bình giữa các
dân tộc. Du lịch đến một nước, khách du lịch, trước hết có tình u, niềm tin
tưởng vào sự an tồn, sự n bình và quốc gia đó. Thơng qua du lịch, con
người có sự cảm thơng, q trọng lẫn nhau, xích lại gần nhau hơn, tình đồn

kết giữa các dân tộc trong nước và tình hữu nghị với nhân dân các nước có
điều kiện phát triển.
Hoạt động du lịch phát triển đã kéo theo sự mở rộng giao lưu kinh tế
văn hoá giữa các vùng, miền và với quốc tế, góp phần giáo dục truyền thống
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, củng cố, bồi đắp kiến thức và rèn
luyện, bồi dưỡng thể chất, tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư.
Du lịch thúc đẩy, mở rộng giao lưu văn hoá và nâng cao dân trí, phát
triển nhân tố con người. Hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo,
trùng tu các di tích, di sản và nâng cao ý thức, trách nhiệm giữ gìn, phát triển
di sản văn hố vật thể và phi vật thể; khôi phục lễ hội, làng nghề truyền thống,
truyền tải giá trị văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế...


14
Nguồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của mỗi dân tộc, mỗi vùng, miền
được dịp quảng bá, giới thiệu.
Qua du lịch, mơi trường văn hóa của đât nước phát triển nhanh hơn. Các
di tích văn hóa lịch sử, những tình cảm, kỷ niệm tốt đẹp, những cách ứng xử
văn minh, lịch sự trong các hoạt động du lịch lạo nên tình cảm tốt đẹp của con
người. Thông qua các hoạt động du lịch mà con người vừa giải trí, vừa củng cố
hiểu biết lẫn nhau. Sự giao tiếp văn hóa du lịch gắn với khung cảnh tự nhiên
tươi đẹp làm cho sự hiểu biết về văn hóa dân tộc và giao lưu văn hóa với nước
ngồi ngày càng mở rộng.
1.1.2. Tiềm năng du lịch của Việt Nam
1.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi phát triển kinh tế sôi động và có
nhiều tiềm năng du lịch, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
du lịch. Đó là sự đa dạng của tài nguyên thiên nhiên (bãi biển, hang động,
đảo, nước khoáng, lớp thảm thực vật, động vật quý hiếm, nhiều cảnh quan
thiên nhiên độc đáo...là điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch với thời

gian dài, ngắn khác nhau.
- Địa hình có ý nghĩa đặc biệt đối với du lịch. Ở nước ta, về đại thể,
các dạng địa hình đặc biệt chủ yếu gồm có địa hình Karst (đá vơi), địa hình
bờ biển và địa hình đảo. Địa hình Karst thường tạo nên những điểm du lịch
hấp dẫn.
Bờ biển nước ta dài khoảng 3.260 km với nhiều cảnh quan phong phú,
đa dạng, có nhiều bãi tắm tốt cịn ở dạng sơ khai, chưa bị ơ nhiễm, độ dốc trung
bình 2 - 30 độ, là một tiềm năng rất có giá trị cho du lịch biển, nghỉ dưỡng và
vui chơi giải trí, được tập trung chủ yếu ở miền Trung. Các bãi biển nổi tiếng:
Trà Cổ, Bãi Cháy, Cát Bà, Cửa Lò, Vân Phong, Nha Trang, Vũng Tàu…
Nước ta có hơn 3.000 nghìn hịn đảo lớn nhỏ, trong đó nhiều đảo có
cảnh quan đẹp đã được đưa vào khai thác phục vụ du lịch: Quan Lạn, Cát Bà,
Phú Quốc, Côn Đảo, Bạch Long Vĩ, đặc biệt là Hạ Long…


