Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nghiên cứu sử dụng đất hợp lý theo hướng phát triển bền vững khu tái định cư Mường Trai - huyện Mường La - tỉnh Sơn La thuộc dự án thuỷ điện Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 104 trang )

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG



NGUYỄN KHOA HIẾU



Nghiên cứu sử dụng đất hợp lý theo hướng
phát triển bền vững khu tái định cư
Mường Trai - huyện Mường La - tỉnh Sơn La
thuộc dự án thuỷ điện Sơn La








Hà Nội – 2007


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững (PTBV) là vấn đề đang được thế giới quan tâm. Đặc
biệt là từ sau hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về môi trường và phát triển tại
Rio Janerio (Rio 92) đã khẳng định tầm quan trọng của phát triển bền vững.
Sự khẳng định này được thể hiện trong chương trình nghị sự 21 (Agenda21)
và sau đó tại hội nghị Rio + 10 (2002) tại Johannesburg (Nam Phi) đã thành


lập uỷ ban về PTBV để thực hiện và cụ thể hoá Agenda 21. Ở Việt Nam,
PTBV đã được nhà nước quan tâm bằng các bước đi và chính sách thích hợp,
tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng Agenda 21, tiêu chí đánh giá PTBV và
đặc biệt là PTBV ở các cộng đồng dân cư miền núi, việc đánh giá mức độ
bền vững của cộng đồng đã được rất nhiều nước trên thế giới thực hiện như
Mỹ, Úc, Anh, Philippin,
Bất kỳ một dự án phát triển nào làm thay đổi phương thức sử dụng đất,
nguồn nước, hay các loại tài nguyên thiên nhiên khác, đều có tác động trực
tiếp hay gián tiếp tới những người đang sử dụng các nguồn tài nguyên đó và
các phương tiện kinh tế, xã hội, văn hoá có liên quan. Có nhiều dự án phải
chiếm dụng hay chuyển hướng sử dụng các khu vực đất do các cá nhân và
cộng đồng đang sở hữu hoặc đang sử dụng như các dự án xây dựng nhà máy
thủy điện, đường giao thông, sân bay, cầu cảng, khu thể thao, Trong số này,
nhiều dự án có thể mang tính quan trọng quyết định đối với sự phát triển của
địa phương, khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, chúng cũng làm nảy sinh mâu
thuẫn giữa mục đích phát triển quốc gia lâu dài với quyền lợi của các cộng
đồng và cá nhân - những người bị ảnh hưởng. Điều quan trọng là phải cân
nhắc lợi ích đạt được với cái giá phải trả cho các ảnh hưởng này bằng cách
xem xét các phương án triển khai hoặc không phải di dân hoặc chỉ gây gián


2
đoạn nhỏ về kinh tế, xã hội, môi trường và tìm ra cách để làm hoà hợp những
lợi ích và mâu thuẫn nói trên.
Công trình thuỷ điện Sơn La khi hình thành sẽ là nấc thang thứ hai sử
dụng nguồn nước sản xuất điện năng trên dòng Sông Đà, có vai trò và tác dụng
to lớn trong việc sản xuất điện năng và điều tiết nước, chống lũ cho vùng hạ du.
Đồng thời công trình cũng tạo ra vùng hồ rộng lớn, gây ảnh hưởng ngập với
nhiều địa phương của 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Với mực nước
dâng bình thường 215 m, tỉnh Sơn La phải di chuyển 12.479 hộ tới nơi ở mới

và tiến độ đến năm 2010 phải hoàn thành.
Việc di dân tái định cư có ảnh hưởng, gây tác động lớn đến phát triển
kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân trong tỉnh. Công tác lập quy hoạch, kế
hoạch TĐC cho nhân dân vùng lòng hồ được quan tâm đúng mức với quan
điểm là phải đảm bảo cuộc sống ổn định lâu dài và tạo việc làm cho nhân dân
để có cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ.
Để quy hoạch TĐC đạt được kết quả tốt, tạo điều kiện cho dân tái định
cư có điều kiện sớm ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất cũng như không
làm suy giảm chất lượng môi trường khu vực vùng TĐC, một trong những
tiêu chí quan trọng nhất trong quy hoạch TĐC là xác định vị trí và chất lượng
vùng TĐC cũng như bố trí sử dụng hợp lý tài nguyên, lãnh thổ trong vùng
được lựa chọn. Việc lựa chọn, bố trí sử dụng cần được đánh giá, xem xét từ
các góc độ về kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường với sự hỗ trợ của các kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, hiện nay việc quy hoạch vùng TĐC vẫn
được thực hiện theo các phương pháp cũ, nhiều chỉ tiêu về mặt tự nhiên, kinh
tế, xã hội, chủ yếu bằng phương pháp định tính. Do đó kết quả quy hoạch ít
nhiều còn mang tính chủ quan, tính thuyết phục của cơ sở khoa học chưa cao,
chưa bền vững, Thực tế cho thấy nhiều khu TĐC đã không đáp ứng được
các nhu cầu của cộng đồng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tài


3
nguyên bị khai thác, sử dụng quá khả năng của tự nhiên, đời sống của cộng
đồng TĐC không ổn định. Những hành động này tất yếu sẽ dẫn đến đói nghèo
tại các khu TĐC ở nước ta. Hơn nữa nó đã và đang gây tác động xấu đến môi
trường, làm cho cộng đồng khu TĐC thường không ổn định và rất khó khăn
trong việc bảo vệ sự phát triển bền vững.
Do vậy việc nghiên cứu hướng sử dụng đất hợp lý để phát triển bền vững
tại các khu TĐC, qua đó, để rút ra những bài học kinh nghiệm và các giải
pháp theo hướng này cho quá trình di dân TĐC là rất cần thiết. Bởi vậy,

chúng tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu sử dụng đất hợp lý theo hướng phát
triển bền vững khu tái định cư Mường Trai - huyện Mường La tỉnh Sơn La
thuộc dự án thuỷ điện Sơn La” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và ý nghĩa đề tài
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở điều tra đánh giá đúng hiện trạng sử dụng đất và nghiên cứu
phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường để bố trí sử
dụng đất và đề xuất các giải pháp sử dụng, bảo vệ theo hướng phát triển bền
vững ở vùng dự án, góp phần làm tham khảo trong việc bố trí sử dụng đất ở
các vùng tái định cư khác.
Yêu cầu của đề tài
Trong giới hạn nghiên cứu này, chúng tôi xác định các yêu cầu cần đạt
được như sau:
- Cần đánh giá đúng hiện trạng bố trí sử dụng đất và kết quả sản xuất để
làm cơ sở đánh giá, phân tích nhưng mặt được và những tồn tại cần khắc
phục.


