Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Nghiên cứu hiệu quả dự án FDI theo định hướng phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
PGS.TS. Nguyễn Hoàng Việt
TS. Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt

SÁCH THAM KHẢO

HIỆU QUẢ DỰ ÁN FDI
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI - 2021


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

GIẢI NGHĨA

1

CSHT

Cơ sở hạ tầng

3

CNTT

Cơng nghệ thơng tin



2
4
5
6
7
8
9

10
11

12
13
14
15
16
17
18

CNH - HĐH
CPH
DN

DNNN
ĐT

ĐTNN
ĐP


FDI
IT

KCN

KCNC
KKT

KT-XH
PCI

UBND
R&D

Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
Cổ phần hóa

Doanh nghiệp

Doanh nghiệp nhà nước
Đầu tư

Đầu tư nước ngồi
Địa phương

Đầu tư trực tiếp nước ngồi
Cơng nghệ thơng tin
Khu công nghiệp

Khu công nghệ cao

Khu kinh tế

Kinh tế - xã hội

Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân

Nghiên cứu và phát triển

2


LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) có ảnh hưởng trực tiếp đến
phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt có vai trị quan trọng đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam. FDI tăng cường đáng kể
nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, cung cấp các trang thiết bị, công
nghệ mới, tạo công ăn việc làm cho người lao động và góp phần
khơng nhỏ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Theo số liệu
từ Tổng cục thống kê, trong giai đoạn 2010 - 2019, FDI đã cung
cấp một lượng vốn trung bình lên tới 313.543 tỷ đồng/năm và giải
quyết nhu cầu việc làm cho khoảng 2,8 triệu lao động mỗi năm, và
đóng góp khoảng 70% trong tổng xuất khẩu cả nước. Tốc độ tăng
trưởng của FDI là 3% sẽ kéo theo GDP tăng trưởng 1%, cịn trong
khu vực Đơng Nam Á, FDI đóng góp 17% vào tăng trưởng kinh tế
của một số nước trong khu vực (Ameen và Khalid, 2015).

Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra đối với các nước chủ nhà có
nền kinh tế cịn kém phát triển, FDI thơng thường gắn với các
ngành khai thác tài nguyên, nông nghiệp, chế biến - chế tạo, dịch

vụ, các ngành công nghiệp được bảo hộ, các ngành công nghiệp
gây ô nhiễm và lĩnh vực bất động sản (Chakraborty và Nunnenkamp,
2008; Hitam và Borhan, 2012; Alvarado và các cộng sự, 2017).
Đây là cơ cấu đầu tư bất hợp lý bởi các ngành khai thác tài ngun
là các ngành khơng có sức lan tỏa, tạo điều kiện cho các ngành
công nghiệp phụ trợ phát triển; đặc biệt các ngành cơng nghiệp
gây ơ nhiễm thì lợi nhuận nước ngồi hưởng cịn hậu quả thì nước
nhận FDI gánh chịu. Thách thức chủ yếu đối với các quốc gia
3


đang phát triển này là phải tìm được giải pháp thu hút có chọn lọc
FDI mà đảm bảo được phát triển bền vững, không lặp lại những sai
lầm của các q trình tăng trưởng nhanh nhưng khơng bền vững,
đã gây nên những xung đột lớn, phải trả giá về môi trường sinh thái
và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.

Hiệu quả của dự án FDI cần quan tâm đến mục tiêu phát triển
bền vững của nền kinh tế, của địa phương theo cả 3 tiêu chí: Lợi
ích kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường (Narula, 2012; Ridzuan
và các cộng sự, 2017; Melane-Lavado và các cộng sự, 2018). Lợi
ích kinh tế là khi nguồn vốn FDI một khi được tiến hành đầu tư thì
phải đảm bảo lợi ích cho cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư.
Đối với nước đầu tư khi tiến hành đầu tư phải nhận được các lợi
ích kinh tế như nguồn lao động và nguyên vật liệu rẻ hơn, tạo ra
được lợi nhuận trong quá trình đầu tư. Đối với nước tiếp nhận đầu
tư phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và bền vững; phát
triển sản xuất theo hướng thân thiện mơi trường, cơng nghiệp hóa,
phát triển nơng nghiệp - nông thôn bền vững, phát triển công
nghiệp sạch. Lợi ích xã hội đòi hỏi thực hiện đồng bộ các biện

pháp nhằm các mục tiêu: tiến bộ và công bằng xã hội; xóa đói giảm
nghèo; giải quyết việc làm, tăng thu nhập; nâng cao chất lượng
giáo dục, nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức
khỏe,… Cuối cùng dự án FDI cần đảm bảo mục tiêu bảo vệ môi
trường, xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng
mơi trường, phịng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác tài nguyên
bừa bãi.

Việt Nam trong giai đoạn vừa qua được biết đến như một
điểm sáng về thu hút FDI trong khu vực với các dự án từ hơn 100
quốc gia, vùng lãnh thổ với tổng số vốn đầu tư lũy kế đến hết 2019
đạt 454 tỷ USD với 33.921 dự án (Tổng cục Thống kê, 2020). FDI
không chỉ đem lại vốn đầu tư mà cả công nghệ tiên tiến, năng lực
4


quản lý và kiến thức thị trường cho Việt Nam, góp phần nâng tầm
các ngành cơng nghiệp và tăng trưởng kinh tế (Đào Thị Bích Thủy,
2012; Nguyễn Minh Tiến, 2014). Đến cuối năm 2019, khu vực FDI
đã đóng góp 20,3% GDP của Việt Nam so với 10% năm 2000;
nguồn vốn này cũng đóng góp 22,93% tổng vốn đầu tư tồn xã hội
và tạo ra hàng triệu việc làm, tương đương với 8,6% lực lượng lao
động trong nước. Riêng năm 2019, tổng vốn FDI vào Việt Nam đạt
38,95 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm 2018, với 20,38 tỷ USD vốn
giải ngân được, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.

