Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế của tòa án nhân dân ở tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.71 KB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy định về thừa kế trong BLDS 2005 là cơ sở pháp lý quan trọng để
Toà án áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực thừa kế, từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong quan hệ dân sự.
Thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS 2005 về thừa kế trong thời
gian qua cho thấy cịn có nhiều bất cập, trong đó có những bất cập ngay trong
chính các quy định của pháp luật. Đây cũng chính là lý do khiến cho việc áp
dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế của Toà án nhân dân
còn nhiều hạn chế.
Hiện nay trong bối cảnh đất nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào
đời sống kinh tế thế giới, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng
nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng
phong phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp.
Hàng năm Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án
thừa kế. Nhiều vụ tranh chấp thừa kế có tính chất phức tạp, phải xét xử nhiều
lần mà tính thuyết phục khơng cao. Sở dĩ cịn tồn tại những bất cập đó là do
nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là do các quy định của pháp luật về
thừa kế chưa đồng bộ, thống nhất. Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần
đây nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới... đã
xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó mục đích của cải cách tư pháp là nhằm
xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao.



2
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành
cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ; hồn thiện chính sách pháp luật hình
sự, dân sự… phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; hồn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính
đồng bộ, dân chủ công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người;
tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học
và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc. Trong đó,
xác định Tồ án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội
hoá mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng nâng cao quyền
hạn trách nhiệm, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, chun mơn; phát huy vai trị
giám sát của các cơ quan dân cử của cơng dân và nhân dân đối với hoạt động
tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Toà án nhân
dân năm 2002, nhiệm vụ trọng tâm của Tồ án là xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các
việc khác theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động trọng tâm của
Toà án là áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và các
vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế nói riêng, được tiến hành theo một quá
trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn của áp dụng pháp luật có mối liên hệ
mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này làm tiền đề cho giai đoạn tiếp
theo với mục đích là giải quyết một vụ án được chính xác, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Đối với Vĩnh Phúc, tuy là tỉnh mới tái lập nhưng lại là một trong những
địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, mọi mặt của đời sống xã hội
có nhiều biến chuyển lớn, các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và cũng hết
sức phức tạp, do đó các tranh chấp dân sự nói chung và các tranh chấp về thừa
kế nói riêng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm gần đây có chiều



3
hướng gia tăng. Thực tế hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh
Phúc cho thấy, các vụ án thừa kế ngày càng phức tạp đòi hỏi trách nhiệm hết
sức nặng nề đối với ngành Toà án án nhân ở tỉnh Vĩnh Phúc nhằm góp phần
làm ổn định quan hệ dân sự nói chung và thừa kế nói riêng, giữ gìn kỷ cương
pháp luật, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong những năm qua, quá
trình giải quyết các tranh chấp thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc
đã đạt được những kết quả nhất định bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
đương sự, góp phần bảo đảm ổn định trật tự xã hội, tăng cường nền pháp chế
xã hội chủ nghĩa trên tồn tỉnh Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, qua thực tiễn áp dụng
pháp luật trong giải quyết các tranh chấp thừa kế có thể phát hiện ra những
thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất, sửa đổi các điều, khoản của
pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, thông qua hoạt động xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm của Toà án nhân dân Tối cao đã phát hiện những thiếu
sót, hạn chế nhất định với nhiều nguyên nhân khác nhau mà hoạt động xét xử
của các Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc đã mắc phải như: Để quá thời hạn
chuẩn bị xét xử; Thẩm phán nghiên cứu văn bản chưa đầy đủ dẫn đến đánh
giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện, bản án tun khơng rõ ràng gây khó
khăn cho cơng tác thi hành án dân sự; Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
nên Toà án cấp trên phải huỷ hoặc sửa bản án của Tồ án cấp dưới… Đặc biệt,
có một số vụ án dân sự còn kéo dài nhiều năm, qua nhiều cấp xét xử ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của công dân. Mặc dù, số bản án bị sửa, huỷ
không nhiều nhưng đây cũng là nhược điểm lớn nhất mà ngành Tồ án nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc ln trăn trở và đã tập trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến
độ, nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc, đặc biệt là các tranh chấp thừa
kế nhằm bảo đảm đúng thời hạn chuẩn bị xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất

các vụ án bị sửa, huỷ; tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất các


