Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Kỹ NĂNG TUYÊN TRUYềN tư tưởng hồ chí minh của cấp ủy đảng cơ sở xã, phường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.32 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ

ĐINH THỊ MAI

Kü N¡NG TUY£N TRUYÒN t tëng Hå Chí
Minh
của cấp ủy Đảng cơ sở xÃ, phờng
Chuyờn ngnh : TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Mã số

:

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS Trần Thị Minh Đức
2. PGS.TS Nguyễn Hồi Loan

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang


1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan nghiên cứu về tuyên truyền, kỹ năng tuyên truyền miệng
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.3. Các yếu tố tác động tới kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh

8

71

Chương 2: TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nghiên cứu lý luận
2.2. Nghiên cứu thực tiễn

83
83
85

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Khái quát sơ lược về cán bộ cấp ủy đảng cơ sở và thực trạng hoạt
động tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở cơ sở
3.2. Thực trạng kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh của cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thể hiện kỹ năng tuyên truyền miệng tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở
3.4. Kết quả thử nghiệm kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh của cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở


104

107

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

109

CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

111

PHỤ LỤC

119

8
25

104

108
108



1

MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng” [27; 127]. Vì vậy, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, thường xuyên trong công
tác tư tưởng của Đảng. Đó là nhiệm vụ của các cơ quan làm cơng tác tư tưởng của
Đảng, của toàn Đảng, của tổ chức đảng các cấp, của đảng viên mà trước hết là cấp
ủy đảng các cấp và đồng chí bí thư cấp ủy.
Thực tế từ khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII;
Chỉ thị 23 - CT/TW, ngày 27 tháng 03 năm 2003 của Ban Bí thư “Về đẩy mạnh
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới” và
Chỉ thị số 06 - CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 7 tháng 11 năm 2006 về tổ chức
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn
Đảng, hệ thống chính trị đến nay, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhất là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã được cấp ủy đảng các cấp chú
trọng lãnh đạo và tổ chức thực hiện một cách thường xuyên hơn. Nhờ đó tư tưởng
Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã dần đi vào cuộc sống, trở thành sự
hiểu biết của số đông các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục này còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, còn mang tính
chiếu lệ; nội dung nghèo nàn, khơ khan; hình thức và phương pháp chậm đổi mới,
thiếu sức hấp dẫn, nhất là ở cơ sở… Do đó tỷ lệ cán bộ, đảng viên và quần chúng
hiểu biết thấu đáo về tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cịn
thấp; phong trào học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Hồ Chí
Minh chưa thực sự thiết thực và hiệu quả.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có một nguyên nhân quan trọng là ý thức,
trách nhiệm và trình độ tri thức, kỹ năng tuyên truyền của cán bộ cấp ủy đảng các
cấp còn nhiều hạn chế và bất cập nhất là cán bộ cấp ủy đảng cơ sở. Bởi lẽ, cán bộ

cấp ủy đảng cơ sở là những người thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, gắn bó với
nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng nên các tư tưởng, quan điểm, chủ
trương, đường lối nói chung, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh đến được với các
giai tầng trong xã hội hay khơng phụ thuộc khơng nhỏ vào trình độ tri thức, kỹ
năng tuyên truyền, nhất là kỹ năng tuyên truyền miệng. Vì vậy, muốn nâng cao chất


2
lượng, hiệu quả tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh trước hết cần quan tâm tới việc nâng cao kỹ năng tuyên truyền tư tưởng Hồ
Chí Minh cho cán bộ cấp ủy đảng các cấp, nhất là cán bộ cấp ủy đảng cơ sở.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận, có cấu trúc lơ-gic chặt chẽ,
được trình bày dưới một hình thức cơ đọng, hàm súc nên khơng phải câu nào, ý nào
của Người cũng có thể nhận ra và lĩnh hội ngay được ý nghĩa cũng như sự sâu sắc
của nó, có khi cùng một mệnh đề lý luận nhưng có nhiều cách hiểu, cách luận giải
khác nhau. Nói như vậy để thấy rằng, muốn nhận thức, muốn phân tích, muốn lý
giải được tư tưởng Hồ Chí Minh người tun truyền phải có trình độ tri thức và kỹ
năng tuyên truyền nhất định mới có thể làm cho người khác nắm và hiểu được tư
tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, bồi dưỡng tri thức lý luận và nâng cao kỹ năng tuyên
truyền tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ cấp ủy đảng, nhất là ở cơ sở là một vấn
đề rất quan trọng và rất cần thiết để khắc phục bất cập giữa yêu cầu nhiệm vụ và
công tác đào tạo, bồi dưỡng thời gian qua; góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh ở cơ sở.
Mặt khác, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh là hoạt động chính trị, xã hội,
liên quan đến ý thức, thái độ và hành vi chính trị, xã hội của mỡi người nên phức tạp
và khó khăn. Vì thế, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và các
phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, hoạt động tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí
Minh của cấp ủy đảng các cấp, trong đó có cấp ủy đảng cơ sở rất cần có sự quan tâm
đầu tư nghiên cứu lý luận và phương pháp luận khơng chỉ ở trong lĩnh vực khoa học
chính trị, khoa học xã hội mà tâm lý học cũng rất cần thiết. Trong đó, việc nghiên cứu

kỹ năng tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh của cán bộ cấp ủy đảng cơ sở dưới góc
độ tâm lý học xã hội là hết sức cần thiết, nhằm tạo ra những căn cứ khoa học trong
đánh giá thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng cũng như các giải pháp hình thành và nâng
cao kỹ năng tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ cấp ủy đảng cơ sở, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh ở cơ sở hiện
nay.
Vì những thực tế trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Kỹ năng tuyên
truyền tư tưởng Hồ Chí Minh của cấp uỷ đảng cơ sở xã, phường ”.


3
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đánh giá thực trạng kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh của cán bộ cấp ủy đảng cơ sở; phân tích các yếu tố ảnh hưởng và đưa ra các
biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng này.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp
uỷ đảng cơ sở.
1.3.2. Khách thể nghiên cứu
-Tổng cộng: 500 người, trong đó:
- 400 cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở.
- 50 đảng viên, quần chúng thuộc các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường.
- 50 người là cán bộ tuyên giáo cấp huyện, thị và tương đương.
1.4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1.4.1. Nghiên cứu lý luận
Hệ thống hoá và xác định một số vấn đề lý luận cơ bản về tuyên truyền, kỹ
năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những biểu hiện của nó
và cách thức rèn luyện để hình thành kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh dưới góc độ tâm lý học xã hội.

1.4.2. Nghiên cứu thực tiễn
Đánh giá thực trạng kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới việc thể hiện kỹ năng tuyên truyền
miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp ủy đảng cơ sở.
1.4.3. Xây dựng và tổ chức thực nghiệm
Thử nghiệm tác động nhằm nâng cao kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng
Hồ Chí Minh cho cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở.
1.4.4. Kết luận và kiến nghị
1.5. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh luận án khơng có khả năng nghiên cứu tồn bộ
nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ tập trung phân tích các nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.