Bên cạnh những đóng góp khơng nhỏ trong phát triển kinh tế xã hội thì những bất cập, hệ lụy mà khu vực FDI để lại cho Việt Nam
cũng đáng lo ngại, nổi cộm là tình trạng ơ nhiễm mơi trường (Trần
Thị Tuyết Lan, 2014). Đỉnh điểm là thảm họa môi trường tại 4 tỉnh
miền Trung vào tháng 4/2016 do Công ty TNHH gang thép Hưng

Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Đài Loan) gây ra. Hay như trường hợp
Công ty Tung Kuang (Hải Dương) xả thải ra sông Ghẽ, Công ty Mei
Sheng Textiles Việt Nam xả thải sản phẩm nhuộm trực tiếp vào hồ
Đá Đen - nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 1 triệu người dân
trong tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Công ty Huyndai - Vinashin xả thải
ra vịnh Vân Phong,… Hầu hết các dự án FDI vào các khu kinh tế
(KKT), khu công nghiệp (KCN) ở các địa phương đều tập trung vào
các ngành cơng nghiệp có mức độ ơ nhiễm cao như dệt nhuộm,
luyện cán thép, sản xuất phụ tùng ơ tơ,... Bên cạnh đó, các báo cáo
cũng chỉ ra mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ
nguồn) cũng như chuyển giao công nghệ của FDI chưa đạt được như
kỳ vọng. Theo thống kê, có khoảng 80% dự án FDI vào Việt Nam
sử dụng công nghệ trung bình của thế giới. Khả năng kết nối kinh
doanh giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn mờ nhạt. Kết
quả là, vẫn chưa thấy rõ hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất
lao động từ các đối tác nước ngoài đến các DN trong nước.
5


Phát triển bền vững hiện là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ
Việt Nam (Trần Thị Tuyết Lan, 2014). Ngày 12/4/2012, Thủ Tướng
Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020 xác định mục tiêu tăng trưởng bền vững,
giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi
trường. Ngày 25/9/2012 Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
nhấn mạnh quan điểm nhất quán của Chính phủ Việt Nam là sẽ tiếp
tục thực hiện nhiều giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nhưng không phải là tăng trưởng bằng mọi giá, hay đánh đổi môi
trường để lấy tăng trưởng trong ngắn hạn, mà phải là tăng trưởng
xanh và bền vững. Tuy nhiên muốn tăng trưởng xanh, phải bắt đầu

từ đầu tư xanh. Huy động nguồn vốn cho phát triển nhanh và bền
vững đang đặt ra thách thức lớn đối với Việt Nam. Ngày 29/8/2013,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 103/NQ-CP, theo đó u cầu
cần hồn thiện mơi trường đầu tư và tăng cường quản lý nhà nước
(QLNN) đối với khu vực FDI để các dự án này hoạt động hiệu quả
hơn theo hướng phát triển bền vững. Gần đây, Chính phủ cũng ban
hành Nghị quyết số 136/NQ-CP ngày 25/9/2020 về phát triển bền
vững, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và tác động đa diện của
nó trên tồn cầu, nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát
triển bền vững của Việt Nam trong các ngành, các cấp và các địa
phương từ nay đến năm 2030. Trong đó nhấn mạnh cần bố trí, huy
động và tăng cường nguồn lực tài chính thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững bao gồm cả FDI. Đặc biệt, lần đầu tiên sau 30
năm thu hút vốn FDI, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50NQ/TW để định hướng hồn thiện thể chế, chính sách, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hợp tác ĐTNN đến năm 2030. Nghị quyết
được kỳ vọng sẽ mở ra một kỷ nguyên mới trong thu hút FDI, giúp
Việt Nam thu hút được một thế hệ FDI mới có chất lượng cao hơn.
6


Nhằm mục đích cung cấp những kiến thức có tính cập nhật và
chọn lọc về phân tích hiệu quả các dự án FDI theo định hướng phát
triển bền vững phù hợp với đặc điểm và thực tiễn môi trường kinh
doanh Việt Nam, nhóm biên soạn gồm các nhà khoa học của
Trường Đại học Thương mại đã nghiên cứu và xuất bản cuốn sách
tham khảo “Hiệu quả dự án FDI theo định hướng phát triển bền
vững nền kinh tế Việt Nam” làm tài liệu học tập và nghiên cứu
trong Trường. Sách tham khảo được kết cấu thành 5 phần lớn,
gồm:


Phần I. Thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngồi ở
Việt Nam.

Phần II. Mơ hình đánh giá hiệu quả dự án FDI theo định
hướng phát triển bền vững.

Phần III. Đánh giá hiệu quả dự án FDI theo định hướng phát
triển bền vững nền kinh tế Việt Nam

Phần IV. Bối cảnh quốc tế, trong nước, quan điểm và định
hướng thu hút và sử dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Phần V. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo định hướng phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam.

Cuốn sách được biên soạn dưới sự chủ biên của PGS.TS.
Nguyễn Hoàng Việt và TS. Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt với sự tham
gia biên soạn của các thành viên như sau:

TS. Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt, Ths. Lê Trâm Anh: biên soạn
Phần I.

PGS.TS. Nguyễn Hoàng Việt, TS. Phan Thanh Tú: biên soạn
Phần II.

TS. Nguyễn Thị Mỹ Nguyệt, Ths. Vũ Thị Mai Thanh: biên
soạn Phần III.
7



TS. Nguyễn Mạnh Hùng, Ths. Nguyễn Hoàng Nam: biên
soạn Phần IV.

PGS.TS. Nguyễn Hoàng Việt, Ths. Nguyễn Minh Trang: biên
soạn Phần V.