4
quy định của pháp luật; tiếp tục củng cố và nâng cao trình độ chun mơn,
phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán từ
cấp huyện đến cấp tỉnh.
Với mong muốn tìm hiểu các quy định của BLDS về thừa kế và việc áp
dụng các quy định này vào thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc (là nơi mà bản thân học viên đã và đang công tác, đặc biệt là
tham gia giải quyết nhiều vụ tranh chấp thừa kế), tôi đã mạnh dạn chọn đề tài
“Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế của Tòa án
nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc” cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành
luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến dưới góc độ lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng vào việc giải quyết tranh chấp. Ngồi ra, nhiều
cơng trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí bàn luận về các quy định
của pháp luật về thừa kế như thời hiệu khởi kiện, điều kiện có hiệu lực của di
chúc, di chúc vô hiệu và hiệu lực pháp luật của di chúc, diện và hàng thừa kế
theo pháp luật dân sự Việt Nam… Có thể chia thành các nhóm sau:
* Nhóm cơng trình khoa học nghiên cứu lý luận về áp dụng pháp luật
thừa kế:
- Đề tài nghiên cứu cấp bộ "Những vấn đề lý luận cơ bản về BLDS Việt
Nam" năm 1997 của Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm
khoa học xã hội nhân văn;
- Cuốn "Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản
năm 1999 và cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong BLDS" xuất bản năm
2001 của TS. Nguyễn Ngọc Điện;
- Cuốn "Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản

năm 1993 của tác giả Nguyễn Mạnh Bách;


5
- Cuốn "Tìm hiểu pháp luật về Luật thừa kế" xuất bản năm 2003 của Mai
Văn Duẩn.
Trong các cơng trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn đề
lý luận cơ bản về thừa kế như quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc,
thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế... Tuy vậy, các tác giả không
khái quát được lịch sử hình thành và phát triển các quy định này qua các thời kỳ.
Hơn nữa, đa số các đầu sách này viết trước năm 2003, nên có rất nhiều điểm
khơng cịn phù hợp với thực tiễn hiện nay.
* Nhóm các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã có một số tác giả nghiên cứu
về thừa kế:
- TS. Phạm Văn Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di chúc theo quy định
BLDS Việt Nam" năm 2003;
- TS. Phùng Trung Tập với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân
Việt Nam" năm 2001;
- ThS. Nguyễn Hải An nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi
kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam" năm 2004;
- ThS. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có hiệu lực
di chúc" năm 2005;
- ThS. Phan Thị Kim Chi với đề tài “Diện và hàng thừa kế theo quy
định của BLDS năm 2005” năm 2006;
- ThS. Đỗ Quảng Oai với đề tài “Diện và hàng thừa kế theo pháp luật
dân sự Việt Nam” năm 2006;
- ThS. Nguyễn Thị Châu với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở
Việt Nam hiện nay” năm 2007;
- ThS. Lê Đức Bền với đề tài “Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt
theo quy định của pháp luật Việt Nam” năm 2009.

* Ngồi ra cịn một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí chuyên
ngành như bài của ThS Trần Thị Huệ "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự
của một số nước trên thế giới", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10 năm
2006; Thái Cơng Khanh "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện


6
điều 679 BLDS về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp
chí Tồ án nhân dân, số 16 năm 2006; Thái Công Khanh "Phương pháp giải
quyết xung đột pháp luật về thừa kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số 20 năm
2006; ThS Lê Minh Hùng “Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di
chúc chung của vợ chồng”, Tạp chí Khoa học Lập pháp, số 4 năm 2006; ThS
Lê Minh Hùng “Thời điểm có hiệu lực của di chúc của vợ, chồng”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 20 tháng 10/2009.
Tuy nhiên, các cơng trình khoa học này mới chỉ dừng lại ở việc xem
xét, đánh giá các quy định của pháp luật về thừa kế mà chưa có sự đánh giá
một cách toàn diện cả trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật đối với lĩnh vực này.
3. Đối tượng và phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật
trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế, nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật,
nguyên nhân và những bất cập trong việc áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân ở
tỉnh Vĩnh Phúc từ đó đưa ra những giải pháp đảm bảo cho áp dụng pháp luật trong
giải quyết các tranh chấp về thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật để giải quyết
các tranh chấp thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc trong khoảng thời
gian từ năm 2006 đến năm 2010.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

4.1. Mục đích luận văn
Nghiên cứu đề tài “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh
chấp về thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc”, luận văn nhằm đạt
được những mục đích sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết các
tranh chấp thừa kế;


7
- Đánh giá thực tiễn của hoạt động này trong những năm qua của Toà
án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc;
- Đưa ra những quan điểm và giải pháp đảm bảo việc áp dụng pháp luật
trong giải quyết các tranh chấp thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc
hiện nay, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của
hệ thống Toà án nước ta.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được những mục đích trên đây,
luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, Xây dựng khái niệm, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
thừa kế và phân tích các đặc điểm, nội dung, cũng như nêu lên các giai đoạn của
việc áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết tranh chấp thừa kế;
Hai là, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh
chấp thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh phúc từ năm 2006 đến 2010, rút
ra những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế đó;
Ba là, làm sáng tỏ những quan điểm và luận chứng cho các giải pháp
chủ yếu nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp thừa
kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà

nước về lĩnh vực thừa kế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp
phân tích, phương pháp quy nạp, tổng hợp, diễn giải...
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn tập trung phân tích và làm rõ được khái niệm, đặc điểm và
các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp thừa kế;