4
- Có nhiều hình thức tun truyền tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhưng
trong luận án này chúng tơi chỉ đi sâu làm rõ hình thức tuyên truyền miệng của cán
bộ cấp ủy đảng cơ sở.
- Kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm nhiều
kỹ năng bộ phận hợp thành, tuy nhiên trong phần thực nghiệm tác động luận án chỉ
tập trung vào 2 kỹ năng cơ bản, đó là kỹ năng biên soạn đề cương tuyên truyền và
kỹ năng diễn đạt.
1.5.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Luận án chỉ tập trung nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Khách thể nghiên cứu tập trung vào cấp ủy đảng cơ sở trực thuộc thành ủy
thành phố Hà Nội, Đảng ủy khối cơ quan Trung ương, Đảng ủy khối Doanh nghiệp
Trung ương, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương.
1.6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
- Kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp

uỷ đảng cơ sở hiện còn yếu kém.
- Kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp
ủy đảng cơ sở chịu sự tác động của các yếu tố: tâm thế của người được tuyên
truyền, uy tín cá nhân và kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ tuyên truyền.
- Có thể nâng cao kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
cho cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở thông qua việc bồi dưỡng cách thức biện soạn đề
cương tuyên truyền và luyện tập kỹ năng diễn đạt.
1.7. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.7.1. Nguyên tắc phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Luận án dựa trên các nguyên tắc và phương pháp luận sau đây của tâm lý
học:
- Nguyên tắc hoạt động - ý thức - nhân cách. Nghĩa là hành động của con
người chịu sự chi phối của ý thức, thái độ, nhân cách, do vậy khi nghiên cứu kỹ
năng của con người cần phải xem xét ý thức, thái độ, nhân cách chứa đựng trong
hành động của người ấy. Mặt khác, tâm lý con người ( nhân cách, kiến thức, kỹ
năng, thái độ ...) là sản phẩm của hoạt động. Vì vậy, để có kỹ năng hành động con
người phải tham gia vào hoạt động thực tiễn một cách tích cực.


5
- Nguyên tắc tiếp cận lịch sử: Con người chịu sự chi phối của các điều kiện
lịch sử, xã hội, vì vậy khi nghiên cứu kỹ năng hành động con người cần phải
xem xét nó trong những hồn cảnh lịch cụ thể của sự phát triển xã hội, như: mỗi
giai đoạn hay mỡi thời điểm của đất nước thì những yêu cầu về phẩm chất , năng
lực tuyên truyền (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tuyên truyền) của cán bộ tun
truyền là khác nhau, nó ln phải phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của

người được tuyên truyền.
- Nguyên tắc hệ thống: Kỹ năng hành động của con người chịu sự tác động
của nhiều yếu tố như: tâm thế tiếp nhận thông tin tuyên truyền của người được
tuyên truyền, cơ sở vật chất kỹ thuật của tuyên truyền, uy tín cá nhân và kinh
nghiệm thực tiễn của người cán bộ tuyên truyền... Vì thế, khi nghiên cứu về kỹ
năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cần đặt nó trong mối quan
hệ với các yếu tố khác để xem xét.
1.7.1.1. Các phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp phân tích sản phẩm
1.7.1.2. Phương pháp xử lý thơng tin
- Phân tích tổng hợp tài liệu và phỏng vấn sâu
- Sử dụng phần mềm (SPSS... ) để xử lý số liệu điều tra đã thu thập được qua
bảng hỏi.
1.7.1.3. Phương pháp thực nghiệm
Xây dựng và triển khai chương trình tập huấn thử nghiệm trên 15 cán bộ cấp
ủy đảng cơ sở nhằm xác định những thay đổi kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh của khách thể thực nghiệm.
1.8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1.8.1. Về lý luận
Nghiên cứu lý luận về kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh cịn là một vấn đề mới mẻ ở Việt Nam nói chung và cơng tác tun truyền
của Đảng nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ về tuyên


6

truyền, kỹ năng tuyên truyền miệng, kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh đối với những cán bộ làm công tác tuyên truyền của Đảng. Những kết
luận của đề tài làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng nội dung, chương trình bồi
dưỡng, tập huấn và đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng, tuyên truyền của Đảng.
1.8.2. Về thực tiễn
- Trên cơ sở chỉ ra thực trạng mức độ hiện có và các yếu tố ảnh hưởng tới kỹ
năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp uỷ đảng
cơ sở; đồng thời đề xuất một số giải pháp, nhất là giải pháp về bồi dưỡng, đào tạo
tập huấn nhằm nâng cao kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh cho cán bộ cấp ủy đảng cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác tư tưởng ở cơ sở cũng như hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh’’.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp nguồn thông tin quan trọng cho công
tác tham mưu và thực hiện tuyên truyền trong điều kiện thiếu hụt các tài liệu có tính lý
luận và thực tiễn liên quan tới tuyên truyền trong các cơ quan làm công tác tư tưởng
của Đảng, các học viện, nhà trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền.
1.9. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Luận án bao gồm các phần:
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lí luận
- Chương 2: Tổ chức thực hiện và các phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Kết luận và kiến nghị
- Danh mục các cơng trình đã cơng bố
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục


7



8

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TUYÊN TRUYỀN, KỸ NĂNG TUYÊN
TRUYỀN MIỆNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tun truyền, kỹ năng tuyên
truyền ở nước ngoài
Thuật ngữ “tuyên truyền” có nguồn gốc từ châu Âu vào năm 1622 khi Giáo
hoàng La Mã XV thành lập một bộ phận đặc biệt trong Giáo hội Cơng giáo để có
hệ thống truyền giáo lý Tin lành trên khắp thế giới. Thuật ngữ này được sử dụng
với ý nghĩa gây ảnh hưởng đến niềm tin về các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là để phổ
biến các ý tưởng tôn giáo nhằm thuyết phục, lôi kéo người khác phấn đấu theo đức
tin của đạo Tin lành.
Đến thế kỷ thứ XVIII, thuật ngữ “tuyên truyền” đã trở nên phổ biến hơn khi
chính phủ các nước và các tổ chức chính trị nhận thức được tầm quan trọng của
tuyên truyền trong việc thuyết phục quần chúng.
Tuyên truyền đã trở thành chủ đề tranh luận, nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học, nhất là ở Hoa Kỳ và Đức, Nga sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, và từ đó đến
nay đã có nhiều cơng trình, tác phẩm nghiên cứu lí luận và phương pháp luận về
tuyên truyền. Những cơng trình, tác phẩm thường được các nhà khoa học nghiên
cứu phục vụ mục đích chính trị của giai cấp mà họ cổ súy.
Sau đây là một số hướng nghiên cứu liên quan tới tuyên truyền, kỹ năng
tuyên truyền của các tác giả nước ngoài.
1.1.1.1. Hướng nghiên cứu khái quát những vấn đề lý luận và phương pháp
luận về tới tuyên truyền
Theo hướng này các tác giả chủ yếu bàn đén khái niệm, bản chất, vai trò,
chức năng của tuyên truyền và kỹ năng tuyên truyền nói chung.

Edwad Bermays [114] là một trong những người đầu tiên nghiên cứu về
tuyên truyền. Theo ông, tuyên truyền là tác động và gây ảnh hưởng tới ý kiến,
quan điểm của công chúng. Tun truyền khơng có ý nghĩa tiêu cực, nó khơng
xấu cũng khơng tốt, đó chỉ là sự nỡ lực để phổ biến một niềm tin cụ thể hoặc học
thuyết. Tuyên truyền xấu hay tốt phụ thuộc vào việc sử dụng những thông tin
được công bố. Tuyên truyền là một hoạt động phức tạp nên khơng địi hỏi một
cách tuyệt đối hố vào kết quả của nó. Bởi do sự tương đối và luôn thay đổi của
đối tượng tuyên truyền. Tun truyền là hình thức hoạt động xã hội hồn toàn