Mặc dù nhóm biên soạn đã có nhiều cố gắng để đảm bảo chất
lượng tốt nhất có thể, tuy nhiên do là một chủ đề có nhiều góc độ
và quan điểm tiếp cận khác nhau, nên cuốn sách này không khỏi có
những thiếu sót. Rất mong nhận được các góp ý của các nhà nghiên
cứu, nhà quản lý thực tiễn.

8


PHẦN I

THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.1.1. Khái niệm

Hiện nay, FDI trở thành một xu thế tất yếu của lịch sử, một
nhu cầu không thể thiếu của mọi quốc gia trên thế giới. FDI ra đời
muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nhưng nhanh
chóng xác lập vị trí của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trên
thực tế, có khá nhiều cách nhìn nhận khác nhau về FDI. Thơng
thường, FDI được hiểu là một dự án hoạt động sản xuất kinh doanh
các nhà ĐTNN đến một nước sở tại để thành lập và điều hành các

DN kinh doanh.

Quỹ tiền tệ thế giới (International Moneytary Fund - IMF) đã
đưa ra định nghĩa về FDI như sau: “FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài
của một DN tại một nước khác (nước nhận đầu tư - hosting
country), không phải tại nước mà DN đang hoạt động (nước đi đầu
tư - source country) với mục đích quản lý một cách hiệu quả DN”
(IMF, 1993).

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra
định nghĩa về FDI tương tự như IMF. Tuy nhiên, OECD có quan
niệm rộng hơn về nhà ĐTNN. Theo quan điểm của OECD, nhà
ĐTNN là cá nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan Chính phủ
hoặc khơng thuộc cơ quan Chính phủ đầu tư tại nước ngoài.
9


Ủy ban thương mại và phát triển của Liên hợp quốc
(UNCTAD), trong Báo cáo đầu tư thế giới năm 1996 đã đưa ra
định nghĩa về FDI như sau: “FDI là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích
và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu
tư trực tiếp nước ngồi hoặc cơng ty mẹ) đối với một DN ở một
nền kinh tế khác (DN FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi
nhánh DN)”.

Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và
trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
ngày 09/6/2000 quy định tại khoản 1 Điều 2: “FDI là việc nhà
ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó

nhà ĐTNN được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam.

Qua các định nghĩa về FDI, có thể hiểu một cách khái quát về
FDI là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất
kỳ tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản
lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với
mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình. Theo thơng lệ quốc tế, có thể
là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình cơng nghệ, bất
động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị,…), tài sản vơ
hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý,…)
hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi
nợ,…).
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi

Có thể nêu một số hình thức sau:

- Doanh nghiệp liên doanh: DN liên doanh có vốn ĐTNN
ngồi là hình thức được sử dụng phổ biến ở các nước đang phát
triển. Đặc điểm của hình thức DN liên doanh là nhà ĐTNN và nhà
đầu tư trong nước cùng nhau góp vốn, cùng chia sẻ lợi nhuận, rủi
10


ro và chung trách nhiệm quản lý DN. Ưu điểm của DN liên doanh
là nước nhận đầu tư có thể kiểm sốt được hoạt động của DN, đồng
thời vẫn có thể thu hút vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý của nước
ngồi. Đối với nhà ĐTNN, hình thức DN liên doanh tạo điều kiện
thâm nhập thị trường dễ dàng, giảm rủi ro khi đầu tư vào thị trường
mới và tận dụng được uy tín, thương hiệu của nhà đầu tư ở nước

sở tại. Nhược điểm của DN liên doanh là mất thời gian tìm kiếm
đối tác, trong quá trình hoạt động có thể xuất hiện mâu thuẫn do
bất đồng quan điểm hoặc khác biệt về văn hóa.

- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi. Các nhà ĐTNN
thường ưa chuộng hình thức thành lập DN 100% vốn của họ ở
nước ngoài do nó có ưu điểm là giữ được bí quyết cơng nghệ, uy
tín thương hiệu và nhà ĐT nước ngồi chủ động trong điều hành,
quản lý DN. Nếu cho phép nhà ĐT nước ngoài thành lập DN 100%
vốn của họ, nước nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều FDI hơn.
Tuy nhiên, DN 100% vốn nước ngồi có nhược điểm là khó huy
động nguồn lực của nước nhận ĐT, rủi ro do thiếu hiểu biết thị
trường trong nước cao, nước nhận đầu tư khó kiểm sốt hoạt động
của nhà ĐTNN, nhất là quan hệ giữa DN FDI với DN chủ đầu tư
ở nước ngoài trong lĩnh vực chuyển giá.

- Cơng ty cổ phần: Nhà ĐTNN có thể thành lập cơng ty cổ
phần mới ở nước ngồi dưới hình thức huy động vốn của cả nhà
ĐTNN lẫn nhà đầu tư trong nước. Lúc đầu có thể thành lập cơng
ty cổ phần chưa phải đại chúng. Trong quá trình hoạt động, nhà
ĐTNN có thể niêm yết cổ phiếu của cơng ty ở thị trường chứng
khốn trong nước và nước ngồi nếu đủ điều kiện. Nhà ĐTNN
thường ưa thích hình thức đầu tư này do có thể huy động vốn linh
hoạt và giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư lớn. Tuy nhiên, các nước
nhận đầu tư khơng khuyến khích hình thức này do lo ngại sự di
chuyển vốn khó kiểm sốt của nhà ĐTNN nước ngoài cũng như sự
lũng đoạn của họ ở thị trường chứng khoán trong nước.
11



- Chi nhánh của DN nước ngoài. Chi nhánh của DN ở nước
ngồi khơng được coi là một pháp nhân độc lập ở nước nhận đầu
tư. Về mặt phạm vi hoạt động, chi nhánh hoàn toàn chịu sự chi
phối của DN ở nước ngoài. Ưu điểm của chi nhánh là thủ tục thành
lập dễ dàng. Nhược điểm của chi nhánh là rủi ro cho DN ở nước
ngồi cao vì họ phải thực hiện các nghĩa vụ do chi nhánh làm phát
sinh. Đối với nước nhận đầu tư, hình thức chi nhánh khơng được
ưa chuộng do khơng có khả năng đem nhiều vốn, công nghệ đến
nước sở tại.