4
- Cần đánh giá đầy đủ các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng dự án
làm cơ sở để xác định các tiêu chí phục vụ quy hoạch vùng tái định cư, bao
gồm việc bố trí sử dụng đất hợp lý theo hướng phát triển bền vững.
- Cần đánh giá khả năng thích hợp của nhưng cây trồng đối với các loại
đất chính có trong vùng dự án. Xác định được các lợi thế và hạn chế của các
yếu tố nói trên.
- Đề xuất hướng bố trí, phát triển các loại cây có hiệu quả kinh tế cao,
góp phần bảo vệ đất, bảo vệ môi trường vùng tái định cư.
- Lựa chọn một số mô hình hệ thống cây trồng có hiệu quả kinh tế và
phát triển bền vững để phục vụ bố trí sử dụng đất các khu TĐC công trình nhà
máy thuỷ điện Sơn La (NMTĐSL).

2.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Góp phần làm cơ sở khoa học cho công tác quy hoạch nói chung và các
phương án bố trí sử dụng đất theo hướng bảo vệ môi trường vùng tái định cư
NMTĐSL nói riêng.
- Tiếp cận tới phương pháp luận khoa học cho việc lựa chọn vùng TĐC và các
tiêu chí quy hoạch để phát triển kinh tế, xã hội và môi trường vùng TĐC.
- Góp phần bổ sung phương pháp quy hoạch vùng TĐC công trình thuỷ điện
Sơn La, đồng thời có thể sử dụng để tham khảo trong nghiên cứu khoa học và
đào tạo.
3. Các quan điểm về sử dụng đất theo hướng phát triển bền vững
Sự phát triển lấy kinh tế làm trọng tâm đã gây ra những thảm họa môi
trường, làm cạn kiệt tài nguyên và không tính đến lợi ích của những thế hệ
mai sau. Những trả giá này hiện nay đã lớn đến mức người ta nhận thấy trái
đất không phải là nguồn tài nguyên vô tận và con người cũng không thể thống
trị và khai thác trái đất theo ý mình. Thừa nhận các giới hạn của trái đất, thừa


5
nhận con người phải sống hoà hợp với tự nhiên đã dẫn đến một chiến lược
phát triển mới, đó là phát triển bền vững.
Khái niệm "Phát triển bền vững " được Ủy ban Môi trường và Phát
triển thế giới (ủy ban Brundland) nêu ra năm 1987 như sau: Những thế hệ
hiện tại cần đáp ứng nhu cầu của mình, sao cho không phương hại đến khả
năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của họ.
Phát triển bền vững ở mỗi quốc gia và trên quy mô toàn cầu có thể trở thành
hiện thực thông qua việc xây dựng xã hội phát triển bền vững. Đây là xã hội
biết kết hợp hài hoà việc phát triển kinh tế xã hội với việc bảo vệ môi trường.
Để xây dựng một xã hội phát triển bền vững, sách "Cứu lấy Trái đất" đã
nêu lên 9 nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.

Thứ hai: nâng cao chất lượng sống của cộng đồng.
Thứ ba: bảo vệ sức sống và tính đa dạng sinh học của trái đất.
Thứ tư: hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài
nguyên không tái tạo.
Thứ năm: giữ vững trong khả năng chịu đựng được của trái đất.
Thứ sáu: thay đổi thái độ và hành vi của con người.
Thứ bảy: để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
Thứ tám: xây dựng một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho
việc phát triển và bảo vệ.
Thứ chín: xây dựng một khối liên minh toàn cầu trong việc bảo vệ môi
trường


6
Phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thoả
hiệp nhau của ba hệ thống tương tác lớn của thế giới: hệ tự nhiên, hệ kinh tế
và hệ xã hội (hình 1)


6
Hình 1: Mô hình phát triển tương tác giữa ba hệ thống tự nhiên, kinh tế,
xã hội và phát triển bền vững










Xuất phát từ cách tiếp cận trên, đã có nhiều mô hình PTBV được xây dựng
như mô hình PTBV của Villen 1990, mô hình PTBV của WCED 1987, điển
hình là mô hình của Jacobs và Sadler 1990 |6|.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
4.1. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được giới hạn trên phạm vi hành chính của xã Mường Trai
huyện Mường La, tỉnh Sơn La.(xem sơ đồ)
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Các điều kiện về tự nhiên, kinh tế-xã hội vùng dự án.
- Các quan điểm về tái định cư và quy hoạch phát triển bền vững.


Hệ
kinh tế

Hệ
xã hội

Hệ
tự nhiên
Phát triển bền vững


7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU VỀ SỬ DỤNG ĐẤT HỢP LÝ KHU VỰC TÁI ĐỊNH CƯ
1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Nghiên cứu về quy hoạch tái định cư
* Trung Quốc:

Luật quản lý đất 1986 và các điều sửa đổi, bổ sung năm 1988 đã làm rõ
các quyền về đất và việc đảm bảo quyền sử dụng đất thuộc sở hữu nhà nước,
hướng dẫn các tỉnh, thành phố, quận, huyện và thị trấn chịu trách nhiệm thực
hiện chiếm dụng đất và TĐC. Luật này chính thức hoá các thủ tục tham khảo
ý kiến và giải quyết khiếu kiện của những người bị ảnh hưởng. Các tỉnh có
thể đưa ra hướng dẫn dựa trên luật quốc gia hoặc uỷ quyền cho các thành phố
bổ sung quy định. Các dự án đi qua địa bàn nhiều tỉnh sẽ gặp khó khăn trong
việc bảo đảm các biện pháp đền bù và khôi phục đã thống nhất cho những
người bị ảnh hưởng |26|.
Các dự án thuỷ điện cỡ lớn và trung bình phải dựa vào tiêu chuẩn thiết
kế TĐC hồ chứa nước riêng rẽ (1991) có tiêu chuẩn đền bù thấp hơn so với
những ngành khác. Đền bù trong các dự án hồ chứa hồ chứa nước có thể bao
gồm quỹ bảo trì và xây dựng. Quỹ này sẽ trích một phần nhỏ trong thu thập từ
điện hoặc nước để hỗ trợ chi phí TĐC. Các quy định hình thành năm 1984 và
cập nhật 1991 chi phối các dự án phát triển đô thị đã đưa ra các biện pháp về
tham khảo ý kiến và giải quyết khiếu nại cho những người bị ảnh hưởng. Dân
cư đô thị không có giấy phép cư trú có thể không được đền bù hay hỗ trợ khôi
phục.
Ở nông thôn Trung Quốc, các tổ sản xuất và thôn xã phân đất cho các
thành viên hộ gia đình sử dụng theo các hợp đồng dài hạn, theo đó người sản
xuất có nghĩa vụ nộp lương thực và thuế theo định mức của chính quyền địa