15
- Khí hậu nhiệt đới gió mùa nước ta tương đối thích hợp với cuộc sống
con người. Biên độ nhiệt trung bình năm cao nhất khơng q 15 độ C. Từ Nha
Trang trở vào độ nhiệt trong ngày khoảng 5 độ C và ở Nam Bộ từ 2 - 3 độ C.
Lượng mưa khá lớn từ 1.500 đến 2.000 mm/năm. Trở ngại chính ảnh hưởng
tới du lịch: Bão chủ yếu ở các miền duyên hải, vùng biển và hải đảo; gió mùa
đơng bắc vào mùa đơng; gió bụi mùa khơ; lũ lụt mùa mưa và một số hiện
tượng thời tiết đặc biệt.
Tài nguyên nước phục vụ cho du lịch gồm nước trên mặt, nước dưới
đất và nước khoáng. Đối với du lịch, nước trên mặt có giá trị quan trọng
khơng chỉ cung cấp cho nhu cầu của các khu du lịch, mà cịn tạo ra các loại
hình du lịch đa dạng như du lịch hồ, du lịch sông nước…
Mạng lưới sơng ngịi của nước ta dày đặc. Có giá trị hơn cả là mạng
lưới sơng ngịi ở đồng bằng sơng Cửu Long (có ý nghĩa đối với loại hình du
lịch sông nước) và một vài sông khác (sông Hương, sông Hàn, sơng Hồng…).

Nước ta có nhiều hồ với nguồn gốc khác nhau (tự nhiên hoặc nhân tạo)
có giá trị về du lịch. Có thể kể ra một số hồ như hồ Tây (Hà Nội), hồ Đồng
Mơ (Hà Nội), hồ Hồ Bình (Hồ Bình), hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc), hồ Ba Bể
(Bắc Kạn), Dầu Tiếng (Tây Ninh), các hồ ở Đà Lạt (Lâm Đồng)…
Tài ngun nước khống có giá trị đặc biệt đối với du lịch. Nước khoáng
là nước thiên nhiên (chủ yếu ở dưới đất), chứa một số thành phần vật chất đặc
biệt (các yếu tố hoá học, nguyên tố phóng xạ, khí…), hoặc một số tính chất vật
lý (nhiệt độ…) có tác dụng cho sức khoẻ con người. Một trong những cơng
dụng quan trọng của nước khống là chữa bệnh và gắn với nó là loại hình du
lịch chữa bệnh. Nước ta đã phát hiện được khoảng hơn 400 nguồn nước
khống tự nhiên thuộc các nhóm khống Cacbonic, Silic, Brôm - Iôt …
Tài nguyên sinh vật: Thị hiếu về du lịch sinh thái ngày càng trở nên đa
dạng. Việt Nam nằm ở nơi gặp gỡ giữa các luồng di cư động thực vật, vì thế
tài nguyên sinh vật của nước ta rất phong phú và đa dạng không những có ý


16
nghĩa kinh tế mà cịn có giá trị về du lịch, nhất là tài nguyên rừng. Diện tích
rừng che phủ ở nước ta khoảng 37% (năm 2006), chủ yếu tập trung ở Bắc
Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đã thống kê được hơn
800 loài cây gỗ, 332 loài thú, trên 1.000 loài chim và 330 loài bị sát, trong đó
có nhiều lồi q hiếm. Nước ta đã thành lập được 105 khu bảo tồn thiên
nhiên, bao gồm 27 vườn quốc gia, 44 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng
văn hố, lịch sử, mơi trường [35, tr. 26].
Tài nguyên du lịch nước ta phân bố tương đối tập trung, hình thành các
vùng du lịch điển hình trong tồn quốc. Mỗi vùng du lịch có một sắc thái
riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, khơng lặp lại giữa vùng này
với vùng khác. Có nhiều vùng gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan
trọng tạo thuận lợi cho việc đi lại, thăm viếng, ăn ở, không làm cho khách du
lịch nhàm chán.