9
chính đáng của con người, với bất kỳ xã hội hay chế độ chính trị nào, tun
truyền ln có vai trị lớn đối với kinh doanh, hành chính cơng, với các chính trị
gia, với phụ nữ, với giáo dục, dịch vụ xã hội, nghệ thuật và khoa học. Không thể
tuyên truyền đến được với tất cả các cá nhân trong xã hội. Vì vậy, cần tập trung
lựa chọn những người có vị trí, vai trị chính trong các nhóm để tuyên truyền và
chính họ sẽ ảnh hưởng tới thái độ của các thành viên trong nhóm. Đó chính là
xây dựng cơ chế kiểm sốt tâm nhóm, làm cho cơng chúng chấp nhận cho một ý
tưởng cụ thể hoặc hàng hoá. Để làm được điều này, tác giả cho rằng: người
tuyên truyền cần phải hiểu được cơ chế và động cơ của tâm nhóm thì mới có thể
điều khiển để thay đổi quan điểm của công chúng ở một mức độ nhất định với
những cơ chế xác định. Nói cách khác, để tuyên truyền thành công cần phải
quan tâm tới đặc điểm tâm lý nhóm và dư luận xã hội trong q trình tun
truyền. Đồng thời, sử dụng cơng cụ, phương tiện để ảnh hưởng tới ý kiến của
công chúng, như: các cuộc họp công cộng, các tờ báo, đài phát thanh truyền
hình, hoạt động của hệ thống xuất bản, các bài giảng, các buổi mít tinh.
Jacques Elull [115] cho rằng, tuyên truyền là hoạt động tác động tới cá nhân,
nhóm xã hội, có tổ chức, có quy tắc, địi hỏi trong một thời gian nhất định. Đặc
trưng bên trong của tuyên truyền là liên quan tới tri thức, tinh thần, tư tưởng, quan
điểm xã hội, tới tâm trạng xã hội. Đây là hoạt động khách quan và khoa học. Nó có

thể phân chia theo nhiều cách khác nhau.Theo tính chất của thơng tin có thể chia
thành tun truyền chính trị và xã hội. Theo mục đích có thể chia thành tuyên
truyền kích động và đồng thuận. Tác giả cho rằng, tuyên truyền cũng cần có những
điều kiện nhất định để thực hiện, như: bối cảnh (chủ nghĩa cá nhân, dư luận xã hội),
phương tiện truyền bá, tiêu chuẩn trung bình về văn hố, mức sống của người dân,
nhu cầu thơng tin, hệ tư tưởng tồn tại trong xã hội… Tuyên truyền có vai trị rất lớn
đối với chính phủ, nhất là trước những vấn đề khó xử của Chính phủ, tuyên truyền
sẽ góp phần tạo sự đồng thuận về nhận thức chung trong xã hội. Đối với mỗi cá
nhân, tuyên truyền mang tới sự hiểu biết về những gì đang diễn xung quanh.
Hai tác giả Garth S. Jowett -Vitoria O’.Donnell [116] cho rằng, tuyên truyền
như là một khoa học tự nhiên, khoa học chính trị, tâm lý học và xã hội học. Theo
hai nhà nghiên cứu này, tuyên truyền tương tự như truyền thông nhưng phức tạp và
bao quát hơn truyền thông. Truyền thông như là một cách thức của tun truyền, nó
là sự truyền đạt thơng tin theo một chủ đề nhất định để thúc đẩy sự hưởng ứng tự


10
giác theo ý muốn của người truyền thông. Tuyên truyền là một hàm số bao hàm
trong đó cả truyền thơng, quảng cáo và thuyết phục. Bản chất cảu tuyên truyền là
hoạt động chủ ý, tác động, ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ và hành vi của con
người.
Radal. Marlin [117] cho rằng, tuyên truyền trước tiên là nhằm mục đích gây
ảnh hưởng đến nhiều người ở cách tổ chức và có chủ ý. Nó như là sự nỡ lực của
các tổ chức thông qua truyền thông ảnh hưởng tới niềm tin hay hành động hoặc thái
độ của cá nhân, nhóm xã hội bằng cách thiết kế lại thơng tin. Vì thế, có vấn đề
thuộc về đạo đức trong tuyên truyền nếu người tuyên truyền sử dụng thông tin sai
lệch để tạo tình cảm và gây áp lực tâm lý đối với nhiều người. Marlin cho rằng,
người tuyên truyền không thể áp đặt thông tin tới công chúng mà phải làm thế nào
để công chúng nhận thức được tầm quan trọng của thơng tin và khi đó họ có nhu
cầu và hứng thú để tiếp nhận thông tin. Đây là một những phát hiện quan trọng trên

phương diện lý luận và phương pháp luận của tuyên truyền.
S.A.Na-Đi-Ra-Svi-Li [76] đi sâu phân tích và làm rõ những khía cạnh tâm lý
của cơng tác tuyên truyền; những nhân tố chủ quan và khách quan của tâm lý con
người chịu sự tác động của tuyên truyền; các quy luật tâm lý tác động trong cơng
tác tun truyền, các đặc điểm tâm lý có liên quan tới con người …Theo ông, tuyên
truyền không chỉ là truyền đạt các thông tin, mà điều chủ yếu nhất là tạo cho người
nghe có được thái độ đối với vấn đề được xem xét mà người tuyên truyền mong
muốn. Bản chất của tuyên truyền được xem như là một quá trình tác động đến nhân
cách, đến sự hình thành sau này của nhân cách. Theo ơng, tun truyền có thể đem
lại những kết quả mong muốn nếu người tuyên truyền chú ý tới đặc điểm của
những yếu tố tham gia vào sự hình thành, định hình và thay đổi các tâm thế con
người. Cách thức trình bày tài liệu có thể ảnh hưởng tới quan điểm, niềm tin, tâm
thế và hành động của con người theo mong muốn của người tun truyền. Nhưng
để có cách trình bày tài liệu tốt, trước hết cần có chuẩn bị tài liệu tuyên truyền thật
tốt. Sự chuẩn bị tài liệu tuyên truyền một cách đầy đủ sẽ có ảnh hưởng tới số
lượng, chất lượng các tham số về nhân cách của người tuyên truyền hoặc nó làm
vững chắc hơn tâm thế và định hướng nhân cách hoặc là nó thay đổi theo hướng
tương ứng. Theo ông, khi chuẩn bị tài liệu phải biết rõ đối tượng tuyên truyền là ai,
gồm những thành phần nào, cơng tác tun truyền tiến hành ở đâu, chính kiến và
định hướng những người tham dự ra sao, thái độ của họ đối với tư tưởng được thế


11
nào, họ đã được thông tin về tư tưởng này ở mức độ như thế nào… Thứ hai liên
quan tới việc trình bày tài liệu là việc chọn lựa tư tưởng tuyên truyền phải phù hợp
với những định hướng tiến bộ về mặt xã hội, chính trị, đạo đức, tư tưởng thẩm mỹ
của đối tượng tuyên truyền. Thứ ba là, cách thức trình bày tài liệu tuyên truyền cần
phải rõ ràng, dễ hiểu, lơ - gic. Nếu khi trình bày tài liệu tun truyền mà thiếu sự
giải thích, bình luận thì sẽ khơng gây ảnh hưởng nào đến tâm thế của người được
tuyên truyền. Tuyên truyền có thể thay đổi mạnh mẽ tâm thế đối tượng tuyên