8
phương. Các cá nhân không thể mua hay bán quyền sở hữu đất, ngay cả như
họ có thể trao đổi quyền sử dụng như ở một số nơi. Tất cả các thành viên
trong tập thể đều được hưởng đền bù một cách công bằng. Khi đất bị chiếm
dụng, đơn vị thôn xã có trách nhiệm điều hoà lại các hợp đồng sử dụng đất và
thâm canh nông nghiệp để nhận lại nhân công lao động. Chính quyền thôn xã
cũng có thể bố trí các công việc phi nông nghiệp ở các xí nghiệp (ví dụ ở các

công xưởng, nhà máy của địa phương), thường là với sự giúp đỡ của chính
quyền thành phố. Nếu không thể nhận lại nhân công làm việc trong phạm vi
nền kinh tế địa phương do những hạn chế về đất đai và dân số, đơn vị thôn xã
có thể cho phép một số thành viên thoát li, đặc biệt ở các vùng đang đô thị
hoá.
*In- đô- nê- xi-a
Nghị định 55/1993 của Tổng thống, chiếm dụng đất vì sự phát triển lợi
ích của công cộng là tài liệu chủ yếu dựa trên các luật trước đó, bao gồm Luật
số 5 năm 1960, Luật ruộng đất cơ bản với các loại sở hữu và sử dụng đất.
Những vấn đề này rất phức tạp do sự chồng chéo về các quyền truyền thống,
quyền sử dụng đất theo kiểu phương tây và những phát triển gần đây trong
việc thuê mượn đất }26}.
Nghị định năm 1993 ghi rõ các thủ tục khiếu nại cho chủ sử dụng đất ,
“định nghĩa lợi ích công cộng” cho các mục đích phát triển, tách riêng các dự
án tư nhân – những dự án phải thu xếp mua bán đất theo lối thông thường;
nhấn mạnh hơn vào việc tham khảo ý kiến cộng đồng, đạt thoả thuận với
người bị ảnh hưởng về hình thức và số lượng đền bù, đồng thời giới thiệu các
phương án đền bù mở rộng bao gồm tiền mặt, đất thay thế, quyền hợp pháp về
đất và tái định cư.
Quy định số 1 năm 1994 của Bộ trưởng các vấn đề về Ruộng đất và Cơ
quan Đất Quốc gia hướng dẫn thực thi Nghị định 55/1993 – Chiếm dụng đất


9
vì sự phát triển lợi ích công cộng. Theo quy định này, Thống Đốc mỗi tỉnh sẽ
thành lập một Ban chiếm dụng đất ở Kabupaten và Kotamadya do Bupati hay
Walikota đứng đầu. Ban này cũng bao gồm đại diện của các cơ quan cấp II về
đất, thuế, xây dựng, nông nghiệp, lãnh đạo các huyện xã và hai thành viên độc
lập khác. Thống sẽ lập Ban chiếm dụng đất cấp tỉnh nếu dự án phát đi qua
nhiều chính quyền cấp II. Các Thống đốc cũng có thể ra các nghi định riêng

cho từng dự án cụ thể, có hướng dẫn cụ thể về quyền lợi và thủ tục đền bù, hỗ
trợ cho người bị ảnh hưởng, làm cơ sở lập kế hoạch, thực hiện và giám sát
TĐC theo nghị định 55/93 của Tổng Thống. Một số dự án do ngân hàng thế
giới tài trợ ở Bali và Đông Gia - Va cũng đã áp dụng phương thức này.
Ban chiếm dụng có quyền kiểm kê đất đai và các tài sản khác trên đất đai
bị chiếm dụng; kiểm tra tình trạng pháp lý của đất; thông báo và thương
lượng với những người bị ảnh hưởng và cơ quan sử dụng đất; ước tính đền
bù; ghi lại và chứng kiến việc trả đền bù.
Một quy định khác có liên quan của Chính phủ về Đánh giá Tác động
Môi trường, số 51 năm 1993 yêu cầu phải có kế hoạch quản lí và giám sát các
tác động môi trường, trong đó có cả việc chiếm dụng đất và TĐC. Quy định
này cũng đòi hỏi giảm nhẹ các tác động về xã hội, thông tin cho dân và tham
khảo ý kiến cộng đồng.
* Pa- ki-xtan
Đạo luật Chiếm dụng đất (ra đời năm 1894 và về sau có sửa đổi, bổ
sung) quy định việc chiếm dụng đất cho các mục đích p
hát triển của Chính phủ
Pa –ki- xtan.
Đoạn 4 nói về thông báo điều tra sơ bộ. Đoạn 6 về công bố chiếm
dụng đất. Đoạn 8 nói về điều tra và lập kế hoạch chi tiết. Còn các đoạn từ 11
đến 15 và từ 23 đến 28 là về điều tra của đơn vị Thu đất với các yêu cầu và
giá trị đền bù, định mức đền bù - chủ yếu dựa trên giá thị trường. Các đoạn 16