Nhiều lãnh thổ du lịch của Việt Nam, nếu được qui hoạch và đầu tư
thích đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn, có thể cạnh tranh với các
nước trong khu vực và thế giới. Đó là trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận
(Ninh Bình, Phú Thọ, Hồ Bình…), vùng biển Hạ Long - Cát Bà - Đồ Sơn
(Quảng Ninh - Hải Phòng), vùng Đại Lãnh, Vân Phong, Nha Trang (Khánh
Hoà), đảo Phú Quốc (Kiên Giang), Huế - Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh
và đồng bằng sơng Cửu Long…
1.1.2.2. Tài ngun về di tích lịch sử - văn hố
Di tích lịch sử - văn hố là tài nguyên quan trọng hàng đầu của du lịch.
Cho đến nay cả nước có khoảng 4 vạn di tích các loại, trong đó có 2.715 di
tích được Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch xếp hạng. Đặc biệt đã có những di
tích lịch sử - văn hố được UNESCO công nhận là di sản của nhân loại: cố đô
Huế (năm 1993), phố cổ Hội An (năm 1999), thánh địa Mỹ Sơn (năm 1999),
Hoàng Thành Thăng Long, Phong Nha Kẻ Bàng(Quảng Bình)… Ngồi ra cịn
một số di tích khác đang đề nghị UNESCO công nhận, như chùa Hương (Hà
Nội), bãi đá cổ Sa Pa (Lào Cai)… [33, tr.42].


17
Lễ hội Việt Nam hấp dẫn du khách không kém gì các di tích lịch sử văn hố. Việt Nam là một dân tộc có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều
quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hố mang bản sắc riêng.
Chính những nét riêng đó đã làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc dân tộc
Việt Nam.
Trong kho tàng văn hoá của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là loại
hình văn hố rất đặc trưng ở Việt Nam. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hố
dân gian có mặt hầu như khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách
ngày nay hàng nghìn năm vẫn được giữ gìn và duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao
giờ cũng hướng tới một đối tượng linh thiêng cần suy tôn là nhân thần hay
thiên thần. Sự linh thiêng đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao
đẹp của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm

tạo dựng cho mỗi con người một cuộc sống tốt lành, yên vui.
Lễ hội truyền thống của Việt Nam chính là dịp để con người giao lưu
cộng cảm, trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao đẹp.
Nó mang lại cho con người sự thanh thản chốn tâm linh, gạt bỏ hay quên đi
những lo toan thường nhật để hướng tới những việc thiện. Nước ta có rất
nhiều lễ hội, với quy mô và thời gian dài ngắn khác nhau, thường tập trung
vào tháng Giêng, tháng Hai (âm lịch) hàng năm. Lễ hội thường gắn với các
sinh hoạt văn hoá dân gian như hát đối đáp của dân tộc Mường; múa xoè, ném
còn của dân tộc Thái; hát sli, hát lượn, hát then của dân tộc Nùng; lễ hội đâm
trâu, hát trường ca của một số dân tộc ở Tây Nguyên… Trong chào đón giao thừa
khi đất nước bước sang thiên niên kỷ mới, năm 2000 Bộ Văn hóa Thơng tin (nay
là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) đã chọn 15 lễ hội tiêu biểu của các địa
phương trong cả nước. Đó là các lễ hội: Đền Gióng (Hà Nội), Chùa Hương (Hà
Nội), Phủ Giày (Nam Định), Đền Hùng (Phú Thọ), Trường Yên (Ninh Bình), Yên
Tử (Quảng Ninh), Tây Sơn (Bình Định), Hội đâm trâu (Tây Nguyên), Hội đua bị
(An Giang), Hội đua thuyền (Sóc Trăng), Hội chọi trâu (Đồ Sơn), lễ Nghinh
Ông (Bà Rịa - Vũng Tàu), Katê (Ninh Thuận),…[33, tr.68].


18
- Văn hoá dân tộc là đối tượng hấp dẫn khách du lịch. Nước ta có 54
dân tộc với những phong tục, tập quán độc đáo, các hoạt động văn hoá - nghệ
thuật đa dạng và rất đặc sắc. Nước ta cịn có hàng trăm làng nghề thủ cơng
truyền thống, những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc…, những thứ đó khách
du lịch rất u thích và thường ca ngợi.
Nước ta cịn có 117 bảo tàng, trong đó có 6 bảo tàng Trung ương; 79
bảo tàng tỉnh và thành phố; 32 bảo tàng chuyên ngành (có 24 bảo tàng thuộc
lực lượng vũ trang). Tổng số hiện vật đang lưu giữ là 1.997.701, trong đó
87.515 hiện vật đã được trưng bày và 608.886 hiện đang được kiểm kê khoa
học (gồm cả 489 trống đồng).

Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, lao động có kỹ thuật, thơng minh,
thân thiện trong giao tiếp, cần cù trong lao động bước đầu đã tiếp cận và làm
quen với các hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế. Việc phát triển du lịch,
trong tương lai sẽ tạo nhiều việc làm cho đất nước. Với tất cả những thuận lợi
đó, có thể khẳng định Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng du
lịch rất lớn và ngày càng phát triển.
1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển du lịch và thực trạng du
lịch Việt Nam đến năm 2000
1.2.1. Chủ trương của Đảng và thực trạng du lịch
Việt Nam 1960-1986
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng
Trước năm 1960, trong hồn cảnh đất nước có chiến tranh, Đảng, Nhà
nước ta chưa có điều kiện phát triển du lịch.Tuy nhiên, để chuẩn bị lâu dài,
Đảng và Nhà nước đã thành lập Công ty Du lịch Việt Nam ngày 9 -7 -1960,
Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/NĐ-CP thành lập Công ty
Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương, mở đầu cho sự hình thành và
phát triển của Ngành Du lịch Việt Nam.


19
Sau ngày đất nước thống nhất, hoạt động du lịch có bước phát triển
mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 121976) khẳng định: “Coi trọng phát triển kinh doanh du lịch, tổ chức tốt việc
cung ứng cho tàu biển nước ngoài và các dịch vụ khác” và “Trong các ngành
phục vụ, Nhà nước nắm kinh doanh khách sạn và các công ty du lịch, nhanh
chóng quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở du lịch, nghỉ mát, tổ chức thành
những đơn vị kinh doanh”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3-1982) nêu rõ :“Mở rộng
kinh doanh du lịch, làm cho du lịch dần dần trở thành một ngành kinh tế quan
trọng, xứng đáng với tiềm năng của nước ta về lĩnh vực này” [29, tr.76]. Do
những khó khăn khách quan và nguyên nhân chủ quan, những quan điểm phát

triển du lịch đó chưa có điều kiện thực hiện đầy đủ.
1.2.1.2. Thực trạng du lịch Việt Nam
Thời gian đầu từ năm 1960 đến 1975, Du lịch Việt Nam hoạt động chủ
yếu là đón tiếp các đồn khách của Đảng và Nhà nước phục vụ cho quan hệ hợp
tác quốc tế, góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam và xây dựng đất nước.
Tháng 6-1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập và trực
thuộc Hội đồng Chính phủ, mở ra một trang mới cho ngành Du lịch Việt Nam
phát triển cả về thế và lực. Với chức năng và nhiệm vụ đón tiếp và phục vụ
khách du lịch quốc tế đến từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước
u chuộng hịa bình trên thế giới.
Du lịch Việt Nam trước 1986 đã bước đầu góp phần đáng kể trong việc
quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và tuyên truyền quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ đối ngoại.
1.2.2. Chủ trương của Đảng và thực trạng du lịch Việt
Nam (1986 – 2000)
1.2.1.1. Chủ trương của Đảng