truyền nếu sau khi trình bày một vấn đề tuyên truyền nhất định người tuyên truyền
rút ra được những kết luận có thể khái quát được, những quan điểm cần phải tuyên
truyền. Trong trường hợp người nghe có thái độ khẳng định đối với lập trường
tuyên truyền, người tuyên truyền cần phân tích các luận cứ từ một phía, phía có lợi
hơn cho người được tuyên truyền. Nếu người nghe có quan điểm đối lập, người
tuyên truyền cần có sự luận chứng song phương mang tính chất tranh luận và nó
phải có hướng theo mục tiêu của người được tuyên truyền. Khi muốn nhấn mạnh
một vấn đề nào đó thì nên đưa vào phần đầu hoặc phần cuối của một tuyên truyền.
V.Gh.Bai-ko-va,M.Ph.Nhê-na-sép,V.Ph.Pra-vô-tô-rôp[94] cho rằng, tuyên
truyền là một hiện tượng xã hội phức tạp và nhiều mặt. Dưới góc độ tâm lý xã hội,
tuyên truyền được xem xét như là quá trình tác động qua lại của chủ thể tuyên
truyền (phát thanh viên, nhà báo diễn giả, tuyên truyền viên…) và đối tượng (người
nghe, người đọc, người xem trong cùng hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng
tác động của tun truyền biểu hiện tính tích nhận thức. Thiếu tính tích cực nhận
thức của người được tuyên truyền coi như nhiệm vụ nhận thức thông tin và giáo
dục của người cán bộ tuyên truyền không thành cơng. Do đó, theo các nhà nghiên
cứu, người tun truyền có hai nhiệm vụ: thứ nhất là, xác định những phương pháp
và biện pháp hiệu quả để nâng cao tính tích cực nhận thức của người được tuyên
truyền với mục đích nắm vững tri thức, hình thành niềm tin. Nhiệm vụ thứ hai là,
phát triển các nhu cầu về nhận thức và sự ham mê đối với tri thức và các hiện
tượng của đời sống xã hội; củng cố các tình cảm xã hội tích cực của các nhóm xã
hội, định hướng dư luận xã hội. Để làm tốt nhiệm vụ trên, người tuyên truyền phải
hiểu biết đặc điểm tâm lý của người được tuyên truyền. Có nghĩa là, phải nắm bắt
được các nhu cầu vật chất, tinh thần và xã hội trong ý thức của con người, nhất là
phải hiểu được thái độ, sự hiểu biết của người được tuyên truyền đối với thế giới;
trình độ tri thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của họ. Đồng thời, phải hiểu được


12
các đặc điểm có tính quy luật của chú ý, tri giác, trí nhớ, và tư duy của cá nhân

cũng như trình độ nhận thức của họ. Trên cơ sở đó xác định khối lượng và hàm
lượng tri thức tác động tới người được tuyên truyền một cách hiệu quả. Các nhà
nghiên cứu đã làm rõ những biện pháp chủ yếu gây ảnh hưởng đến tâm lý người
được tuyên truyền đó là, thuyết phục, khêu gợi, nêu gương, mơ phỏng và lôi cuốn.
X.I.Xu-rơ-nhi-tren-cô,V.K.Gri-gô-ri-ep, A.G.Cô-va-lep… [110] cho rằng,
tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả của tuyên truyền đó là: người tuyên truyền
phải biết được đặc điểm tâm lý - xã hội bền vững của người được tuyên truyền
cũng như đốn trước được đặc điểm tâm trạng có thể có trong tư duy của người được
tuyên truyền. Đồng thời, phải xác định và đánh giá được những diễn biến của bối cảnh
tâm lý xã hội tác động tới công tác tuyên truyền. Để có được khả năng trên người
tuyên truyền cần phải có trình độ đào tạo nhất định về lý luận, chuyên môn và phương
pháp luận, nắm vững nghệ thuật tuyên truyền và các kiến thức xã hội có liên quan.

I.Đ.Tơ-Rốp-Chen- Cô [46] đã tiếp cận tuyên truyền trong mối quan hệ
với công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên xơ (cũ). Ơng cho rằng, tun
truyền là một trong những loại hình quan trọng nhất của cơng tác tư tưởng
của Đảng, là thành tố không thể thiếu trong cả hệ thống. Tuy nhiên, tuyên
truyền không thể bao trùm lên tồn bộ hoạt động của cơng tác tư tưởng của
Đảng. Để thực hiện được mục đích tuyên truyền đề ra địi hỏi sự nỡ lực tồn
diện của các tổ chức đảng, nhà nước các cấp, nhất là cấp uỷ đảng các cấp.
Các nhà lý luận và hoạt động thực tiễn trong công tác tuyên truyền của Đảng
Cộng sản Trung Quốc [19] đã chỉ ra những yêu cầu đối với cán bộ làm cơng tác
tun truyền tư tưởng trong tình hình mới, đó là: nhiệt tâm, u nghề, có tinh thần
trách nhiệm cao; xây dựng quan điểm quần chúng, có thái độ rõ ràng; không phiến
diện; rộng lượng, trong sạch, liêm khiết; chịu khó học tập và chịu khó suy nghĩ.
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu liên quan tới tuyên truyền miệng và kỹ năng
tuyên truyền miệng
E.A. Nô-Gin [30] là người đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật tuyên truyền
miệng. Theo ông, nghệ thuật phát biểu miệng là kỹ năng nói với mọi người một
cách dễ hiểu, hấp dẫn, có tính thuyết phục; là q trình phức tạp và khơng đơn điệu.

Đó là một quá trình “sản xuất”, trình bày bài phát biểu trước cơng chúng nhằm tác
động có sức thuyết phục và giáo dục người được tuyên truyền. Nghệ thuật phát
biểu miệng là tổng hợp của các phẩm chất: niềm tin, trình độ thế giới quan, vốn


13
hiểu biết rộng và trình độ về văn hóa chung của cán bộ tuyên truyền với tổng thể
các tri thức, kỹ năng và kỹ xảo trong diễn thuyết. Công cụ chủ yếu của nghệ thuật
phát biểu là lời nói và phương pháp tác động là niềm tin. Vì vậy, để hoàn thành
nhiệm vụ, nhà nghiên cứu cho rằng, người tuyên truyền miệng cần phải có những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Đó là phải có tri thức về đặc điểm chủ yếu của
xã hội và tâm lý sư phạm của q trình phát biểu trước cơng chúng. Phải biết lựa
chọn tư liệu cho bài phát biểu hoặc bài nói chuyện. Biết trình bày các tư liệu phù
hợp với mục đích của bài phát biểu, với những quy luật kết cấu của lô - gic và tâm
lý với cả những đặc điểm phát biểu miệng và tính đặc thù của người nghe. Biết
giao tiếp với con người. Biết phát biểu và trong khi phát biểu biết tuân thủ những
nguyên tắc hoạt động trên bục giảng và đặc thù của người nghe. Biết làm chủ một
cách thuần thục lời nói, giọng nói, ngữ điệu, diện mạo, cử chỉ, chú ý tuân thủ tất cả
các yêu cầu của sự trau dồi ngơn ngữ văn hóa. Biết trả lời câu hỏi của người nghe,
biết tọa đàm và tranh luận với người nghe.
M.M.Ra-khơ-man-cu-nốp và một số nhà nghiên cứu…[55] đã đi sâu nghiên
cứu và khẳng định về vai trò tuyên truyền miệng trong công tác tư tưởng cảu Đảng
Cộng sản Liên xô. Theo họ, mặc dù hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng
phát triển rất mạnh mẽ nhưng tuyên truyền miệng vẫn là một trong những hình
thức quan trọng giữ mối liên hệ thường xuyên của Đảng với quần chúng, là hình
thức đồn kết q̀n chúng xung quanh Đảng. Nó trở thành một nhiệm cụ cơ bản,
bắt buộc của Đảng. Vì vậy, theo các nhà nghiên cứu để nâng cao trình độ tuyên
truyền miệng, trước hết cần phải xác định rõ ràng phương hướng của tuyên truyền,
cổ động miệng. Phải gắn tuyên truyền miệng với cuộc sống, với công việc và
những vấn đề của tập thể lao động. Các bài phát biểu miệng cần phải nhạy bén, giải

thích rõ ràng, chính xác, kịp thời những sự kiện của đời sống xã hội, những vấn đề
làm cho nhân dân lao động phải quan tâm. Đồng thời, cần sử dụng đa dạng các hình
thức, phương pháp tun truyền miệng. Tăng cường vai trị và nhiệm vụ của các tổ
chức đảng và cán bộ cốt cán cảu Đảng trong việc tuyên truyền miệng. Các nhà
nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, kết quả của tuyên truyền miệng phụ thuộc vào
chính những người tuyên truyền, vì vậy cần phải biết lựa chọn cán bộ, những nhà
hoạt động xã hội có khả năng nói, khả năng thu phục quần chúng; đồng thời, cần
phải chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng trình độ lí luận chính trị, nghiệp vụ, tạo