- Hợp tác đầu tư: Hợp tác đầu tư giữa nhà ĐTNN và nhà đầu
tư trong nước là hình thức FDI khá phổ biến. Có nhiều hình thức
hợp tác đầu tư như BOT (thường là nhà ĐTNN hợp đồng xây dựng
cơng trình, kinh doanh một thời gian, sau đó chuyển giao cho nước
chủ nhà), BTO (hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh cơng
trình đó một thời gian), BT (nhà ĐTNN ký hợp đồng xây dựng
cơng trình, chuyển giao cho nước chủ nhà để đổi lại một ưu đãi
kinh doanh khác). Ưu điểm của hợp tác đầu tư là thu hút được
lượng vốn lớn từ nước ngoài để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
ở nước sở tại. Nhược điểm của hình thức này là nước sở tại khó
tiếp nhận cơng nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nhà ĐTNN đồng
thời phải gánh chịu rủi ro từ hợp đồng hợp tác đầu tư.

- Mua DN của nước sở tại: Đây là hình thức nhà ĐTNN ngoài
mua lại (100% hoặc phần lớn) DN trong nước để nắm quyền kiểm
soát DN này. Ưu điểm của hình thức FDI này là nhà ĐTNN có thể
làm chủ thị phần và thương hiệu của DN trong nước mà khơng mất
thời gian làm quen với thị trường. Ngồi ra, các cơng ty quốc gia
có thể sử dụng hình thức này để thiết lập chuỗi giá trị toàn cầu của
họ mà không quá tốn kém. Nước nhận đầu tư cũng có lợi vì thu hút

được nhà ĐT chiến lược, có thế mạnh và uy tín trên thị trường quốc
tế, nhờ đó dễ dàng hơn trong tái cơ cấu các DN trong nước theo
12


hướng tăng năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên hình thức FDI này có
thể khơng được giới đầu tư trong nước hưởng ứng do mất lợi thế
cạnh tranh và đôi khi không nhận được sự ủng hộ của lao động
trong các DN bị mua lại.

Ở Việt Nam, mỗi khi nói đến dịng vốn FDI, chúng ta thường
hình dung nhà đầu tư từ một nước nào đó đem vốn, cơng nghệ,
kinh nghiệm quản lý vào nước ta để thành lập DN mới, có thể là
100% vốn của họ, cũng có thể liên doanh với một công ty trong
nước. Tuy nhiên thực tế mấy năm gần đây cho thấy một tỷ lệ lớn
dòng vốn FDI đi vào Việt Nam ở dạng mua cổ phần, cổ phiếu ở các
DN trong nước đang hoạt động. Tính cả năm 2019, số liệu chính
thức của Tổng cục Thống kê cho thấy trong tổng vốn FDI đạt 38 tỷ
đơ la Mỹ thì phần góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN lên đến
15,5 tỷ đô la, gần bằng lượng vốn đăng ký cho các dự án mới là
16,7 tỷ đô la. Đáng chú ý, trong khi vốn đăng ký cho các dự án mới
được cấp phép giảm 6,8% so với năm trước thì tỷ lệ góp vốn, mua
cổ phần lại tăng đến 56,4%. Điều đó có nghĩa ngày càng có nhiều
nhà ĐTNN chọn con đường góp vốn hay mua cổ phần tại các DN
trong nước hơn là bắt tay xây dựng một dự án hoàn toàn mới.

Đây cũng là xu thế chung của cả thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF) đã định nghĩa dòng vốn ĐTNN dùng để mua từ 10% cổ
phần các DN nội địa trở lên thì được xem là FDI; mua ít hơn, mua
trên thị trường chứng khoán mới là đầu tư gián tiếp. Chính vì thế

nhiều người ngạc nhiên khi biết Mỹ đứng đầu thế giới trong thu
hút FDI, hơn cả Trung Quốc - đó là bởi, lấy số liệu năm 2018,
trong lượng vốn FDI chảy vào nước Mỹ, đến 287,3 tỷ đô la Mỹ là
để mua cổ phần công ty Mỹ có sẵn, chỉ 5,3 tỷ đơ la được đầu tư để
lập DN mới.

Đầu tư nước ngồi có thể theo mơ hình trong đó nhà đầu tư
có sẵn thiết kế chi tiết cho một sản phẩm, một linh kiện, thậm chí
13


một bộ phận rất nhỏ, họ chỉ việc đi mua cổ phần một cơng ty có
thể sản xuất sản phẩm đó cho họ, tham gia quản lý để bảo đảm chất
lượng sản phẩm. Đây là xu thế không tránh được, nhất là sau khi
tồn cầu hóa kiểu cũ chững lại, dịch bệnh lại làm ngưng trệ các
chuỗi cung ứng.