20
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) khởi xướng
cơng cuộc đổi mới tồn diện trên đất nước ta xác định: “Nhiệm vụ bao trùm,
mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo” [27, tr.42].
Đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng là chuyển trọng tâm từ ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng sang thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại;
coi đó là nội dung cơng nghiệp hóa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng xác định xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập

trung quan liêu, phát triển kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong phát triển du lịch, Đảng khẳng định: “Đi đôi với đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá, chúng ta hết sức coi trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
phát triển các hoạt động thu ngoại tệ như du lịch, kiều hối, cung ứng tàu biển,
dịch vụ hàng khơng... Xóa bỏ ngay những chế độ, thể lệ, những thủ tục phiền hà
đang gò bó, hạn chế những hoạt động này”. “Phát triển rộng rãi các hoạt động
dịch vụ. Nhanh chóng khai thác các điều kiện thuận lợi của đất nước để mở
mang du lịch bằng nguồn vốn đầu tư trong nước và hợp tác quốc tế” [27, tr.179].
Đại hội VII xác định đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Từ đó các
quan hệ đối ngoại của nước ta được rộng mở. Việt Nam tham gia vào các tổ
chức quốc tế và khu vực càng thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của ngành
Du lịch. Văn kiện Đại hội VII nêu rõ: “Khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên,
di sản văn hoá phong phú và các lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác
với nước ngoài để phát triển mạnh du lịch” [27, tr.350].


21
Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII (101994) khẳng định du lịch là ngành kinh tế có tính tổng hợp, liên ngành, liên
vùng và có tính xã hội hóa cao. Du lịch khai thác lợi thế tổng hợp của đất
nước và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử và mọi
nguồn lực của nền kinh tế. Hoạt động du lịch có mối quan hệ và ảnh hưởng
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phịng,
văn hóa- xã hội, mơi trường sinh thái... Vì vậy, phát triển du lịch là nhiệm vụ
và trách nhiệm của các ngành, các cấp “Phát triển du lịch là một hướng chiến
lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước” [1, tr.2].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) là bước ngoặt

quan trọng trên con đường đổi mới của Đảng. Đại hội tổng kết 10 năm thực
hiện công cuộc đổi mới và khẳng định: Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua
đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do
Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991- 1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững
chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hố đã cơ bản được hồn thành, cho phép chuyển sang thời
kỳ mới đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội xác định phương hướng của cách mạng nước ta là tiếp tục nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Mục tiêu của cơng
nghiệp hố, hiện đại hố là xây dựng nước ta thành một cơng nghiệp có cơ sở
vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.


22
Về phát triển du lịch, Đại hội VIII khẳng định: “Phát triển mạnh du lịch,
từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực”.
Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương
xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch
văn hóa, sinh thái mơi trường. Xây dựng các chương trình và các
điểm du lịch hấp dẫn về văn hóa, di tích lịch sử và khu danh lam
thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu
tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung, ở các
trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hóa và chất lượng dịch vụ phù
hợp với các loại khách du lịch khác nhau. Đẩy mạnh việc huy động
vốn trong nước đầu tư vào khách sạn. Cổ phần hóa một số khách sạn

hiện có để huy động các nguồn vốn vào việc đầu tư cải tạo, nâng cấp.
Liên doanh với nước ngoài xây dựng các khu du lịch và các khách sạn
lớn, chất lượng cao, đòi hỏi nhiều vốn. Chuyển các nhà nghỉ, nhà
khách sang kinh doanh khách sạn và du lịch [27, tr.568-569].
Thực hiện quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, năm
1999 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Du lịch thể chế hoá đường lối phát
triển du lịch của Đảng, là khung pháp lý cao nhất, là bước ngoặt quan trọng
khẳng định vai trò của ngành và tạo điều kiện cho hoạt động du lịch phát triển
đi vào nề nếp và có định hướng phát triển rõ rệt.
1.2.1.2. Thực trạng du lịch Việt Nam đến năm 2000
Thực hiện tư duy mới mà Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
VI(1986) đề ra, ngành Du lịch đã có những chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ
máy quản lý thống nhất ở cấp nhà nước là Tổng cục Du lịch. Công tác quản lý
Nhà nước về du lịch được tăng cường. Qui hoạch tổng thể về du lịch khẩn
trương thực hiện. Hệ thống doanh nghiệp được xắp xếp lại theo hướng chun
mơn hố ngành nghề; cơ sở vật chất từng bước được nâng cấp và tích cực xây
dựng mới. Nhìn chung trong giai đoạn này với sự đổi mới của đất nước ngành