8
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra được những hạn chế, bất cập cần áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế của Toà án
nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời, phân tích làm rõ được nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập đó;
- Đề xuất, phân tích được những quan điểm và các giải pháp có tính
khả thi nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật có hiệu quả trong giải quyết các
tranh chấp thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về áp
dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
thừa kế của Toà án nhân dân ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, làm sáng tỏ những
đặc thù của loại tranh chấp này ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên ngành luật và không
chuyên luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người đang
trực tiếp làm công tác giải quyết tranh chấp phát sinh từ thừa kế nói chung,
cho các cán bộ đang làm công tác giải quyết tranh chấp thừa kế trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn được kết cấu bởi 3 chương và 7 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THỪA KẾ
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
về thừa kế của Toà án nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật là phương tiện để thể chế hố đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng, đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện có hiệu
quả trên quy mơ tồn xã hội; là phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời
sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hố, giáo dục, an ninh quốc phịng,
khoa học kỹ thuật...; là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền
làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, để pháp luật thực
sự đi vào cuộc sống thì ngồi yếu tố như sự phù hợp của hệ thống quy phạm
pháp luật với các điều kiện kinh tế, lịch sử, trình độ phát triển của xã hội, Nhà
nước cịn phải quan tâm khơng kém phần quan trọng đến hoạt động tổ chức
thực hiện và áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh. Bởi lẽ, cho dù có ban
hành ra những văn bản pháp luật hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các quy định
của những văn bản đó khơng thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều
chỉnh pháp luật vẫn chưa đạt được mà chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách

quan của quản lý nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều
nhưng ít đi vào cuộc sống, điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém
hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động
có quan hệ chặt chẽ với nhau.


10
Thực hiện pháp luật là hành vi của con người phù hợp với những quy
định của pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi khơng trái, khơng vượt q
phạm vi các quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho Nhà nước và cho
bản thân các cá nhân. Hành vi hợp pháp rất đa dạng và phong phú, chúng có
thể được thực hiện phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể
chỉ phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Hành vi hợp pháp của các chủ thể có
thể được thực hiện xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: sự tự giác của bản
thân chủ thể; do ảnh hưởng của dư luận xung quanh hoặc là kết quả của việc
áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Thực hiện pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích, làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật rất phong phú
nên hình thức thực hiện chúng cũng được tiến hành theo nhiều cách khác
nhau. Khoa học pháp lý đã xác định có bốn hình thức thực hiện pháp luật sau:
Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật; áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật, cịn gọi là tn theo pháp luật, là hình thức các chủ
thể quan hệ pháp luật không thực hiện những hành vi mà pháp luật đã ngăn cấm.
Thông qua hình thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể quan hệ pháp luật, các
quy phạm pháp luật ngăn cấm được tôn trọng và thực hiện trên thực tế.
Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật là hình thức các chủ
thể quan hệ pháp luật phải thực hiện những hành vi mà pháp luật quy định
được thực hiện trong những hoàn cảnh, những quan hệ pháp luật mà pháp luật
đã dự liệu cụ thể. Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực

bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể thực hiện
hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà
nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Sử dụng pháp luật, là hình thức các chủ thể thực hiện pháp luật sử dụng
các quyền mà pháp luật cho phép. Đây cũng là hình thức thực hiện pháp luật


11
chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp
luật. Do hình thức thực hiện pháp luật này là việc sử dụng các quyền năng
pháp lý, được pháp luật trao quyền, nên các chủ thể quan hệ pháp luật có
quyền thực hiện hoặc khơng thực hiện các quyền của mình, pháp luật không
bắt buộc các chủ thể phải thực hiện như hai hình thức tuân thủ pháp luật và
chấp hành pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật có
những đặc điểm riêng so với các hình thức thực hiện pháp luật đã nêu trên và
bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có
thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của
việc thực hiện pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp luật
được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể
được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và tội
phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xã hội đã và đang
được thiết lập. Áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ
quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện. Trong hoạt động tư pháp, áp dụng pháp luật thường được Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân... tiến hành theo một thủ tục
tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết vụ
án nhằm xác định sự thật khách quan sự việc; truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác
định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật.
Như vậy, trong bốn hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thể hiện:

Nếu như tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là
những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật là hình thức ln ln có sự tham gia của Nhà nước - là một hình
thức thực hiện pháp luật đặc biệt. Bởi, nếu chỉ thơng qua các hình thức thực
hiện pháp luật như: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp
luật thì pháp luật có lúc khơng được thực hiện triệt để vì các chủ thể khơng tự