10
và 17 ghi rõ việc chiếm dụng bắt buộc, trong khi đoạn 18 giải quyết vấn đề
khiếu nại tại toà án dân sự cấp huyện, và cấp cao hơn, nếu cần }26}.
Mỗi tỉnh đều có cách áp dụng và cách hiểu Nghị định riêng qua Sở Thuế
đất và đơn vị Thu đất. Nói chung, giá đền bù được lập thông qua giá trị thị
trường được bảo đảm xác định chính thức; giá này dựa trên giá thị trường cũ

và có thể không phản ánh gía thị trường hiện tại. Dự án Thuỷ điện Ghazi
Barotha là một ví dụ cụ thể về loại dự án đã đưa ra được những cách thức
quản lí TĐC mới, trong đó có một ban độc lập bao gồm các chuyên gia môi
trường và xã hội; các nghiên cứu về các vấn đề tái định cư và môi trường chi
tiết ; sự tham gia của các NGO trong nước và các tổ chức cộng đồng của địa
phương trong quá trình đối thoại năng động, kể cả các buổi họp có giới hạn;
và việc thành lập một thông tin về dự án và các chi nhánh trực thuộc để liên
hệ với những người bị ảnh hưởng, giải thích và phân phát các tài liệu quan
trọng cho họ. Các biện pháp đền bù tài sản theo giá thay thế và khôi phục
những người bị ảnh hưởng được thống nhất để phục hồi hay nâng cao khả
năng tạo thu nhập và mức sống của họ. Dựa trên việc đánh giá giá trị thị
trường được xác định chính thức, dự án đã thay đổi nguyên tắc Punjab năm
1983 về việc bên lấy đất định giá đất. Thay vào đó, một uỷ ban ( bao gồm
WAPDA, NGO và đại diện những người bị ảnh hưởng) đã được thành lập để
qui định mức giá đền bù qua tham khảo ý kiến những người bị ảnh hưởng.
*Phi- líp- pin
Hiến pháp năm 1997 của Phi- lip - pin định ra chính sách cơ bản về đất
đai và đòi hỏi đền bù công bằng cho đất tư nhân bị Nhà nước sung công. Luật
Hành pháp 1035 (1985) hướng dẫn việc thu hồi tài sản tư nhân của Chính phủ
vì các mục đích phát triển, theo đó Chính phủ có thể sử dụng biện pháp mua
theo thoả thuận hoặc trưng dụng. Đoạn 17, 18 nói về việc tái định cư những
người thuê nhà - đất, nông dân và các đối tượng sử dụng đất không có quyền


11
chính thức khác do Bộ định cư (nay đã giải thể) và Bộ cải cách ruộng đất(nay
là Vụ Cải cách Ruộng đất) và cơ quan chiếm dụng đất tiến hành. Các tổ chức
này cũng sẽ đền bù hoa màu bị thiệt hại của người thuê đất, các cộng đồng
văn hoá và người dân phải di chuyển.
Đạo luật Cộng hoà 1992 số 7292 về phát triển Đô thị và Nhà cửa đặt ra

nền tảng, thủ tục và các yêu cầu về giải toả người định cư bất hợp pháp khỏi
các khu đất chiếm dụng cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Đạo luật này
đòi hỏi chính quyền tất cả các thành phố cùng Ban Điều tiết Sử dụng đất và
Nhà cửa tiến hành kiểm kê đất và các đầu tư vào đất. Đây là cơ sở xác định
đất Chính phủ cho “ các khu vực định cư và nhà cửa xã hội hoá cho các yêu
cầu trước mắt và lâu dài của những người vô gia cư và thiệt thòi về các quyền
lợi ở các vùng đô thị ” Điều 5 và 6 ra điều kiện cho chương trình cung cấp
nơi ở cho “ những người chịu thiệt về quyền lợi và người vô gia cư” qua tham
khảo ý kiến của các chủ dự án tư nhân và các cơ quan của Chính phủ. Điều 8
quy định về Quy hoạch lại đô thị và Tái định cư, chủ yếu tập trung vào ưu
tiên phát triển tại chỗ. Điều này cho phép giải toả tất cả “ những người chuyên
định cư bất hợp pháp” mà không phải đền bù . Điều 8 cũng định ra quy trình
di chuyển “ các công dân chịu thiệt về quyền lợi và vô gia cư” ra khỏi những
khu vực nguy hiểm. Những người này cần được xác định, tư vấn và hỗ trợ tài
chính bằng tiền mặt. Dưới sự bảo trợ của chính quyền địa phương và Sở Nhà
cửa quốc gia, họ sẽ được chuyển tới các khu lắp đặt các dịch vụ, cơ sở hạ tầng
cơ bản và được tạo điều kiện có việc làm. Các Nguyên tắc và Quy định Thực
thi riêng, do liên ngành phối hợp lập, đi kèm các điều khoản của Đạo luật.
Các nguyên tắc bổ sung hướng dẫn việc thu hồi tài sản nói chung(1993),
việc chiếm dụng đất xây các khu nhà xã hội hoá (1993) và định giá trị đất cho
các khu nhà xã hội hoá (1992). Các nguyên tắc này đảm bảo việc di chuyển
và tái định cư hợp lý, nhân đạo, qui định việc giải quyết khiếu nại theo Đạo
luật 7279. Thông tư số 35 lại nói về các hành lang bảo vệ. Đạo luật Cộng hoà


12
7160 năm 1992 (Luật địa phương) cho phép các chính quyền địa phương sử
dụng đặc quyền khi chiếm dụng đất và trả tiền đền bù công bằng.
Một số các đạo luật khác chi phối các cơ quan ngành. Ví dụ Đạo luật
Cộng hoà 7638 của Sở Năng lượng (1992) hướng dẫn rằng một phần tiền kinh

doanh điện phải trả cho Quĩ Phát triển và Sinh Kế cũng như cho việc cải tạo
môi trường.
1.1.2. Cách tiếp cận khi đánh giá phát triển bền vững ở các nước.
Hội nghị Rio-92 đã nêu rõ tầm quan trọng của các chỉ thị trong hỗ trợ
các quốc gia đưa ra các quyết định về PTBV. Sự ghi nhận này đã được thể
hiện trong chương 40 của nghị sự 21 (Agenda 21), kêu gọi các quốc gia, các
tổ chức quốc tế, chính phủ hãy xây dựng và xác định các chỉ thị của PTBV
|23| . Agenda 21 đặc biệt kêu gọi về sự hoà hợp các nỗ lực để xây dựng các
chỉ thị PTBV ở cấp quốc gia, vùng toàn cầu.
Agenda21 là một khung kế hoạch chung để thiết kế các chương trình
hành động, bao gồm mục tiêu, hoạt động và phương tiện nhằm đạt được sự
PTBV thế giới trong thế kỷ 21.
Agenda 21 đưa ra những định hướng cho PTBV, thể hiện những vấn đề
hiện tại và thách thức mà thế giới sẽ phải đối mặt trong thế kỷ 21, phản ánh sự
đồng lòng của toàn thế giới và những cam kết ở cấp cao nhất về hợp tác phát
triển và bảo vệ môi trường. Đây là một văn kiện khẳng định nguyện vọng
phát triển theo một cách thức đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các bộ phận cấu
thành sự phát triển bền vững.
Sau Rio 92 nhiều quốc gia xây dựng Agenda cho mình, tuỳ điều kiện
mỗi nước mà có nội dung phù hợp.
Ví dụ như Agenda 21 của Trung Quốc là văn kiện chỉ đạo kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của nhà nước theo PTBV và được cụ thể hoá bằng các