23
Du lịch cũng có những chuyển biến tích cực thể hiện là một ngành mang tính
mũi nhọn và có định hướng cho tương lai.
Tháng 11-1992, Tổng cục Du lịch được thành lập lại, là cơ quan thuộc
Chính phủ, với hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương gồm 15 Sở
Du lịch, 2 Sở Du lịch - Thương mại, 46 Sở Thương mại - Du lịch và 01 Sở
Ngoại vụ - Du lịch. Hàng trăm doanh nghiệp du lịch quốc tế và nội địa ở các
địa phương trên cả nước ra đời và đi vào hoạt động. Hoạt động du lịch bắt đầu
có bước chuyển mới. Năm 1990, tồn ngành Du lịch Việt Nam có hơn 17.000
lao động trực tiếp, đã đón hơn 200.000 lượt khách quốc tế.
Từ sau Đại hội VII, nhờ chính sách đổi mới, đã diễn ra sự “bùng nổ” du

lịch với tốc độ tăng trưởng nhanh về số lượng khách. Năm 1990 nước ta mới
đón được 25 vạn lượt khách, cuối tháng 12- 1994 người khách quốc tế thứ 1,0
triệu đã bước chân xuống sân bay Nội Bài (Hà Nội).
Do mức sống của một bộ phận dân cư được cải thiện nhờ thích ứng với
cơ chế thị trường, sau những ngày lao động căng thẳng, con người cần nghỉ
ngơi, du lịch để phục hồi sức khoẻ. Số khách du lịch nội địa ở nước ta liên tục
tăng lên từ khoảng 1 triệu người năm 1990 đến 11,2 triệu năm 2000.
Cùng với sự gia tăng về số lượng khách cũng như thời gian lưu trú và
mức độ chi tiêu của khách; doanh thu của ngành Du lịch nước ta liên tục tăng
từ con số 650 tỷ đồng năm 1990 lên17.400 tỷ đồng năm 2000.
Cơ sở lưu trú có những chuyển biến rõ rệt trong những năm qua theo
hướng nâng cấp các cơ sở hiện có và xây dựng các cơ sở mới bằng nguồn
vốn trong nước hoặc từ nước ngoài. Cùng với sự gia tăng về số lượng
khách cũng như nhu cầu ngày càng cao của khách mà số cơ sở lưu trú cũng
ngày càng tăng lên về số lượng cũng như chất lượng. Năm 2000 cả nước có
3.050 khách sạn với tổng số 66.000 phòng phục vụ du khách. Tuy nhiên ,
trong số khách sạn đó, đến năm 2000 chỉ có chưa đầy 300 khách sạn được
xếp hạng (từ 1 đến 5 sao).


24
Các cơ sở vui chơi giải trí đóng vai trị quan trọng trong việc kéo dài
thời gian lưu trú của khách và tăng hiệu quả kinh doanh. Song nhìn chung,
đây là một khâu còn yếu trong các hoạt động kinh doanh du lịch ở nước ta.
Các khu vui chơi giải trí thường có quy mơ nhỏ, hình thức đơn điệu, thiếu hấp
dẫn và chưa đủ để phục vụ nhu cầu của dân cư địa phương.
Số lượng lao động trực tiếp trong ngành Du lịch tăng nhanh để đáp
ứng nhu cầu của sự phát triển, từ hơn 3,5 vạn năm 1992 lên 15 vạn năm
2001. Tuy nhiên, trừ một số cơ sở ở các thành phố lớn (Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…), cịn lại số lượng và nhất là chất lượng lao động

có nhiều hạn chế.
Việc phát triển du lịch có liên quan đến nguồn vốn đầu tư. Ở nước ta
sau khi Luật Đầu tư ra đời, số vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam tăng
lên nhanh chóng, đầu tư trực tiếp nước ngồi vào ngành du lịch là 230 dự án
với tổng số vốn đăng kí đạt hơn 7,4 tỉ, trong đó vốn pháp định gần 2,8 tỉ USD.


×