12
giác thực hiện. Các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực
hiện mà khơng có sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước. Đối với áp dụng pháp
luật thì mục đích trực tiếp là đảm bảo cho những quy phạm pháp luật được
thực hiện. Thực tế áp dụng pháp luật luôn luôn sinh động và phong phú, vừa
áp dụng cái chung vào cái cụ thể và vừa đặt ra các yêu cầu cụ thể bổ sung
hoàn chỉnh các quy phạm pháp luật để phục vụ cho cái chung, cái phổ biến.
Tính thực tiễn và tính sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể hiện
rõ nét khi phải áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết các tình huống cụ thể.
Trong những trường hợp, sự việc cụ thể khơng có quy phạm pháp luật điều
chỉnh trực tiếp, hay nói cách khác, pháp luật chưa có dự liệu trước thì người
áp dụng pháp luật tiến hành áp dụng pháp luật tương tự. Áp dụng pháp luật
tương tự có thể gồm áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương
tự pháp luật. Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là sử dụng quy phạm pháp
luật của một lĩnh vực, một sự việc khác tương tự để giải quyết cho một sự
việc, một lĩnh vực cụ thể chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp.
Áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc các tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền trong việc tổ chức, tạo
điều kiện cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp
luật, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật.
Nghiên cứu áp dụng pháp luật cho thấy, áp dụng pháp luật có một số

đặc điểm đặc thù sau:
Một là, áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định các cơ quan nhà nước khác nhau có
thẩm quyền áp dụng pháp luật khác nhau. Ngồi ra, trong một số trường hợp cá
biệt, pháp luật trao cho các tổ chức xã hội thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Hai là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp


13
dụng pháp luật theo ý chí đơn phương, khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể
bị áp dụng. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
được bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định.
Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Nghĩa là,
trong khn khổ của pháp luật cho phép người áp dụng pháp luật phải vận
dụng tri thức khoa học của mình để áp dụng pháp luật sáng tạo trên cơ sở có ý
thức pháp luật cao, có kiến thức tổng hợp, kinh nghiệm cuộc sống phong phú
mà khơng dập khn, máy móc.
Áp dụng pháp luật thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Khi cần sử dụng các biện pháp cưỡng chế bằng những chế tài thích
hợp đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không tự phát sinh
nếu khơng có sự tác động của Nhà nước.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham
gia các quan hệ pháp luật mà họ không tự giải quyết được.
- Trong trường hợp Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra,
giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận
sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.

Theo giáo trình Lý luận về Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học
Luật Hà Nội thì áp dụng pháp luật được hiểu là
Hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thơng qua các cơ
quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định
làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp
luật cụ thể [13, tr.469].


14
Theo cuốn tài liệu Học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật (tập 1) của Viện Nhà nước và pháp luật thuộc Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật diễn ra trong
hoạt động thực hiện quyền hành pháp và thực hiện quyền tư pháp
của Nhà nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan
nhà nước được xem như là đảm bảo đặc thù của Nhà nước sao cho
các quy phạm pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong đời sống
xã hội [19, tr.245].
Như vậy trên thực tế có nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về áp
dụng pháp luật. Theo quan điểm của chúng tôi, áp dụng pháp luật được hiểu
như sau:
Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà
nước, được thực hiện thơng qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
các tổ chức xã hội, các cá nhân được Nhà nước trao quyền căn cứ vào các
quy định của pháp luật để ban hành ra văn bản áp dụng pháp luật làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
về thừa kế của Toà án nhân dân

Thừa kế là quan hệ về tài sản có tính chất phổ biến trong đời sống xã hội.
Nhìn nhận một cách tổng quan về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng
một cách kế tục. Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản
từ người chết cho người còn sống. Từ điển luật học đưa ra định nghĩa về thừa
kế là “Sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống” [55 tr.754].
Hiện nay những quy định về thừa kế đã chiếm một vị trí quan trọng với số
lượng điều luật đáng kể, có tính khái qt cao và quy định tương đối đầy đủ,
toàn diện về thừa kế trong BLDS (BLDS 2005 dành riêng phần thứ tư với 4
chương từ chương XXII đến chương XXV và 57 điều luật quy định về thừa kế).