14
cơ hội để họ tiếp cận thông tin một cách toàn diện cũng như phải thường xuyên chỉ
đạo, kiểm tra hoạt động của đội ngũ cán bộ tuyên truyền miệng.
Nhìn chung, những điểm khác biệt về điều kiện, hoàn cảnh chính trị đã quy
định sự khác nhau về tính chất, mục đích cũng như phương pháp, phương tiện
tuyên truyền, nhất là bản chất tuyên truyền. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới
vấn đề lý luận tuyên truyền và phương pháp luận trong nghiên cứu tuyên truyền, kỹ
năng tuyên truyền. Đa số những nghiên cứu mà chúng tôi tiếp cận được đều xem
xét tuyên truyền trong mối quan hệ với hệ tư tưởng cũng như chế độ chính trị cụ
thể và chủ yếu là có tính chất liệt kê; đi sâu phân tích, giới thiệu kinh nghiệm, thực
trạng tuyên truyền trong điều kiện chính trị cụ thể nên thiếu vắng hướng nghiên
cứu chuyên biệt, sâu sắc.
1.1.2.Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuyên truyền, kỹ năng tuyên truyền đã
được một số tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ của nhiều
khoa học khác nhau, như: Hồ Chí Minh, Hà Thị Bình Hồ, Nguyễn Lân, Hồng
Tùng, Hồng Quốc Bảo, Lương Khắc Hiếu... Đã có những bài viết, cơng trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề lí luận, thực tiễn của tuyên truyền được xuất bản
thành sách và công bố trên các báo, tạp chí ở trong nước. Tuy nhiên, những cơng
trình có giá trị lớn về lý luận và phương pháp luận cũng chưa nhiều. Phần lớn các

nghiên cứu có tính chất giới thiệu, liệt kê mang tính tư liệu học về khái niệm, vai
trị, chức năng, hình thức, những yêu cầu về phẩm chất đạo đức và kỹ năng cần có
của cán bộ tun truyền; ít cơng trình tiến đến thao tác hóa một cách hệ thống như
là phát kiến riêng của tác giả về bản chất, vị trí, vai trị, ngun tắc của tun
truyền, đặc biệt là những thành tố của hoạt động tuyên truyền, như chủ thể - đối
tượng cịn ít được các tác giả quan tâm.
Chúng tôi xin nêu một số hướng nghiên cứu cụ thể là:
1.1.2.1. Hướng nghiên cứu liên quan tới tuyên truyền, kỹ năng tuyên truyền
nói chung
Các nhà nghiên cứu theo hướng này cũng chủ yếu bàn về khái niệm, bản
chất của tuyên truyền, các thành tố của tuyên truyền cũng như những yêu cầu, điều
kiện bảo đảm sự thành công của hoạt động tuyên truyền. Tuy nhiên, các nghiên cứu
cũng mang tính chất khái quát là chủ yếu mà ít đi vào phân tích làm rõ bản chất.


15
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ quan tâm, coi trọng và bàn nhiều về
tuyên truyền. Hồ Chí Minh quan niệm: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho
dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm và khơng đạt được mục đích đó, là tun
truyền thất bại.” [64, 162]. Hồ Chí Minh chỉ ra có 3 cách tuyên truyền, đó là: tuyên
truyền miệng, tuyên truyền bằng văn tự và tuyên truyền bằng hành động. Trong đó,
tuyên truyền miệng có hai loại: nói chuyện với từng người và nói chuyện với tập
thể. Tuyên truyền bằng văn tự có 3 loại: truyền đơn, báo chí bí mật và biểu ngữ.
Tuyên truyền bằng hành động tức là bằng việc làm cụ thể. Theo Người muốn tuyên
truyền thành công phải biết cách tuyên truyền. Trước hết, cán bộ tuyên truyền cần
phải hiểu rõ được vấn đề cần tuyên truyền. Hai là, phải biết cách nói: lời nói phải
giản đơn, rõ ràng, thiết thực; có đầu, có cuối, sao cho ai cũng hiểu được, cũng nhớ
được; không dùng những danh từ lạ, ít người hiểu; khơng nói ra ngồi đề, khơng
lặp đi lặp lại, khơng nói q thời gian. Và muốn tránh được những khuyết điểm khi
nói, người cán bộ tuyên truyền cần phải chuẩn bị dàn bài rõ ràng, rồi cứ xem đó mà

nói. Ba là, phải có lễ độ hay nói cách khác là phải tơn trọng người được tun
truyền, có thái độ mềm mỏng; ln gần gũi, giúp đỡ nhân dân và thơng qua đó tìm
hiểu tình hình địa phương. Hồ Chí Minh cho rằng, khi tuyên truyền cần tơn trọng
sự thực “có nói sự thực thì việc của mình mới có nhiều người nghe” [61, 151].
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ tun truyền cần phải ln bình tĩnh, phải đặt lý
trí lên trên tình cảm và “khơng thể không đứng ở địa vị khách quan” để phân tích,
bình luận, nhận định thời cuộc [62, tr.205]. Hồ Chí Minh cho rằng, công tác tuyên
truyền phải cụ thể, thiết thực. Tuyên truyền cái gì, tuyên truyền cho ai, tuyên
truyền để làm gì, tuyên truyền bằng cách nào. Tuyên truyền phải phù hợp với từng
đối tượng, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể “ Phải làm sao dễ hiểu, nói sao để ai
cũng hiểu được, hiểu để làm… không phải tuyên truyền để mà tuyên truyền” [63,
tr.128].
Hoàng Tùng [80] đã đề cập tới khái niệm tuyên truyền với ý nghĩa là tuyên
truyền chính trị. Theo tác giả, tuyên truyền là phổ biến đường lối chính trị của
Đảng, góp phần làm cho đường lối của Đảng biến thành đường lối của quần
chúng…Phổ biến đường lối không phải là giáo dục theo lối sách vở mà phải tiến
hành đấu tranh về quan điểm. Q trình tiến hành cơng tác tun truyền là quá trình
đấu tranh về mặt thế giới quan, về phương pháp luận, hướng đến giải quyết những
mâu thuẫn về quan điểm, tư tưởng diễn ra trong thực tiễn. Từ đó, tác giả đã chỉ ra