Như vậy khi nói thu hút ĐTNN, khi nói xây dựng chính sách
hấp dẫn nhà đầu tư, chúng ta cũng nên chú ý đến đặc điểm này của
dòng vốn FDI bởi nỗ lực thu hút FDI hiểu theo nghĩa cũ là chưa
đủ, vẫn còn để trống gần một nửa dòng vốn tiềm năng. Nói cách
khác, ví von “dọn tổ cho đại bàng cũng phải rắc thóc cho chim sẻ”
là suy nghĩ đúng nhưng “lạc hậu” rồi, bởi hỗ trợ DN trong nước,
giúp DN trong nước lớn mạnh cũng chính là cách thu hút FDI,
khơng cịn phân biệt “chim sẻ” và “đại bàng” nữa. Hiện nay dòng
vốn FDI dưới các cam kết quốc tế đang hưởng những lợi thế DN
trong nước khơng có được; quan trọng nhất là thái độ ứng xử với
DN FDI dù sao cũng đã vào khuôn khổ luật pháp chặt chẽ hơn so
với DN trong nước. Cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi
cho DN trong nước hoạt động chính là góp phần thu hút dịng vốn

FDI một cách trực tiếp chứ khơng nói đâu xa. Cái ưu điểm của mơ
hình này là dần dần DN trong nước sẽ lớn mạnh, sẵn sàng đáp ứng
các đơn hàng lớn của các đối tác bên ngoài, chủ động tham gia các
chuỗi cung ứng và sau này dù nhà ĐTNN có thối vốn, DN vẫn sẽ
tồn tại chứ khơng như DN FDI theo mơ hình cũ, DN nước ngồi
rút đi là đóng cửa ngưng hoạt động ln. Mọi loại hình DN, kể cả
DN nhà nước, dù sao cũng hoạt động dưới một mái nhà chung là
Luật Doanh nghiệp.
1.1.3. Động lực đầu tư ra nước ngồi và các hình thức FDI

Trong các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố thường có 04
động lực thúc đẩy các nhà ĐTNN đầu tư vào một nước, gồm:
- Tìm kiếm tài nguyên (Resource seeking): các nhà đầu tư tận
14


dụng các loại tài ngun mà nước họ khơng có sẵn (như tài nguyên
thiên nhiên hoặc nguyên liệu thô) hoặc có sẵn nhưng với chi phí
thấp hơn (như lao động khơng có kỹ năng được cung cấp với giá
rẻ hơn đối với nước sở tại) (Slaughter, 2003).

- Tìm kiếm thị trường (Market seeking): các nhà đầu tư muốn
khai thác thị trường mới và thị trường có quy mơ lớn hơn. Họ cung
ứng hàng hóa theo nhu cầu hoặc thị hiếu của nước sở tại và tận
dụng lợi thế khoảng cách để tiết kiệm chi phí phục vụ thị trường
(Markusen, 1984).

- Tìm kiếm hiệu quả (Efficiency seeking): các nhà đầu tư thu
được hiệu quả kinh doanh nhờ tận dụng nguồn tài ngun sẵn có,
chi phí, quy mơ kinh tế, sự khác biệt về thị hiếu tiêu dùng và năng

lực cung ứng (Dunning, 1993).

- Tìm kiếm tài sản chiến lược (Strategic asset seeking): các
nhà đầu tư triển khai hoạt động đầu tư trên cơ sở mua lại và bổ
sung công nghệ mới thay vì chỉ khai thác tài sản hiện có của nước
sở tại (Cantwell và Mudambi, 2005).
1.1.4. Vai trò của FDI đối với nền kinh tế

FDI có tác động cả mặt tiêu cực và tích cực đối với nền kinh
tế, trong đó tác động tích cực của FDI thể hiện ở:

- FDI tạo điều kiện để các nước đang phát triển khai thác
được nguồn vốn từ bên ngoài, tiếp thu được kỹ thuật công nghệ
hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước phát triển.
Từ đó, FDI tạo việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ
vốn cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế,
qua đó nâng cao đời sống người dân. Đồng thời, FDI khuyến khích
DN trong nước cải thiện năng lực kinh doanh, cải tiến công nghệ
mới, nâng cao năng suất và giảm giá thành sản phẩm do phải cạnh
tranh với DN nước ngoài (Pao và Tsai, 2011).
15


- Bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển của kinh tế đất nước,
thúc đẩy việc xây dựng xã hội ngày càng giàu đẹp hơn.

- Tiếp xúc được với những cơng nghệ, thiết bị, máy móc từ
những quốc gia phát triển,…

- Tham gia được mạng lưới kinh doanh, chuỗi cung ứng trên

toàn thế giới.

- Cải thiện mức lương cho nhân viên, giúp nhân viên nâng
cao được kiến thức về công việc nhờ các buổi đào tạo.
- Tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước.

Bên cạnh những tác động tích cực, FDI cũng cần phải được
giám sát một cách chặt chẽ nếu khơng muốn những hệ lụy đáng
tiếc có thể xảy ra như:

- DN FDI cạnh tranh với DN trong nước, khiến nhiều DN
trong nước phá sản, có thể gây nên tình trạng phụ thuộc của nước
nhận đầu tư vào ĐTNN, nhất là ở các nước chậm phát triển. Bởi vì
nhà ĐTNN có thế mạnh về vốn, cơng nghệ, quản lý, thị trường, nên
nếu nhà đầu tư trong nước không đủ mạnh thì sẽ khó cạnh tranh
trên thị trường nội địa. Khi các ngành kinh tế quan trọng của đất
nước do DN FDI nắm giữ thì nền kinh tế quốc gia tất yếu rơi vào
vị thế phụ thuộc.

- DN FDI tận dụng thị trường trong nước bằng cách gia công,
lắp ráp và khai thác tài nguyên của nước nhận đầu tư khiến nước
nhận đầu tư không thu được nhiều giá trị gia tăng, trong khi đó lại
phải gánh chịu những hậu quả như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt
tài nguyên. Hình thức phổ biến là nhà ĐTNN nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ của họ dưới dạng thành lập DN để gia công, lắp ráp linh
kiện, chi tiết sản phẩm NK. Nhờ đó, nhà ĐTNN tránh được thuế
NK và sử dụng được lao động giá rẻ của nước sở tại. Ngoài ra,
nhiều nhà ĐTNN nhắm vào nguồn tài nguyên khan hiếm của nước
sở tại, chỉ đầu tư vào khai thác và XK, nên giá trị gia tăng mà nước
16



sở tại nhận được không đáng kể, trong khi phải gánh chịu tình
trạng mất mát tài ngun và chịu ơ nhiễm môi trường do hoạt động
công nghiệp của nhà ĐTNN.