15
Kể từ khi Nhà nước ban hành BLDS đầu tiên năm 1995 và BLDS sửa đổi năm
2005, thì những quy định của BLDS về thừa kế là căn cứ quan trọng, được Toà
án các cấp áp dụng để giải quyết những tranh chấp về thừa kế, nhưng bên cạnh
đó vẫn cịn tồn tại khơng ít khó khăn, lúng túng. Vì trong BLDS vẫn cịn có
những quy định trong chế định thừa kế chưa thật sự phù hợp với thực tế của đời
sống xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập nền kinh
tế thế giới. Tranh chấp thừa kế có thể được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn hay
xung đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia
vào quan hệ thừa kế, trong đó tranh chấp thừa kế là loại tranh chấp ln có sự
tham gia của hai hay nhiều các bên tranh chấp về quyền quản lý, sử dụng và
phân chia di sản thừa kết. Thực tế có nhiều nguyên nhân dẫn đến phát sinh
các tranh chấp về thừa kế như: Nhận thức của các chủ thể pháp luật trong việc
thực hiện các quy định của pháp luật dân sự về thừa kế còn nhiều hạn chế,
người để lại di sản thường không để lại di chúc, nếu có di chúc thì khơng tn
thủ đầy đủ các quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc, rất
nhiều người thừa kế khơng nắm được mình có quyền lợi, nghĩa vụ như thế
nào dẫn đến một bên trong quan hệ tranh chấp không thực hiện hoặc không
muốn thực hiện đúng các quy định của pháp luật; việc vận dụng pháp luật của

cơ quan Tồ án cịn thiếu chính xác, dẫn đến việc nhầm lẫn hoặc sai sót ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các chủ thể pháp luật. Một nguyên
nhân không nhỏ là do hệ thống quy phạm pháp luật dân sự về giải quyết
tranh chấp thừa kế còn chung chung, thiếu đồng bộ nên hiệu quả áp dụng
chưa cao… Trong quan hệ thừa kế nếu việc phát sinh các tranh chấp là
khơng tránh khỏi thì việc giải quyết nó là vơ cùng cần thiết. Giải quyết tranh
chấp thừa kế chính là giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ
giữa các cá nhân, gia đình thậm chí liên quan đến cộng đồng xã hội hoặc tổ
chức. Giải quyết tranh chấp thừa kế trên cơ sở đó phục hồi các quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm, đồng thời cũng buộc các cá nhân, tổ chức chịu


16
trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật dân sự về thừa
kế. Từ thực tiễn địi hỏi phải có các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các
tranh chấp thừa kế đó là Tồ án nhân dân. Trong tổ chức bộ máy Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm
quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt
Nam độc lập, mặc dù khơng quy định rõ Tồ án là cơ quan xét xử, nhưng
trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể hiểu Tịa án là c ơ quan xét
xử. Sau đó, Hiến pháp năm 1959 , 1980 và Hiến pháp 1992 đã quy định rõ
về chức năng xét xử của Toà án. Tại điều 127 của Hiến pháp 1992 đã quy
định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án
quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [30, tr.171]. Trên cơ sở Hiến pháp, điều 1
Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định về chức năng xét xử của Toà án:
“Toà án xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật” [32, tr.7]. Theo quy định của BLTTDS 2004 thì Tồ án là cơ quan
tiến hành tố tụng chủ yếu trong việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án

dân sự nói chung, vụ án thừa kế nói riêng. Ngồi ra, cịn có sự tham gia của
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân
sự kịp thời, đúng pháp luật. Đồng thời, “Viện kiểm sát tham gia phiên toà
đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại,
các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự
mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án” [33, tr.16]. Bên
cạnh đó sự tham gia của Cơ quan Thi hành án dân sự cũng góp phần đảm
bảo sự khách quan, triệt để trong quá trình áp dụng pháp luật nâng cao hiệu
quả của chất lượng giải quyết tranh chấp.


17
Từ phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp thừa kế của Toà án nhân dân như sau:
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp thừa kế là hoạt
động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua
hoạt động của Thẩm phán (trong trường hợp giải quyết tranh chấp không
phải mở phiên toà xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (sau khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử) căn cứ vào các quy định của pháp luật dân sự, các quy định
khác của pháp luật để ra một quyết định cá biệt hoặc một bản án làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật về thừa kế.
Như vậy áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp thừa kế của
Toà án nhân dân là hết sức quan trọng góp phần to lớn vào cơng cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
về thừa kế của Toà án nhân dân
1.1.2.1. Đặc điểm áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật có các đặc điểm đặc thù sau:
- Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà
nước và chỉ do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành, mỗi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, mỗi cá nhân chỉ được giao một số hoạt động nhất định trong
phạm vi thẩm quyền của mình. Trong một số trường hợp cá biệt một số tổ
chức xã hội cũng có thể được Nhà nước trao một số quyền nhất định để tiến
hành áp dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu
theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước, hay những người có thẩm
quyền khơng phụ thuộc vào ý chí của những chủ thể có liên quan. Trong
trường hợp cần thiết, áp dụng pháp luật được thực hiện bằng cưỡng chế Nhà
nước. Trong quá trình áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước và những
người có thẩm quyền phải xem xét cân nhắc thận trọng, và dựa trên những