13
chỉ tiêu, kế hoạch hàng năm của nhà nước. Agenda 21 của Trung Quốc bao
gồm 4 phần chính, mỗi phần có 1 số chương, mỗi chương có giới thiệu về vấn
đề và các chương trình hành động. Với Agenda 21 của Philippin được soạn
thảo và phê duyệt năm 1995 với nội dung gồm 3 phần chính: phần 1 là các
nguyên tắc thống nhất, phần 2 là chương trình hành động, phần 3 là kế hoạch

thực hiện.
Sau hội nghị RiO-92 đến hội nghị Rio+10 tại Johannesburg (Nam Phi)
với chủ đề “PTBV” đã thông qua một kế hoạch hành động mới. Kế hoạch này
nhằm tiếp tục thực hiện Agenda21 và đề xuất 9 phương hướng quan trọng là:
- Xoá đói giảm nghèo
- Thay đổi phương thức tiêu dùng và sản xuất không bền vững
- Bảo vệ và quản lý tài nguyên thiên nhiên.
- PTBV trong bối cảnh toàn cầu hoá các nền kinh tế
- PTBV và sức khoẻ con người
- PTBV tại quốc đảo đang phát triển
- PTBV tại châu Phi và các sáng kiến cho khu vực khác
- Các biện pháp thực hiện PTBV
- Khung thể chế để PTBV.
Để đáp ứng yêu cầu từ Agenda 21 về xây dựng các chỉ thị PTBV và để
đáp ứng nhu cầu đánh giá xem cộng đồng mình đang ở đâu trong tiến trình
PTBV, Uỷ ban về PTBV ( Commision on Sustainable Development) đã đề ra
“ Chương trình công tác chỉ thị PTBV” ( Work Programme on Indicators of
Sustainable Development) vào năm 1995. Với mục đích làm cho chỉ thị
PTBV có thể tiếp cận đến những người ra quyết định ở cấp quốc gia bằng
cách xác định các chỉ thị, đưa ra các phương pháp đào tạo |8|.


14
Tại nhiều quốc gia đã có cách tiếp cận riêng trong việc xây dựng bộ chỉ
thị PTBV cho quốc gia mình, nhưng phần lớn đều tham khảo hướng dẫn của
Uỷ ban về PTBV kết hợp có chọn lọc trên cơ sở thực tiễn của mình hoặc chỉ
do chính phủ quyết định.
Với Trung Quốc hệ thống chỉ thị PTBV gồm 80 chỉ thị đơn (CT), thuộc
5 lĩnh vực khác nhau: 16 CT kinh tế, 18 CT tài nguyên, 16 CT môi trường, 16
CT xã hội, 7 chỉ thị dân số, 7 chỉ thị KHCN. Trong khi ở Philippin gồm 43

đơn chỉ thị và không chia thành các chỉ thị riêng biệt. Bộ chỉ thị PTBV của
Anh gồm 15 chỉ thị đơn, chia cho 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường.
Mỹ chọn tới 219 chỉ thị đơn cho đánh giá PTBV vào năm 1996, đến năm
1997 rút gọn còn 32 chỉ thị đơn.
Sử dụng hợp lý tài nguyên đất bao gồm việc sắp sếp, bố trí các loại hình
sử dụng đất phù hợp với điều kiện tự nhiên hay điều kiện sinh thái. Để có căn
cứ lựa chọn loại hình sử dụng đất bền vững cần làm rõ khái niệm sử dụng đất
bền vững, theo đó mới có thể xem xét và lựa chọn được các loại hình sử dụng
phù hợp. Cho đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu về phát triển bền vững,
theo Tổ chức ủy ban Thế giới về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc
(WCED)|50| “ Phát triển bền vững là phát triển để đáp ứng được nhu cầu của
đời này nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng được nhu cầu của đời
sau”. Theo Jaroen jan den Bergh, việc áp dụng phương pháp tiếp cận mới vào
thực tiễn về phát triển bền vững đã có một số tiến bộ. Một số tổ chức tài chính
quốc tế đã phát triển vấn đề trên theo hướng xây dựng chỉ tiêu và chỉ số để
đánh giá sự bền vững. Theo Ngân hàng thế giới (WB), phát triển bền vững
phải thể hiện được cả ba mặt:kinh tế, môi trường, xã hội và phải được định
lượng hoá bằng các chỉ số. Nhiều khái niệm “ Tam giác bền vững” và sau này
đổi thành “ Ma trận bền vững” là những đóng góp về phương pháp luận của
WB cho phát triển bền vững. Những chỉ tiêu bền vững về sinh thái có thể kể
đến là tính toàn vẹn của hệ sinh thái, khả năng chuyển tải và bảo vệ tài


15
nguyên thiên nhiên, bền vững về mặt xã hội. Tuy các chỉ tiêu này còn nghèo
về định lượng đặc biệt là chỉ tiêu về mặt xã hội nhưng đã giúp đánh giá nhiều
mặt của phát triển bền vững. Gần đây nhất một khái niệm rất lý thú đang được
WB khai thác đánh giá tính bền vững và sự giàu có của một quốc gia “ bền
vững là cơ bản phát triển”. Theo khái niệm này thì dự trữ tư bản quốc gia(tài
sản quốc gia) chứ không phải theo thu nhập được dùng là tiêu chuẩn đánh giá