- Các DN FDI có thể trốn thuế bằng chuyển giá giữa công ty
con ở nước nhận đầu tư và công ty mẹ ở nước đầu tư. Trong trường
hợp này, nước nhận đầu tư nhận được ít hơn lượng giá trị gia tăng
mà họ đáng lẽ phải được hưởng. Việc đấu tranh chống chuyển giá
của các nước đang phát triển gặp rất nhiều khó khăn.

- Thơng qua các cơng ty con, chi nhánh ở nước ngồi, các
cơng ty xun quốc gia, đa quốc gia có thể lũng đoạn thị trường
trong nước nhận đầu tư. Vì mục tiêu lợi nhuận, các cơng ty lớn ở
nước ngồi có thể thâu tóm các DN trong nước, thậm chí gây sức
ép với chính phủ để đạt được mục tiêu của họ.

1.2. Chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước về
đầu tư nước ngoài và FDI

Chặng đường tăng trưởng kinh tế ấn tượng mà Việt Nam đã
thực hiện trong hơn thập kỷ gần đây có sự đóng góp lớn của nguồn
vốn FDI. Khu vực ĐTNN nói chung và FDI nói riêng là nguồn vốn
bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội;
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; hình thành một số ngành công
nghiệp mũi nhọn; gia tăng năng lực sản xuất; giữ vai trò chủ đạo
trong xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, từng bước
đưa sản phẩm của Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu; thực hiện chuyển giao cơng nghệ ở một số ngành,

lĩnh vực; đã hình thành mối liên kết giữa khu vực ĐTNN với khu
vực trong nước, thúc đẩy phát triển cơng nghiệp hỗ trợ; đóng góp
cho ngân sách nhà nước; hỗ trợ cán cân thanh tốn, góp phần ổn
định kinh tế vĩ mơ; giải quyết việc làm, chuyển đổi cơ cấu việc
làm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động và
hiện đã trở thành một động lực của tăng trưởng.
17


Đường lối và chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về
ĐTNN có thể được xem xét theo 3 giai đoạn, căn cứ vào những
thời điểm có thay đổi quan trọng về mục tiêu, định hướng. Giai
đoạn thứ nhất bắt đầu với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và các
chính sách mở cửa hợp tác với kinh tế khu vực và thế giới cuối
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến trước khủng hoảng tài chính - tiền
tệ châu Á vào năm 1996. Giai đoạn thứ hai là những đổi mới, hoàn
thiện thể chế để vượt qua các tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và tiếp tục hội nhập sâu hơn vào
kinh tế thế giới mà cột mốc quan trọng là kết thúc đàm phán để gia
nhập WTO vào cuối năm 2006. Giai đoạn thứ ba là quá trình hội
nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam cùng với nhiều đổi mới thể
chế về ĐTNN phù hợp với các cam kết quốc tế, trong đó đáng chú
ý nhất là Luật Đầu tư 2014. Mới nhất là Nghị quyết 50-NQ/TW
năm 2019 của Bộ Chính trị đưa ra yêu cầu chủ động thu hút, hợp
tác ĐTNN có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, cơng nghệ và bảo
vệ mơi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu.
Giai đoạn 1988 - 1996

Trước năm 1986, tình hình kinh tế Việt Nam rất khó khăn.
Lạm phát hằng năm tăng ở mức 400%, một phần do bao vây cấm

vận kinh tế và phụ thuộc nặng nề vào viện trợ nước ngoài, cả nước
thiếu lương thực và hàng tiêu dùng trầm trọng; các cơ sở sản xuất
đình trệ. Mặc dù Điều lệ ĐTNN năm 1977 đã được ban hành,
nhưng vì các yếu tố khơng thuận lợi về đối nội và đối ngoạivào
thời điểm những năm 70, đầu những năm 80 nên Điều lệ này không
đi vào cuộc sống.

Trong khu vực, nhiều nước đã thực hiện chuyển đổi từ sản
xuất nông nghiệp sang công nghiệp, thu hút ĐTNN, mở cửa
thị trường, thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư, nhờ đó
đạt được nhiều thành cơng. Trước tình hình đó, tại Nghị quyết số
18


19-NQ/TW ngày 17/7/1984, Bộ Chính trị đã đề ra định hướng hợp
tác kinh tế với nước ngoài, xây dựng Luật Đầu tư hoàn chỉnh trên
cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ ĐTNN năm 1977. Tháng 12/1986,
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định mục tiêu xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa hợp tác ĐTNN.
Đây sự thay đổi lớn, mang tính bước ngoặt về nhận thức, quan
điểm đối với ĐTNN vì tại thời điểm đó Hiến pháp năm 1980 quy
định Nhà nước tiến hành cải tạo XHCH đối với thành phần kinh tế
tư bản chủ nghĩa, thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có
hai thành phần: thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và thành
phần kinh tế tập thể trong một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Sự đổi mới tư duy này không chỉ là tiền đề cho hoạt động thu hút
ĐTNN - một nguồn lực hoàn toàn mới phục vụ phát triển kinh tế,
tạo chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế, khẳng định Việt
Nam sẽ nỗ lực tham gia một hoạt động kinh tế có tính chất tồn
cầu, mà quan trọng hơn đây chính là động lực thúc đẩy việc xây

dựng và hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường cho phát triển
kinh tế - xã hội sau này.