18
quy phạm pháp luật đã được xác định để ra văn bản áp dụng pháp luật cụ thể.
Văn bản áp dụng pháp luật là hình thức thể hiện chính thức của hoạt động áp
dụng pháp luật, là văn bản pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền xây dựng được Nhà nước trao quyền ban
hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật nhằm xác định quyền và nghĩa vụ
pháp lý cụ thể của cá nhân tổ chức hoặc xác định những biện pháp, trách
nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động được tiến hành theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan
hệ pháp luật được pháp luật quy định rõ ràng nên các cơ quan nhà nước và
những người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định, để tránh sự tuỳ tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật
khơng đúng, thiếu chính xác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật. Hình thức thể hiện của áp dụng pháp luật là văn
bản áp dụng pháp luật được thể hiện cụ thể bằng các bản án, quyết định…

Các loại văn bản trên phải phù hợp với pháp luật, được dựa trên những quy
phạm pháp luật cụ thể. Văn bản áp dụng pháp luật có hai loại là văn bản xác
định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và văn bản bảo vệ pháp luật chứa
đựng những biện pháp trừng trị, cưỡng chế đối với những cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật.
- Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt cụ thể đối với các
quan hệ xã hội xác định trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm
pháp luật. Hay nói cách khác, quy phạm pháp luật thông qua hoạt động áp
dụng pháp luật sẽ được cá biệt hố một cách chính xác thành mệnh lệnh cụ
thể, đối với những chủ thể cụ thể. Tuy nhiên, mệnh lệnh cụ thể không được
trái với mệnh lệnh chung đã nêu trong quy phạm pháp luật.
- Áp dụng pháp luật, là hoạt động địi hỏi tính sáng tạo do vậy các cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật cần phải nghiên


19
cứu kỹ vụ việc là sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó từ đó để lựa chọn những
quy phạm pháp luật để áp dụng phù hợp và ra quyết định, tổ chức thi hành
đúng pháp luật. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định
chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo bằng cách áp dụng tập quán hoặc áp dụng
pháp luật tương tự để giải quyết vụ việc. Trong quá trình áp dụng pháp luật
yêu cầu đối với những người có thẩm quyền là phải có tinh thần trách nhiệm,
ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, kinh nghiệm phong phú, đạo đức
trong sáng và trình độ chun mơn nghiệp vụ tốt.
Tóm lại, hoạt động áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, tính quyền lực
nhà nước được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền hoặc
các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền nhằm cá biệt hoá những quy
phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.2.2 Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
về thừa kế của Toà án nhân dân

Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế của Tòa
án nhân dân là sự biểu hiện của áp dụng pháp luật nói chung, nó mang đầy đủ
đặc điểm của áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất riêng biệt của các
quan hệ thừa kế cùng với trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân sự trong giải
quyết các tranh chấp thừa kế của Toà án, cho nên áp dụng pháp luật trong giải
quyết các tranh chấp thừa kế có những đặc điểm riêng sau:
- Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thừa kế của Tòa án được quy
định rất rõ tại BLTTDS năm 2004, quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa
án giúp cho việc giải quyết các tranh chấp thừa kế của Toà án được thuận lợi,
tạo điều kiện cho đương sự cũng như đáp ứng được yêu cầu theo quy định của
pháp luật nói chung.
Khoản 2, Điều 32 Luật tổ chức Tồ án nhân dân năm 2002 quy định:
“Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ
thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” [32, tr.14].


20
Điều 33 BLTTDS năm 2004 quy định:
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự,
hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại; u cầu về dân sự,
hơn nhân gia đình. Đối với tranh chấp về thừa kế thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện tại điểm a, khoản 1, Điều
33 BLTTDS quy định Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền
giải quyết theo thủ tục những tranh chấp về dân sự quy định tại Điều
25 của BLTTDS [33, tr.25].
Về thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh, tại Điều 28
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định thẩm quyền nói chung của
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo đó Tồ án nhân
dân cấp tỉnh có các thẩm quyền sau:

1. Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng.
2. Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tịa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng.
3. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực thi hành luật của Toà án nhân dân cấp dưới bị kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng.
4. Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật [32, tr.11].
Đồng thời, Điều 34 BLTTDS năm 2004 quy định
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh có thẩm quyền
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
các Điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS, trừ những tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy
định tại khoản 1 Điều 33 BLTTDS. Theo khoản 2 Điều 33


21
BLTTDS thì Tồ án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết
những tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy
định tại Điều 33 của BLTTDS mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy
lên để giải quyết [33, tr.26].
Căn cứ vào quy định trên thì Tồ án nhân dân cấp huyện có đầy đủ
thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm các tranh chấp thừa kế, trừ những
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Toà án
nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thừa kế theo các
trình tự cơ bản. Cụ thể, Toà dân sự giải quyết các tranh chấp thừa kế theo
trình tự sơ thẩm và phúc thẩm; Ủy ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh
xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với những bản án, quyết