hiệu quả kinh tế và môi trường. Tài sản quốc gia bao gồm tài sản do con
người làm ra, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người, tài nguyên xã hội.
Bốn dạng thức của cải này được liên kết với nhau ở mức độ cao, chúng bổ
sung, đôi khi tăng cường cho nhau đóng góp vào hoạt động kinh tế. Như vậy
sự thay đổi về dự trữ tư bản sẽ dẫn đến thay đổi về các cơ hội kinh tế và
không kinh tế hiện có cho con người hiện tại và các thế hệ tương lai. Với ý
nghĩa trên, khái niệm
“ sự bền vững là cơ hội phát triển” được định nghĩa như sau: “ Sự bền vững là
để lại cho các thế hệ tương lai, nếu không được nhiều hơn cũng bằng những
cơ hội chúng ta đã có cho chính chúng ta ngày hôm nay. Các tiếp cận này
mang tính thực tiễn và tích cực hơn các nhìn nhận về tính bền vững của
WCED nêu trên. Cách tiếp cận mới nhìn nhận việc sử dụng hợp lý các nguồn
tài nguyên cho phát triển kinh tế, điều này chứng tỏ dự trữ tư bản được xác
định dưới 4 dạng thức như tài sản ở trên được bảo đảm từ điểm xuất phát và
trong quá trình phát triển ít nhất là như nhau nếu không nói là tốt hơn |50|.
Như vậy, phát triển bền vững được đặt ra như là một đòi hỏi cấp bách
của chính sự tồn vong con người hôm nay và của các thế hệ con cháu chúng
ta trong tương lai. Hiện nay phát triển bền vững được sử dụng như là điểm
xuất phát để xem xét một cách sâu rộng hơn, toàn diện hơn các vấn đề kinh tế
học, môi trường và xã hội. Cách tiếp cận bền vững ngày càng được phát triển
và được mở rộng cho nhiều ngành trong đó có vấn đề về phát triển nông
nghiệp bền vững.


16
* Phát triển nông nghiệp bền vững
Sự phát triển bền vững nông nghiệp ở các nước đang phát triển được coi
là thành công của sự phát triển bền vững, đây cũng là ngành khai thác sử
dụng hai nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng bậc nhất đối với sự tồn
vong của con người là đất và nước mà sự thoái hoá đất do sản xuất nông

nghiệp có đến 28%. Do vậy, vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững được
nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng như các tổ chức quốc tế quan tâm.
Theo Julian Dumasky }47}, “ Nền tảng của một nền nông nghiệp bền
vững là duy trì tiềm năng sản xuất sinh học, đặc biệt là duy trì chất lượng đất,
nước và tính đa dạng gen” và “nền nông nghiệp bền vững” phải đảm bảo
được 3 yêu cầu” (1) Quản lý đất bền vững; (2) Công nghệ được cải tiến;(3)
Hiệu quả kinh tế phải được nâng cao, trong đó quản lý đất bền vững được đặt
ra hàng đầu”. Cũng theo Julian Dumasky (1997), “ Nông nghiệp giữ vai trò
động lực cho phát triển kinh tế hầu hết các nước đang phát triển. Một nền
nông nghiệp bền vững hơn rất cần thiết để tạo ra những lợi ích lâu dài, góp
phần vào phát triển bền vững và xoá đói giảm nghèo” |47|.
Theo Suyth và Dumasky (1993), “ Mục tiêu của quản lý đất bền vững là
điều hoà các mục tiêu và tạo cơ hội để bảo vệ môi trường, kinh tế, xã hội, vì
lợi ích của con người không chỉ cho các thế hệ hôm nay mà còn cho các thế
hệ mai sau”. Các tác giả cũng cho biết “ Cộng đồng khoa học thế giới, đứng
đầu là Hội Khoa học đất Quốc tế, Uỷ ban về nghiên cứu đất, FAO, WB,
Trung tâm phát triển phân bón quốc tế, Tổ chức Rockefeler và nhiều cơ quan
khác đang phối hợp với nhau để xây dựng một khung quốc tế cho việc đánh
giá quản lý đất bền vững.
*. Khung đánh giá sử dụng đất bền vững
Một khuôn khổ để đánh giá các giải pháp quản lý bảo vệ đất dốc nói
riêng và đất nói chung có 3 mặt bao gồm:(i) lợi ích , đây là giải pháp quản lý
đất có đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường, đem lại lợi ích bao nhiêu cho


17
con người; (ii) thời hạn, đây là giải pháp có thể thực hiện được trong khuôn
khổ tổ chức và chính sách, đây là giải pháp có thể thực hiện được không và
(iii) hỗ trợ chính sách, đây là giải pháp có thể thực hiện được trong khuôn khổ
tổ chức và chính sách quốc gia hay không. Theo đó khung đánh giá quản lý

đất dốc bền vững đã được đề xuất từ năm 1991, trong đó 5 thuộc tính của khái
niệm bền vững được xem xét là : tính sản xuất hiệu quả , tính an toàn, tính
bảo vệ, tính lâu bền và tính chấp nhận. Nhóm công tác về khung đánh giá
quản lý đất dốc bền vững (Narobi, 1991) đã đưa ra định nghĩa:“ Quản lý bền
vững đất đai bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm
liên hợp các nguyên lý kinh tế, xã hội với các quan tâm về môi trường để
đồng thời duy trì hoặc nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất), giảm rủi ro
trong sản xuất( an toàn), bảo vệ tiềm năng và ngăn ngừa thoái hoá đất và nước
(bảo vệ) và được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận)”. Tính bền vững và tính
thích hợp có quan hệ với nhau, tính bền vững có thể được coi là tính thích
hợp.
Theo mô hình của Jacobs và Saldler 1990 thì cách tiếp cận khi đánh giá
PTBV là kết quả của các tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của ba hệ
thống chủ yếu của thế giới: Hệ thống tự nhiên (gồm tài nguyên thiên nhiên,
các hệ sinh thái, các thành phần môi trường của trái đất), hệ thống kinh tế ( hệ
sản xuất và phân phối sản phẩm), hệ thống xã hội (quan hệ của con người
trong xã hội). quan hệ giữa PTBV với ba hệ thống chủ yếu này được mô tả
qua hình 1.
Trong mô hình này thể hiện phát triển bền vững là sự dung hoà các
tương tác và thoả hiệp giữa ba hệ thống chủ yếu kinh tế, xã hội và môi
trường. Sự tương tác và thoả hiệp của ba hệ thống trên dẫn đến các mục tiêu
phát triển bền vững trong các lĩnh vực hẹp.
Một cách tiếp cận khác, dựa trên sự cân bằng phúc lợi sinh thái và phúc
lợi xã hội – nhân văn trong mô hình quả trứng (hình 2). Hệ thống này do
IUCN đề xuất và cho rằng xã hội loài người như lòng đỏ trứng nằm bên trong
lòng trắng trứng là hệ sinh thái (HST). Quả trứng chỉ thực sự tốt khi cả lòng
đỏ và lòng trắng đều phải tốt. Tương tự, xã hội được bền vững chỉ khi nào cả


18

điều kiện của con người và điều kiện của HST đạt yêu cầu và được cải thiện.
Nếu một trong hai điều kiện không thoả mãn hoặc xấu đi thì xã hội trở nên
không bền vững |8|.
Hình 2. Mô hình quả trứng của hệ thống môi trường theo IUCN, 1996