16
những hạn chế trong tuyên truyền của Đảng là chỉ giải thích mà khơng phân tích,
phê phán làm rõ đúng sai, trong đó nhược điểm lớn nhất là chỉ giải thích đường lối,
chính sách mà khơng liên hệ với thực tiễn cách mạng; thiếu sâu sắc, thiếu tính chiến
đấu. Tác giả cho rằng, tuyên truyền phải góp phần thúc đẩy cách mạng, thúc đẩy
phong trào quần chúng. Thoát ly thực tiễn đó là lối tun truyền có tính sách vở.
Đề cập đến công tác tuyên truyền kinh tế, tác giả đã chỉ ra điều kiện tối thiểu đối
với người làm cơng tác tun truyền là phải có kiến thức về chủ nghĩa xã hội, có
kiến thức về kinh tế cụ thể, có liên hệ thực tế kinh tế và phong trào q̀n chúng, chỉ

khi có những điều kiện đó thì mới có năng lực phân tích, phê phán những hoạt động
kinh tế; phải có tinh thần cách mạng, phẩm chất cách mạng. Để đạt yêu cầu đó, cán
bộ tuyên truyền phải thường xuyên được đào tạo và tự đào tạo.
Lương Khắc Hiếu và một số nhà nghiên cứu [36] cho rằng, tuyên truyền là
một hình thái, một bộ phận của công tác tư tưởng, nhằm truyền bá hệ tư tư tưởng
và đường lối chiến lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế
giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm
tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó. Theo
các tác giả, trong cơng tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước Việt Nam, tuyên truyền là
hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và những tinh hoa
văn hóa của dân tộc và nhân loại… làm cho chúng trở thành những nhân tố chi
phối, thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên, cổ vũ tinh thần tự
giác tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bản chất của tuyên truyền là hoạt động đa dạng, phức
tạp nhằm giáo dục, vận động, thuyết phục quần chúng hiểu, tin và quyết tâm hành
động theo đường lối cách mạng của Đảng. Để thực hiện công việc khó khăn, phức
tạp đó, cán bộ tuyên truyền cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức,
đầy đủ và có sức sáng tạo rất cao. Tác giả nêu lên một số hình thức tuyên truyền,
như: tổ chức học tập, hội thảo, sinh hoạt chính trị, tọa đàm, báo cáo chuyên đề và
thông qua các phương tiện như: sách, báo, phát thanh, truyền hình, văn hóa, văn
nghệ…Đồng thời, chỉ ra một số phương pháp tuyên truyền đang được sử dụng đó
là: phân tích, giải thích, chứng minh thơng qua hàng loạt luận cứ, sự kiện một cách
có lý, có cơ sở khoa học để rút ra một tư tưởng, một quan điểm hoặc một nguyên lý


17
nào đó. Theo các nhà nghiên cứu việc sử dụng hình thức, phương pháp nào là tùy
thuộc vào yêu cầu, nội dung, vào đối tượng và điều kiện cụ thể.
Đào Duy Quát và một số tác giả trong cuốn “ Cơng tác tư tưởng – văn hóa

cập huyện” đã bàn đến khái niệm về tuyên truyền theo hai nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Nghĩa rộng, là công việc truyền bá những kiến thức, những giá trị tinh thần nhất
định đến đối tượng, nhằm biến những kiến thức, giá trị tinh thần thành nhận thức,
niềm tin, tình cảm của đối tượng, thơi thúc đối tượng hành động theo những định
hướng nhất định, nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Nghĩa hẹp, tuyên truyền
được hiểu là một trong ba hình thái của công tác tư tưởng và thuật ngữ “tuyên
truyền” được hiểu là tuyên truyền chính trị - “Là sự truyền bá hệ tư tưởng của
Đảng, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thơng qua những hình thức,
phương tiện, cơng cụ khác nhau, để đạt tới yêu cầu cơ bản là nâng cao nhận thức,
xây dựng và củng cố niềm tin, cổ vũ hành động của quần chúng nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng” [105; tr.70 - 71] . Vì vậy, để bảo đảm cho
tuyên truyền thành công các nhà nghiên cứu cho rằng, người tuyên truyền cần phải
nắm thường xuyên tình hình tư tưởng và tâm trạng xã hội; từ đó lựa chọn nội dung
và hình thức tun truyền phù hợp.
Hồng Quốc Bảo (2004) đã đề cập tới một thành tố của hoạt động tuyên
truyền đó là phương pháp tuyên truyền. Theo tác giả phương pháp tuyên truyền là
tổng hợp các phương tiện, thao tác, cách thức, quy trình mà chủ thể sử dụng để
cung cấp cho đối tượng những thông tin nhất định nhằm củng cố, bổ sung hoặc xây
dựng ở họ một kiểu thế giới quan, nhân sinh quan mới hay nhận thức mới về tự nhiên,
xã hội, thơng qua đó mà tác động đến nhận thức, thái độ và hiệu quả thực tiễn của họ
trong đời sống xã hội. Phương pháp tuyên truyền chịu ảnh hưởng trực tiếp của 3 yếu
tố cơ bản đó là: mục đích, đối tượng và nội dung tuyên truyền. Vì thế, muốn chọn lựa
được phương pháp tuyên truyền đúng đắn và hợp lý cần phải xác định đúng đắn tuyên
truyền; lựa chọn chính xác nội dung và đánh giá đúng đặc điểm tâm lý đối tượng
tuyên truyền. Đáng chú ý, là tác giả đã chỉ ra đặc trưng cơ bản trong phương pháp
tuyên truyền của Hồ Chí Minh là: tính khoa học và cách mạng, tính đại chúng và nghệ
thuật, kết hợp lời nói với hành động. Đây là vấn đề có tính lý luận trong việc đào tạo
bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền nói chung cho những người làm công tác tuyên
truyền.



18
Nguyễn Thị Bình Hịa [40] đi sâu nghiên cứu một khía cạnh khác của tuyền
truyền, đó là nhu cầu thơng tin của khách thể tuyên truyền. Theo tác giả, nhu cầu
thông tin của khách thể tuyên truyền được xác định là những địi hỏi mang tính tự
giác của cá nhân và nhóm xã hội (trong điều kiện cụ thể của hoạt động tun
truyền) về những tin tức, thơng báo có liên quan đến lợi ích của họ. Những địi hỏi
đó quy định sự lựa chọn thông tin của khách thể tuyên truyền. Nhu cầu thông tin
của khách thể tuyên truyền được biểu hiện qua nội dung thơng tin, hình thức thơng
tin, phương tiện thơng tin, mục đích tiếp nhận thơng tin, thông tin ngược và các
mức độ của nhu cầu, trong đó nội dung thơng tin là biểu hiện tập trung, cơ bản nhất
của nhu cầu thông tin. Các luận điểm này gián tiếp nói lên rằng, nhu cầu thơng tin
của khách thể là một nhân tố có ảnh hưởng quyết định trực tiếp đến hiệu quả của
hoạt động tuyên truyền, Vì thế, cần có các biện pháp để nâng cao khả năng nắm bắt
nhu cầu thông tin của khách thể tuyên truyền của người tuyên truyền như: trang bị
những hiểu biết về nhu cầu thông tin của khách thể tác động; cải tiến việc biên soạn
nội dung thông tin; chọn thời điểm phát tin cho phù hợp với nhận thức, nhu cầu và
thời gian thu nhận thông tin của từng loại khách thể. Theo đó nhà nghiên cứu cho
rằng, trong quá trình thực hiện các hình thức tuyên truyền cần đặc biệt chú ý đến
ảnh hưởng của các yếu tố nghề nghiệp, lứa tuổi và trình độ văn hóa; cần tăng cường
các hình thức tuyên truyền trực tiếp đối với khách thể; làm cho khách thể nhận thức
đúng, đủ, nội dung tun truyền và những lợi ích của nó. Cần có sự tuyển chọn,
đào tạo những người có năng khiếu làm cơng tác tun giáo nhằm góp phần tăng
cường đáp ứng nhu cầu thông tin của của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã
hội. Những đề xuất này của tác giả rất có ý nghĩa đối với những người làm công tác
tuyên truyền cũng như các nghiên cứu tuyên truyền tương lai.
Nguyễn Hoàng Lân [48], là người đầu tiên nghiên cứu về kỹ năng tuyên
truyền theo hướng tách biệt có hệ thống dưới góc độ tâm lý học chuyên ngành.
Theo tác giả, kỹ năng tuyên truyền của cán bộ chính trị đơn vị cơ sở trong quân đội
là trình độ vận dụng một cách có hiệu quả những tri thức về phương thức tuyên

truyền nhằm thực hiện những nội dung tuyên truyền phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh và đối tượng khác nhau, đạt được mục tiêu tuyên truyền đã đặt ra. Vì thế, tác
giả đã chỉ ra 8 dấu hiệu nhận diện người cán bộ chính trị có kỹ năng tuyên truyền.
Một là, nhanh chóng xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp và
nhiệm vụ tuyên truyền. Hai là, vạch được kế hoạch chính xác, thu thập tài liệu đầy