Được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh nền kinh tế bị bao
vây cấm vận, mới mở cửa, hợp tác kinh tế với nước ngoài nên rất
thiếu kinh nghiệm về ĐTNN, nhưng Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1987 được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ. Đây là
một trong những đạo luật đầu tiên có sự đột phá trong việc áp dụng
các cơ chế thị trường và bước đầu tiếp cận các chuẩn mực quốc tế,
thể hiện quan điểm rõ ràng, các DN có vốn ĐTNN có tư cách pháp
nhân của Việt Nam, vốn và tài sản hợp pháp của các DN này được
pháp luật bảo vệ, không bị quốc hữu hóa. Hơn nữa, trong khi Thái
Lan, Indonesia chỉ mở cửa dần dần, giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà
ĐTNN ở mức 49% thì Việt Nam đã cho phép thành lập DN 100%
vốn nước ngoài và chỉ giới hạn tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà
ĐTNN là 30%. Đồng thời, để tạo sức hút đối với dòng ĐTNN vào
19


các lĩnh vực khuyến khích đầu tư như: sản xuất thay thế hàng nhập
khẩu và phục vụ xuất khẩu; sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu
và tài nguyên sẵn có; phát triển kết cấu hạ tầng; một số dịch vụ thu
ngoại tệ, Việt Nam đã áp dụng mức thuế ưu đãi cho DN ĐTNN
thấp hơn DN trong nước; hoàn lại số tiền thuế lợi tức tương ứng
với phần lợi nhuận tái đầu tư; mở ra hình thức đầu tư vào khu chế
xuất (KCX) (Luật ĐTNN năm 1992), khu công nghiệp và ưu đãi
đối với DN đầu tư vào các khu này (Luật ĐTNN 1996).

Với quyết tâm thực hiện đường lối chính sách mở cửa để phát
triển kinh tế - xã hội, Quốc hội đã 03 lần thông qua việc sửa đổi

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vào các năm 1990, 1992 và
1996 với nhiều thay đổi theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc
tế, thực hiện biện pháp bảo vệ quyền lợi của nhà ĐTNN trong
trường hợp thay đổi pháp luật; công nhận hai phương thức giải
quyết tranh chấp là trọng tài và tòa án hoạt động đầu tư với nước
ngoài; cho phép DN thuộc mọi thành phần kinh tế là “Bên Việt
Nam” tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài; tăng thời hạn hoạt
động của DNĐTNN từ không quá 20 năm lên tới 50 năm, một số
trường hợp được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt tối đa là
70 năm; bổ sung hình thức BOT bên cạnh ba hình thức đầu tư
truyền thống (liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp
tác kinh doanh); cho phép DN ĐTNN mở tài khoản bằng tiền Việt
Nam và tiền nước ngoài tại Ngân hàng Việt Nam hoặc tại ngân
hàng liên doanh hoặc tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài đặt tại
Việt Nam. Về quản lý nhà nước, năm 1991, Chính phủ thực hiện
chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về ĐTNN đầu tiên cho Ban
Quản lý Khu chế xuất, mở rộng việc ủy quyền cho một số Ban
Quản lý Khu công nghiệp, Khu chế xuất vào năm1995, phân cấp
cho một số UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đáp ứng
điều kiện vào năm 1996.
20


Giai đoạn 1997 - 2006

Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt nguồn từ
Thái Lan gây ra nhiều tổn thất cho các nền kinh tế ở châu Á, đặc
biệt là các nước Đông Nam Á.Tại Việt Nam, cuộc khủng hoảng đã
tác động tiêu cực, làm bộc lộ nhiều yếu kémcủa kinh tế; nhiều dự
án ĐTNN phải tạm dừng hoạt động do nhà đầu tư khó khănvề tài

chính, vốn ĐTNN đăng ký giảm liên tiếp; môi trường đầu tư, kinh
doanh mặc dù đã được cải thiện nhưng còn nhiều hạn chế, trong
khi đó, cạnh tranh thu hút ĐTNN với các nước trong khu vực trở
nên khốc liệt hơn. Thực tế nêu trên đã đặt ra yêu cầu cho Việt Nam
phải thực hiện những đột phá mới trong quá trình chuyển đổi sang
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó hoạt động
ĐTNN tiếp tục được xem là một trọng tâm. Đại hội Đảng lần thứ
IX năm 2001 và Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung 2001
khẳng định khu vực ĐTNN là một trong các thành phần kinh tế của
nền kinh tế quốc dân, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Đồng thời Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra yêu cầu “giảm mạnh,
tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư
trong nước và ĐTNN”. Đây là sự thay đổi tiếp theo trong tư duy
về vị trí, vai trị của khu vực ĐTNN trong nền kinh tế cũng như
phương thức thu hút và sử dụng ĐTNN trong giai đoạn hội nhập
sâu hơn vào kinh tế thế giới.

Về định hướng thu hút ĐTNN, bên cạnh những mục tiêu gia
tăng quy mơ dịng vốn, khuyến khích xuất khẩu, tạo việc làm như
giai đoạn trước, Đại hội Đảng lần thứ IX đã bổ sung mục tiêu thu
hút ĐTNN để thu hút công nghệ hiện đại. Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ IX cũng khẳng định ĐTNN đã trở thành một trong những
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển; có tác dụng thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hóa;
mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; nâng cao năng lực quản lý
và trình độ cơng nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu; tạo thêm
21


nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ

động hội nhập kinh tế thế giới. Hội nghị Ban chấp hành trung ương
Đảng lần thứ 9 (khóa IX) đã đề ra nhiệm vụ “phải tạo chuyển biến
cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi”, theo đó sẽ
tập trung nâng cao chất lượng ĐTNN vào Việt Nam thông qua việc
thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đầu tư
vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là các
lĩnh vực công nghệ cao.