Ngoài cách tiếp cận trên, một cách tiếp cận khác thường được dùng trong xây
dựng làng sinh thái (ecovillage) trên thế giới, đó là cách tiếp cận dựa trên ba
lĩnh vực sinh thái, xã hội và tinh thàn. Mô hình chiếc ghế 3 chân minh hoạ
cho cách tiếp cận này. sự bền vững tổng thể của một cộng đồng (được coi như
mặt ghế) được nâng lên khi cả 3 chân ghế ( tương ứng với 3 lĩnh vực sinh
thái, xã hội và tinh thần) cân bằng và đều được nâng lên |49|.
1.2. Nghiên cứu ở trong nước
1.2.1. Nghiên cứu tình hình chung về công tác tái định cư ở Việt Nam
Ở nước ta tái định cư (TĐC) là một trong những công tác lớn được Đảng
và nhà nước rất quan tâm, tuy nhiên việc thực hiện công tác này vào những
thời kỳ khác nhau vẫn còn thiếu bất cập. Trong giai đoạn đầu, với cách quản
lý của nền kinh tế trong thời kỳ bao cấp việc giải phóng mặt bằng còn mang
tính mệnh lệnh hoặc chủ yếu dựa vào tuyên truyền, vận động. Việc chuyển
dân cư và ổn định sản xuất được đưa lên hàng đầu, giá trị của các khoản đền


các yếu tố
sinh thái
các yếu tố

XH-NV


19
bù không nhiều, không đủ để tái tạo cơ sở vật chất nơi ở và nơi sản xuất. Tuy
vậy, vì sự nghiệp chung của quốc gia, người dân TĐC vẫn sẵn sàng ra đi để
giải phóng mặt bằng. Điển hình cho giai đoạn này là công tác di dân giải
phóng mặt bằng công trình thuỷ điện Hoà Bình (1979). Đến thời kỳ đổi mới,
một mặt do vấn đề sở hữu đất đai, mặt khác để phù hợp với yêu cầu của nền
kinh tế mở, công tác di dân TĐC đã có những thay đổi lớn, thậm chí được đưa
lên hàng đầu. Điều này có thể thấy rõ từ công trình thuỷ điện Yaly (1990).
Ngày nay, với các công trình lớn, việc di dân TĐC thực sự đã được quan tâm
của Đảng và nhà nước. Ví dụ công trình thuỷ điện Sơn La, Na Hang, Khu
công nghiệp Dung quất, thuỷ điện Bản Vẽ, các công trình này đã được đầu
tư cho việc bồi thường thiệt hại và hỗ trợ TĐC khá lớn, có khả năng đáp ứng
được yêu cầu xây dựng quê hương mới cho dân TĐC. Tuy vậy, những điểm
TĐC đạt yêu cầu phát triển hậu di dân TĐC còn rất ít và nếu có thì chủ yếu là
tự phát. Nguyên nhân chính của tình trạng này còn thiếu sự quan tâm đến
công tác qui hoạch, đánh giá thực trạng tài nguyên khu vực TĐC và chưa xây
dựng được mô hình di dân TĐC thích hợp.
Trong công tác TĐC có một số khái niệm thường gặp như:
- Đền bù: là việc thay thế các loại tài sản bị mất bằng hiện vật hoặc bằng
tiền
- Tái định cư: một mặt được hiểu theo nghĩa rộng là mọi ảnh hưởng, tác
động tới tài sản và tới cuộc sống của những người bị mất tài sản hoặc nguồn
thu nhập do dự án phát triển gây ra, bất kể họ có phải di chuyển hay không.
Mặt khác, dưới góc độ chính sách, tái định cư cần được hiểu là cả quá trình từ
đền bù cho các thiệt hại đến các biện pháp hỗ trợ cho việc tái tạo lại các tại
sản bị mất hoặc hỗ trợ di chuyển trong trường hợp hộ dân cư phải di chuyển
và cuối cùng là toàn bộ các chương trình, biện pháp nhằm giúp những người

bị ảnh hưởng khôi phục lại cuộc sống và nguồn thu nhập của họ. |11|.


20
Như vậy TĐC đã bao hàm cả việc đền bù cho các thiệt hại do dự án phát
triển gây ra. Tuy nhiên, ở Việt Nam chính sách TĐC mới dừng lại chủ yếu ở
việc đền bù cho các thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất nên gọi là chính sách
TĐC thì chưa đúng, nhưng nếu mà chỉ gọi là chính sách đền bù thì cũng chưa
thật đầy dủ và đúng ý nghĩa của nó. Trên thực tế, chính sách đền bù hiện hành
của Việt Nam đã đi xa hơn trong việc đền bù và đang tiến dần tới một chính
sách TĐC hoàn chỉnh.
a. Các hình thức tái định cư
Cho đén nay, việc di dân TĐC của các công trình phát triển kinh tế xã
hội nói chung, đặc biệt là di dân ở các công trình xây dựng nhà máy thuỷ điện
nói riêng được thực hiện theo 4 hình thức là di vén, di xen ghép, di dân tập
trung và di dân tuỳ chọn (tự di chuyển).
- Hình thức di vén: là quá trình di dân tại chỗ, đôi khi mang tính tự phát
của người dân vùng ngập lụt, theo mức nước dâng mà họ di chuyển dần lên
nơi cao hơn. Hình thức tái định cư này là trường hợp bố trí địa bàn tái định cư
thuận lợi về quy mô diện tích, nguồn nước sinh hoạt, đất sản xuất, đáp ứng
nhu cầu cho khối dân cư phải di chuyển từ vùng lòng hồ lên vị trí có địa hình
cao hơn và không bị ngập, nhưng vẫn ở xung quanh hồ chứa. Trường hợp này
ít bị thay đổi về điểm ngụ cư và khoảng cách giữa nơi ở mới và nơi ở cũ là
không xa. Do đó, một phần diện tích đất không bị ngập hoặc bán ngập có khả
năng sản xuất vẫn thuộc quyền sở hữu của họ, tránh được sự tranh chấp về đất
đai ( ngoài diện tích đất bị ảnh hưởng mà người dân ở đây còn có số lượng đất
nằm ở trên vùng ngập. Tuy nhiên hình thức di dân này có những hạn chế là
dân cư sống phân tán, khó đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
- Hình thức di vén xen ghép: là hình thức di dân từ vùng lòng hồ lên sống
chung với người dân địa phương trong xã hay khác xã. Hình thức này tạo sự