19
đủ. Ba là, nhanh chóng xây dựng được nội dung hồn chỉnh. Bốn là, có phương
pháp phù hợp với từng đối tượng, hình thành và sử dụng nhiều thói quen tốt trong
q trình tun truyền; làm chủ và kiểm sốt được đối tượng. Năm là, điều chỉnh
nội dung hợp lý và vận dụng kinh nghiệm tuyên truyền nhuần nhuyễn, hiệu quả.
Sáu là, có khả năng khai thác và sử dụng trang thiết bị phục vụ tuyên truyền. Bảy
là, có nghệ thuật ứng xử mềm dẻo, xử lý linh hoạt các tình huống xảy ra trong quá
trình tuyên truyền. Tám là, tự rút được kinh nghiệm bản thân sau mỗi đợt tuyên
truyền, nhận rõ và kịp thời khắc phục những hạn chế trong kỹ năng tuyên truyền để
không ngừng bổ sung, hồn thiện, nâng cao trình độ cho bản thân. Căn cứ vào nội
dung, mục đích và phương pháp tuyên truyền, tác giả phân loại kỹ năng tuyên
truyền thành: kỹ năng tuyên truyền nội dung học tập về chính trị tư tưởng theo quy
định của cấp trên; kỹ năng tuyên truyền quán triệt nghị quyết của Đảng, chỉ thị
mệnh lệnh của cấp trên; kỹ năng tuyên truyền nhiệm vụ mới; thiết lập mối quan hệ
trong đơn vị; kỹ năng tuyên truyền gương người tốt việc tốt trong đơn vị; kỹ năng
thông báo các thơng tin thời sự, chính sách, pháp luật của nhà nước; kỹ năng tuyên
truyền thuyết phục, định hướng về chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sỹ trong
đơn vị; kỹ năng tuyên truyền thuyết phục hình thành niềm tin tư tưởng chống lại
các luận điệu phản tuyên truyền của các thế lực thù địch; kỹ năng tuyên truyền
bằng lời nói; kỹ năng tun truyền bằng hình ảnh trực quan; kỹ năng tuyên truyền
bằng tham quan thực tiễn…Theo tác giả sự hình thành và phát triển kỹ năng tuyên
truyền của cán bộ chính trị phải qua nhiều giai đoạn, mỡi giai đoạn được biểu hiện
ở một trình độ nhất định. Trình độ ban đầu là bắt chước theo mẫu; tiếp đến là sáng

kiến, chủ động; đổi mới và tích hợp. Từ lý luận và kết quả nghiên cứu thực trạng,
tác giả đã đưa ra những biện pháp tâm lý xã hội nâng cao kỹ năng tuyên truyền của
cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở trong quân đội là: nâng cao trình độ tri thức tồn
diện, tiến hành tuyển chọn tâm lý, tăng cường hoạt động thực tiễn, phát huy tinh
thần tích cực, tự giác học tập, rèn luyện, xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh,
tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tuyên truyền; bồi dưỡng khả năng khai thác
và sử dụng các trang thiết bị phục vụ hoạt động tuyên truyền, trong đó nâng cao tri
thức toàn diện là nền tảng vững chắc cho việc hình thành, phát triển kỹ năng tuyên
truyền của đội ngũ cán bộ chính trị đơn vị cơ sở trong quân đội.


20
1.1.2.2. Hướng nghiên cứu về tuyên truyền miệng, kỹ năng tuyên truyền
miệng và kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Theo hướng này, chủ yếu đề cập tới khái niệm, vai trò, chức năng của tuyên
truyền miệng, một số thể loại và hình thức tuyên truyền cũng như cách thức để tiến
hành tuyên truyền miệng thành công. Kỹ năng tuyên truyền miệng vẫn chưa dành
được nhiều sự quan tâm.
Nguyễn Hữu Thụ [81] đã đi tập trung nghiên cứu một hình thức của tun
truyền miệng, đó là tuyên truyền quảng cáo bằng lời. Theo nhà nghiên cứu, tuyên
truyền quảng cáo bằng lời là hình thức tuyên truyền quảng cáo mà người truyền tin
sử dụng ngôn ngữ sống động để thuyết phục người nghe trong những tình huống cụ
thể. Tuyên truyền quảng cáo bằng lời à hình thức tuyên truyền phổ biến, lâu đời
nhất, là phương thức quan trọng trong định hướng quan điểm, thái độ, ý thức và
hành vi của con người trong cuộc sống, là hình thức truyền bá thơng tin một cách
nhanh chóng, đồng thời là một hình thức giáo dục con người. Theo tác giả có 4
nhóm yếu tố chính tác động tới hiệu quả tun truyền quảng cáo bằng lời là: tính
chất ngơn ngữ, thông điệp, cách thức diễn đạt và đặc điểm nhân cách của người
truyền tin và người nhận tin. Trong đó, lập trường tư tưởng, uy tín, năng lực tun
truyền quảng cáo và những đặc điểm thể chất của người nói là những yếu tố quan

trọng ảnh hưởng tới hiệu quả truyền đạt thông tin và thuyết phục của người nói.
Các yếu tố ảnh hưởng tới việc lĩnh hội thơng tin của người nghe được tác giả chỉ ra
đó là: giọng nói, độ chiếu sáng, chú ý của người nghe, ảnh hưởng của các trạng thái
sinh lý và xúc cảm của người nghe. Đây là những luận điểm rất quan trọng mà
những người tuyên truyền miệng nói chung và tuyên truyền quảng cáo bằng lời nói
riêng cần quan tâm.
Đào Duy Tùng [78] đã đề cập tới vai trò của tuyên truyền miệng. Theo ơng
tun truyền miệng là hình thức phổ biến nhất, có hiệu nghiệm nhất của Đảng thời
kỳ bí mật và ngày nay tuyên truyền miệng vẫn giữ nguyên tầm quan trọng đó. Vì
vậy, theo ơng để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng ở cơ sở, các tổ
chức đảng cơ sở cần lựa chọn những đảng viên có khả năng làm cơng tác tun
truyền, bồi dưỡng cho họ về đường lối, chính sách, về cách nắm bắt tâm trạng quần
chúng và những vấn đề mà quần chúng đang quan tâm, cách giải thích các chủ
trương, chính sách của Đảng và giao cho cán bộ, đảng viên nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục quần chúng. Đảng cần quy định thành chế độ, hàng tháng mỗi cấp uỷ đảng