định của Toà án nhân dân cấp huyện đã có hiệu lực pháp luật.
- Thủ tục giải quyết các tranh chấp thừa kế của Toà án nhân dân: Áp
dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp thừa kế được tiến hành theo
một thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự và các quy phạm pháp luật
khác quy định. Khi tiến hành giải quyết tranh chấp thừa kế, các trình tự xây
dựng hồ sơ từ khâu thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết định
hoặc đưa vụ án ra xét xử đều phải tuân theo các bước như đã quy định trong
BLTTDS nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
- Nguyên tắc áp dụng luật trong giải quyết các tranh chấp thừa kế của
Toà án nhân dân: Toà án là cơ quan thụ lý và giải quyết các tranh chấp thừa
kế, nhân danh Nhà nước ra các phán quyết nhằm đảm bảo quyền lợi ích của
các đương sự. Chính vì vậy, địi hỏi khi Tịa án áp dụng pháp luật trong giải
quyết các tranh chấp thừa kế, Toà án phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản
của BLDS, BLTTDS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến việc áp
dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp thừa kế.


22
1.2. NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC
TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN

1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một quá trình phức tạp với sự tham gia phối hợp
của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau vì vậy để áp dụng pháp luật
một cách chính xác, đạt hiệu quả cao cần tiến hành các giai đoạn sau:
* Nghiên cứu, phân tích đánh giá đúng những tình tiết thực tế khách
quan của vụ việc và các đặc trưng pháp lý của nó.
Khi quyết định áp dụng pháp luật các cơ quan có thẩm quyền, người có
thẩm quyền phải tiến hành thu thập chứng cứ và dùng các biện pháp chuyên
môn đặc biệt để nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án. Nếu

việc thu thập khơng đúng trình tự, việc xem xét đánh giá đối chiếu chứng cứ
khơng tồn diện, khơng khách quan sẽ dễ dẫn đến những sai lầm khi ra văn
bản áp dụng pháp luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng thì việc nghiên cứu hồ sơ là một
cơng việc không thể thiếu khi tiến hành giải quyết một vụ việc, nếu không
nắm vững nội dung cơ bản của vụ việc người áp dụng pháp luật sẽ khơng thể
có phương hướng đúng đắn để xem xét đánh giá các chứng cứ, các thông tin,
không thể kết nối thành một thể thống nhất để có sự đánh giá mang tính khách
quan, tồn diện vụ án. Nếu có phương pháp nghiên cứu đúng đắn người áp
dụng pháp luật sẽ rất dễ dàng phát hiện các thơng tin, các tình tiết sự việc
chính yếu của vụ việc thông qua các tài liệu, các lời khai, các chứng cứ đã thu
thập trong hồ sơ vụ án. Sau khi thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án
người áp dụng pháp luật phải tiến hành các biện pháp phân tích, đánh giá, đối
chiếu các chứng cứ, tài liệu đã có trong hồ sơ để có cơ sở áp dụng những qui
định phù hợp của pháp luật nhằm ban hành những văn bản đúng pháp luật.
Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét
giải quyết các vụ việc một cách triệt để đúng pháp luật, có tình, có lý. Chất


23
lượng áp dụng pháp luật sẽ được nâng cao khi người áp dụng pháp luật nắm
vững các tình tiết của vụ việc thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, phân tích
đánh giá các tình tiết của sự việc.
* Tìm, lựa chọn những quy phạm pháp luật phù hợp với nội dung vụ
việc đang giải quyết.
Trước hết phải cần dựa trên cơ sở nhận thức pháp luật, trình độ hiểu
biết, tích luỹ kiến thức pháp luật của người áp dụng pháp luật. Tìm và chọn quy
phạm pháp luật chính là sự đối chiếu các tình tiết sự việc xảy ra với quy phạm
pháp luật điều chỉnh phù hợp. Có hay khơng quy phạm pháp luật điều chỉnh ?
Quy phạm pháp luật giải thích như thế nào? Quy phạm được lựa chọn phải có

cịn hiệu lực tại thời điểm xảy ra sự việc cần áp dụng hay không ? Nếu các quy
phạm đó có quy định hiệu lực hồi tố thì cần xem xét để áp dụng cho từng trường
hợp cụ thể và nếu pháp luật chưa quy định thì có quy phạm pháp luật tương tự
để áp dụng hay không? Như vậy, lựa chọn sai quy phạm pháp luật sẽ dẫn đến
hậu quả sai lầm của việc áp dụng pháp luật do vậy đây là một thao tác bắt buộc
và rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo tính đúng đắn và hợp pháp của các văn bản
được ban hành. Quá trình tìm, chọn lựa các quy phạm cụ thể đã u cầu phải có
độ chính xác cao thì khi đã lựa chọn được cũng yêu cầu người áp dụng pháp luật
phải có tư duy lơgíc, khoa học, biện chứng làm sáng tỏ những nội dung và ý
nghĩa khoa học của các quy phạm pháp luật.
* Ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Ban hành văn bản pháp luật là giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng của
q trình áp dụng pháp luật. Do đó, pháp luật địi hỏi người có thẩm quyền
ban hành văn bản áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước, các
thủ tục theo quy định của pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật chính là việc cá thể hố, cụ thể hố những
quyền và nghĩa vụ chung chứa đựng trong các văn bản pháp luật để ấn định
những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những
biện pháp, trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm. Văn bản áp