tập đoàn kết giữa người dân di cư và người dân sở tại. Nhược điểm của


21
phương thức này là người dân sở tại phải chia sẻ một phần diện tích canh tác
vốn đã hạn chế, mặt khác người dân di cư đến mặc nhiên được thừa hưởng
các công trình phúc lợi xã hội như đường giao thông, trạm xá, trường học và
các cở hạ tầng khác. Trong khi đó người dân sở tại chỉ được đền bù một phần
đất mà chia sẻ cho dân TĐC. Sự chênh lệch về mức ưu đãi giữa 2 nhóm người
này nảy sinh mâu thuẫn giữa người cũ và người mới đến, nhất là họ không
cùng dân tộc.
- Hình thức di dân tập trung: Là hình thức đưa một số lượng dân bị ảnh
hưởng ( từ 25 - 30 hộ trở lên) đến một nơi ở mới mà hầu như chưa có cơ sở hạ
tầng và chưa có người dân sở tại sinh sống, hoặc nếu có thì cũng chiếm một tỷ
lệ nhỏ. Hình thức này có ưu điểm là hoàn toàn chủ động trong việc qui hoạch
bố trí dân cư phù hợp với qui mô, nguyện vọng của người dân và yêu cầu xây
dựng khu kinh tế mới. Nhưng hình thức này có khó khăn là phải đầu tư lớn
cho công tác khảo sát điều kiện tự nhiên, quĩ đất, nước và đặc biệt là đầu tư
vào cở sở hạ tầng. Một khó khăn nữa là định hướng phát triển kinh tế, xã hội
hoàn toàn mới, về lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với
điều kiện tại đây vì phần lớn người dân vùng lòng hồ thường có tập quán
trồng lúa nước, trong khi các khu mới hầu như thiếu loại đất này.
- Hình thức di dân tuỳ chọn: là hình thức mà các hộ phải di chuyển được
nhân toàn bộ tiền đền bù sau đó họ phải tự lo tìm kiếm nơi ở và các sinh kế
cho mình. Hình thức này ít được khuyến khích với cộng đồng người dân tộc
vùng sâu vùng xa do hiệu quả đạt được thấp.
b. Một số văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến di dân TĐC của Việt
Nam và tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La
Nếu như trước năm 1992 đất đai chưa được giao cho các hộ gia đình sử
dụng ổn định lâu dài nên trong nhiều trường hợp khi nhà nước cần có thể thu

hồi đất làm không nhất thiết phải đền bù hoặc chỉ đền bù cho chính quyền địa


22
phương hay cho tập thể đang sử dụng đất. Các tài sản bị thiệt hại cũng không
quy định mức đền bù, mà chủ yếu đền bù theo thoả thuận. Luật đất đai năm
1993 đã đặt cơ sở pháp lý cho chính sách đền bù (TĐC) hiện hành, được cụ
thể hoá bằng các nghị định 90/cp ngày 17/8/1994 của chính phủ và sau đó là
nghị định 22/1998 NĐ-CP ngày 24/4/1998 về đền bù thiệt hại khi nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng. Một số văn bản pháp luật cụ thể có liên quan trực tiếp đến đền
bù trong các dự án phát triển liên quan đến công tác di dân TĐC bao gồm |35|:
- Nghị định 151/TTg của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 14/4/1959
“ Quy định về thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất” là văn bản pháp qui
đầu tiên liên quan đến việc đền bù và tái định cư bắt buộc ở Việt nam. Những
nguyên nhân trong nghị định 151/TTg là đúng đắn, đáp ứng nhu cầu trưng
dụng đất trong nhưng năm thập kỷ 60. Tuy nhiên, nghị định còn chưa quy
định mức đền bù cụ thể mà dựa vào chủ yếu là sự thoả thuận giữa các bên.
Vào đầu thập kỷ 70, nhu cầu lấy đất xây dựng tăng lên, nhiều văn bản mới ra
đời nhằm cụ thể hoá Nghị định 151 trong những điều kiện cụ thể.
- Thông tư 1792/TTg của thủ tướng chính phủ qui định một số điểm tạm
thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu năm, các loại hoa màu trên đất
cho nhân dân ở vùng xây dựng kinh tế, mở rộng thành phố. Nguyên tắc đền
bù là “phải đảm bảo thoả đáng quyền lợi kinh tế của hợp tác xã và của nhân
dân”.
- Quyết định số 186/HĐBT ban hành ngày 31/5/1990 về đền bù thiệt hại
đất nông nghiệp, đất có rừng sản xuất khi chuyển sang sử dụng vào mục đích
khác. Căn cứ để tính mức đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp và đất có rừng
theo quyết định này là diện tích, chất lượng và vị trí đều qui định giá tối đa và
tối thiểu.



23
Nghị định 90/CP ngày 17/8/1994 qui định về việc đền bù thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng. Qui định đối tượng được hưởng chính sách đền
bù, đền bù thiệt hại về đất, đền bù về tài sản và tổ chức thực hiện.
So với các văn bản trước, Nghị định 90/CP có mức độ chi tiết và tính
toàn diện cao hơn. Tuy nhiên, dưới tác động của cơ chế thị trường nghị định
90/CP vẫn cần được phải bổ sung, thay thế. Đặc biệt, khi Việt nam bắt đầu ký
kết các hiệp định vay vốn của một số tổ chức quốc tế ( đặc biệt là World bank
(WB) và Asia Development Bank (ADB) cho các dự án phát triển thì nghị
định 90/CP đã không đáp ứng được chính sách TĐC của tổ chức này.
Nghị định 22/1998 NĐ-CP được ban hành ngày 24/04/1998 thay thế
nghị định 90/CP về việc đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Cho tới
nay, đây là văn bản quan trọng nhất thể hiện chính sách đền bù (TĐC) của
chính phủ trong giai đoạn hiện tại. Ngoài hàng loạt các điều bổ sung một cách
rất chi tiết còn có 2 chương mới là “chính sách hỗ trợ” và “lập khu TĐC”, với
những chính sách hỗ trợ khôi phục cuộc sống. Trong khi bố trí đất ở, khu
TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với thực tế qui hoạch của địa
phương.
Quyết định số 196/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể di đân tái định cư DATĐ Sơn
La.
Quyết định số 02/2007/QĐ-TTg ngày 09 tháng 01 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Dự án thuỷ điện Sơn La.

×