Để tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tháng
5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010,
định hướng đến 2015 và Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020. Hai
Nghị quyết quan trọng này đã đặt ra nhiều nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp với nội dung quan trọng
liên quan đến hội nhập. Tiếp đó, Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX năm 2006 đã đặt ra yêu cầu tăng
cường thu hút vốn ĐTNN, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội trong 05 năm. Trên cơ sở những định
hướng này, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được xây dựng,
điều chỉnh, sửa đổi bổ sung theo hướng tạo dựng môi trường pháp
lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, khơng phân biệt đối xử,
phù hợpvới các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) và các cam kết quốc tế khác, điển hình là Hiệp định
Thương mại song phương Việt Nam - Mỹ (BTA) ký kết năm 2001.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Đầu tư năm 2005 được ban
hành, không chỉ là một bước tiến lớn trong cải cách môi trường đầu
kinh doanh, mà lần đầu tiên, khung pháp lý cho các loại hình sở
hữu khác nhau của DN, gồm DN nhà nước, DN tư nhân và DN
ĐTNN đã được thống nhất. Chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng
thống nhất cho cả DN trong nước và DN ĐTNN. Cơ chế hai giá về

phí và dịch vụ áp dụng đối với người nước ngoài, DN ĐTNN hoàn
22


toàn được bãi bỏ. Việt Nam bắt đầu mở cửa một số ngành điện, bảo
hiểm, ngân hàng, viễn thông,... cho phép nhà ĐTNN được đầu tư
theo hình thức cơng ty cổ phần, hoạt động đầu tư xuyên biên giới
(M&A) được phép thực hiện và mở cửa thị trường dịch vụ đối với
nhà ĐTNN theo cam kết WTO.

Đồng thời, một loạt các luật đã ban hành nhằm xây dựng thể
chế kinh tế thị trường, hình thành và phát triển đồng bộ các thị
trường góp phần tạo điều kiện cho hoạt động ĐTNN như: thị
trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất, từng bước mở
rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và
người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam; hoàn thiện pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học
- công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Luật Đầu tư năm 2005 và
Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã phân cấp toàn diện cho UBND cấp
tỉnh và Ban quản lý các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công
nghệ cao và Khu kinh tế, trừ các ngành bảo hiểm, ngân hàng, dầu
khí, chứng khốn, hành nghề luật sư; đồng thời giảm bớt những dự
án phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Bên cạnh đó, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001
nhằm triển khai một số giải pháp, chính sách để tăng cường thu hút
và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001 - 2005.
Giai đoạn 2007 - nay


Tại Việt Nam, mặc dù đã gia nhập WTO, môi trường đầu tư,
kinh doanh được đánh giá là thơng thống, thuận lợi hơn nhiều so
với giai đoạn trước, song thực tế các nước trong khu vực cũng đẩy
mạnh cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao tính cạnh
tranh về mơi trường đầu tư. Vì vậy, nhìn tổng thể, mơi trường đầu
tư ở Việt Nam vẫn cịn nhiều mặt thua kém so với khu vực và thế
giới, thể hiện ở thứ hạng trung bình và thấp của Việt Nam trong
23


đánh giá của các tổ chức quốc tế về môi trường đầu tư kinh doanh,
phát triển DN và an toàn tài sản,... Điều này làm hạn chế sự phát
triển kinh tế nói chung, bao gồm cả hoạt động ĐTNN và đầu tư
trong nước.

Năm 2011, Đại hội Đảng lần thứ XI đã phê duyệt Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, xác định ba đột phá chiến
lược: (i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, (ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao, (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ. Việc thực hiện ba đột phá chiến lược này được xem là cơ sở
quan trọng để thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng ĐTNN, từ
đó nâng cao hiệu quả và đóng góp của khu vực ĐTNN cho tăng
trưởng kinh tế. Chủ trương này đã được đề ra tại Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 9 Khóa IX năm 2004 và tái khẳng định tại Đại
hội Đảng lần thứ XII năm 2016.

Năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 103/NQ-CP
ngày 29/8/2013 nhằm điều chỉnh chính sách để nâng cao chất
lượng thu hút ĐTNN ở các mặt: (i) chọn lọc các dự án có chất

lượng, có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ hiện đại, thân
thiện với môi trường; (ii) tăng cường thu hút các dự án quy mô lớn,
sản phẩm có tính cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
của các tập đoàn xuyên quốc gia, khuyến khích chuyển dần từ gia
cơng sang sản xuất; lựa chọn các nhà đầu tư lớn, có uy tín đầu tư
phát triển thị trường tài chính, đồng thời, chú trọng đến các dự án
có quy mơ vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành kinh tế, từng địa
phương, (iii) khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường sự liên kết
giữa các DN ĐTNN với nhau và với DN trong nước và quy hoạch
thu hút ĐTNN theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của
từng vùng, từng ngành thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế.

Năm 2014, Luật Đầu tư được Quốc hội ban hành trên cơ sở
Hiến pháp năm 2013 là một bước đột phá do đã thể chế hóa nguyên
24


tắc hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của mọi người
trong các ngành, nghề mà Luật không cấm. Việc quy định Danh
mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật này theo phương pháp loại
trừ (chọn bỏ) đã góp phần đổi mới căn bản nguyên tắc áp dụng
pháp luật, từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép
sang nguyên tắc được tự do đầu tư kinh doanh tất cả các ngành,
nghề mà Luật khơng cấm hoặc quy định phải có điều kiện. Do đó,
mặc dù mở cửa muộn nhất, nhưng tốc độ tự do hoá về ĐTNN của
Việt Nam nhanh hơn so với Malaysia, Indonesia và Philippines.
Đến nay, theo xếp hạng của OECD dựa trên tính tốn Chỉ số hạn
chế ĐTNN đối với 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đứng

thứ 21 về mức độ mở cửa đối với ĐTNN.

Hình 1: Chỉ số hạn chế đối với ĐTNN của Việt Nam
và một số quốc gia

Nguồn: Báo cáo đánh giá Chính sách đầu tư Việt Nam (OECD, 2017)

Cũng từ năm 2014, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết
liên quan đến việc cải thiện môi trường kinh doanh và năng lực
25


×