24
dụng pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mệnh lệnh của Nhà nước được thể
hiện trong các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật khác. Khi ban hành
các văn bản các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải đánh giá những
tình tiết của vụ việc mang tính pháp lý, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Cụ
thể, văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng
tên gọi, đúng trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nội dung văn bản phải
chính xác, rõ ràng, đầy đủ, hình thức văn bản phải đảm bảo các quy định của
thủ tục hành chính. Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành có cơ sở

pháp lý chỉ rõ các điểm, khoản, điều của văn bản áp dụng pháp luật và căn cứ
vào những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và có thật thì mới
bảo đảm áp dụng pháp luật chính xác, có tính thuyết phục. Nếu văn bản áp
dụng pháp luật không phù hợp với thực tế thì khó được thi hành hoặc thi hành
kém hiệu quả hoặc không thể thi hành được.
* Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật theo đó
trong giai đoạn này cần tiến hành các hoạt động bảo đảm cho việc thực hiện
đúng đắn, đầy đủ các văn bản áp dụng pháp luật. Đồng thời cần tiến hành
kiểm tra, giám sát việc thi hành văn bản áp dụng pháp luật nhằm đảm bảo để
quyết định trở thành hiện thực trong đời sống.
1.2.2. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh
chấp về thừa kế của Tòa án nhân dân
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế là vấn đề
rất quan trọng đối với cơ quan Toà án. Để việc áp dụng được chính xác, đạt
hiệu quả cao cần tiến hành theo các quy trình cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tình tiết, tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến vụ việc.
Việc nghiên cứu hồ sơ là một việc không thể thiếu của người Thẩm
phán trước khi tiến hành giải quyết một vụ việc về tranh chấp thừa kế. Để
nắm bắt được những nội dung cụ thể người nghiên cứu hồ sơ phải có phương


25
pháp nghiên cứu phù hợp, đúng đắn nhằm phát hiện các thơng tin, các tình tiết
chủ yếu của vụ án để có đường lối giải quyết đúng đắn. Thơng thường căn cứ
vào các yêu cầu khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo Thẩm phán sẽ
xác định được người khởi kiện yêu cầu vấn đề gì, phạm vi yêu cầu ra sao, các
tài liệu chứng cứ có giá trị pháp lý hay khơng, cịn thiếu những tài liệu gì,
mức độ chứng minh của các tài liệu này để hướng dẫn, giải thích và yêu cầu

người khởi kiện cung cấp đầy đủ những chứng cứ cần thiết. Bên cạnh việc
nghiên cứu những chứng cứ nhằm làm sáng tỏ vụ án thì việc nghiên cứu hồ
sơ cịn giúp Thẩm phán đối chiếu với các quy định của pháp luật tố tụng để
xem xét vụ án có thuộc thẩm quyền của Tồ án hay khơng, đã được hồ
giải ở cơ sở chưa (đối với những vụ án bắt buộc phải hoà giải), người khởi
kiện có quyền khởi kiện hay khơng để có đường lối giải quyết vụ việc đúng
quy định. Khi nghiên cứu hồ sơ một vụ việc không những người Thẩm
phán phải nghiên cứu kỹ các tài liệu do nguyên đơn cung cấp mà còn phải
nghiên cứu kỹ các tài liệu do bị đơn cung cấp, đối chiếu với các tài liệu
khác liên quan đến tranh chấp. Điều này giúp người Thẩm phán làm sáng tỏ
những lý lẽ, những chứng cứ phản bác của bị đơn đối với nguyên đơn để
xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ chấp nhận hay không.
Trong vụ án tranh chấp thừa kế, các tài liệu chứng cứ thu thập được từ
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cũng là những tài
liệu hết sức quan trọng địi hỏi người Thẩm phán phải nghiên cứu, phân tích,
đánh giá để xem xét giải quyết vụ án đúng pháp luật bảo vệ được quyền lợi
chính đáng của đương sự.
Như vậy việc nghiên cứu hồ sơ có ý nghĩa rất quan trọng cho việc xét
xử và giải quyết các vụ án tranh chấp thừa kế. Nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm
vững các tình tiết hiểu được nội dung vụ việc sẽ giúp cho Thẩm phán giải
quyết những vấn đề trong vụ án một cách triệt để đúng pháp luật, có tình, có
lý. Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án cũng giúp Thẩm phán tự tin, chủ động hơn
khi kiểm tra các chứng cứ, tài liệu tại phiên toà.


×