21
cơ sở phải truyền đạt hoặc phổ biến nghị quyết, chỉ thị của cấp trên để nâng cao
tinh thần trách nhiệm của cấp uỷ viên đối với công tác tuyên truyền, làm cho cán bộ
lãnh đạo sâu sát và hiểu quần chúng nhân dân.
Phạm Quang Nghị và một số tác giả của cuốn sách“Một số vấn đề lý luận và
nghiệp vụ công tác công tác tư tưởng” [71] cho rằng, tun truyền miệng khơng
những là một loại hình đặc biệt để tiến hành cơng tác tư tưởng, mà cịn là một nghệ
thuật tác động của người nói đối với người nghe. Sự thành công của nghệ thuật
tuyên truyền miệng phụ thuộc vào sự hiểu biết sâu sắc về đối tượng; nội dung, chất
lượng thông tin, đề cương và lập luận của bài nói chuyện, nghệ thuật diễn đạt làm
chủ lời nói, phong cách và biểu cảm, bối cảnh sơi động của vấn đề tuyên truyền, sự
trau dồi nghiệp vụ của người cán bộ tuyên truyền. Theo các tác giả để tăng cường
đổi mới công tác tuyên truyền miệng hiện nay, cần đổi mới con người và phương

tiện của công tác tuyên truyền miệng, trong đó chú trọng lựa chọn những người có
đủ phẩm chất và năng lực để thay thế những người không đủ tiêu chuẩn, tổ chức
việc đào tạo chính quy; nâng cấp cơ sở vật chất và hiện đại hóa các phương tiện
phục vụ cho cơng tác tun truyền như hội trường, trang thiết bị truyền thanh,
truyền hình, các phương tiện in ấn…không ngừng bồi dưỡng nâng cao phẩm chất,
năng lực của người cán bộ tuyên truyền theo một số tiêu chí cụ thể như có trình độ
văn hóa, có vốn hiểu biết rộng nhất là về các lĩnh vực tâm lý học và phương pháp
sư phạm, có khả năng tiếp thu, phân tích, lập luận và diễn đạt bài nói, nhiệt tình,
khiêm tốn, giản dị và quan hệ tốt với mọi người.
Đào Duy Quát [103] cho rằng, tun truyền miệng là loại hình cơng tác tư
tưởng truyền thống của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chức năng của tun truyền
miệng là phổ biến thơng tin chính trị, bình luận các bản tin, cổ vũ và động viên
quần chúng hành động. Nhiệm vụ chủ yếu của cán bộ tuyên truyền miệng là thông
tin một cách đầy đủ và kịp thời về đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đặc biệt tác giả đã chỉ ra các nguyên tắc trong tuyên truyền miệng của Đảng là:
tính đảng, tính khoa học, tính nhạy bén, tính thời sự, tính hệ thống, tính rõ ràng,
tính dễ hiểu và gợi cảm. Vì vậy, theo tác giả để nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên
truyền miệng không chỉ dừng ở việc bồi dưỡng nội dung tuyên truyền mà cần phải
bồi dưỡng nghệ thuật nói cho cán bộ tuyên truyền.


22
Nguyễn Chí Mỳ và một số tác giả biên soạn cuốn “Niềm tin của nhân dân về
chủ nghĩa xã hội và đổi mới công tác tuyên truyền” [67] đã đề cập tới một thể loại
và hình thức của tuyên truyền miệng là đối thoại. Theo các tác giả đối thoại đó là
hình thức và giải pháp tun truyền, giáo dục, thuyết phục trực tiếp, bình đẳng, dân
chủ; là sự giao tiếp sinh động giữa người nói với người nghe, giữa chủ thể và đối
tượng thực hiện thông tin hai chiều. Đối thoại có lợi thể là tuyên truyền trực tiếp,
có hệ thống sâu và kỹ đưa quan điểm, ý kiến của Đảng đến với mọi đối tượng mà

không sự ngăn cách nào. Điều đáng quan tâm là các tác giả đã nêu lên một số giải
pháp để làm tốt công tác đối thoại trong tuyên truyền, đó là: chuẩn bị tốt nội dung
đối thoại; nắm vững kỹ năng, nghệ thuật đối thoại. Đồng thời phân tích và làm rõ
những yêu cầu của kỹ năng đối thoại trong tuyên truyền. Trước tiên đó là lời nói:
bình tĩnh, tự tin, khơng hấp tấp vội vàng; nói mạch lạc, rõ ràng, trình bày gọn, súc
tích; biết đặt vấn đề, diễn giải vấn đề lơ - gic, trình bày gọn súc tích. Nắm vững tâm
lý và nhu cầu đối tượng: biết gây ấn tượng khi tiếp xúc, biết lắng nghe, biết phân
tích, biết tranh luận và kích thích nhu cầu tìm hiểu ở người nghe; biết giới hạn liều
lượng và chiều sâu tri thức khi tranh luận, đối thoại. Việc diễn đạt vấn đề cần rõ
ràng, khúc triết, chững chạc, có sức thuyết phục, lơi kéo tranh luận có lý, có tình
nhưng trong tình huống cụ thể cũng cần tỏ thái độ cương quyết, cứng rắn trong lập
luận để điều chỉnh thái độ của đối tượng. Thận trọng, chín chắn trong mọi lý lẽ, lập
luận, sử dụng ngơn ngữ phù hợp, có văn hóa: biết dẫn dắt người nghe từ đơn giản
đến phức tạp, từ dễ đến khó; có vấn đề cũng đi vịng vo, có vấn đề nói chân lý,
nhưng cũng có vấn đề gợi mở để đối tượng tự tìm ra chân lý.
Hà Ngọc Hợi và một số tác giả biên soạn cuốn “Cơng tác tư tưởng văn hóa”
[43] khi bàn về kỹ năng tuyên truyền miệng đã quan niệm rằng: Kỹ năng tuyên
truyền miệng là khả năng vận dụng các kiến thức về lĩnh vực này trong thực tiến
tuyên truyền, thuyết phục người nghe bằng lời nói trực tiếp. Vì vậy, theo các tác giả
kỹ năng tuyên truyền miệng bao gồm một loạt cá kỹ năng liên quan đến quá trình
chuẩn bị và thực hiện hoạt động tuyên truyền miệng, đó là: kỹ năng lựa chọn nội
dung thông tin; lựa chọn và nghiên cứu tài liệu; xây dựng đề cương nghiên cứu; lựa
chọn, sử dụng ngôn ngữ và văn phong; tiến hành phát biểu, điều khiển sự chú ý và
trả lời câu hỏi, kỹ năng nắm bắt nhanh chóng đặc điểm đối tượng, kỹ năng làm chủ
lời nói, các kỹ năng bắt đầu và kết thúc bài nói chuyện, kỹ năng nắm bắt thông tin
phản hồi, kỹ năng thảo luận và tranh luận. Theo các tác giả này để có kỹ năng


23
tuyên truyền miệng người tuyên truyền phải được trang bị về tri thức và kỹ năng

nhất định và đây chính yếu tố quyết định tới sự thành công trong tuyên truyền.
Trong cuốn sách: “Một số vấn đề lí luận và nghiệp vụ công tác tư tưởng”,
Phạm Quang Nghị (chủ biên) đã đề cập đến việc rèn luyện kỹ năng và nghệ thuật
nói để làm tốt cơng tác tun truyền, cổ động miệng. Các tác giả cho rằng, “Nói là
một nghệ thuật, và nghệ thuật đó có vai trị hết sức to lớn trong đời sống, nhất là
trong việc thực hiện các chức năng xã hội như tuyên truyền, giáo dục…” [70; 279].
Theo các tác giả cán bộ tuyên truyền muốn có được kỹ năng nói thì cần phải trau
dồi tri thức (hiểu theo nghĩa rộng, đó là học vấn, là trình độ lí luận, là sự am hiểu
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự sâu sát thực tiễn và am hiểu con
người); tự tin, tôn trọng người nghe; chuẩn bị kỹ bài nói, nhất là cách mở đầu, kết
thúc bài nói cần phải hấp dẫn và hợp lý.
Qua các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đã nêu trên, có thể thấy: cơng
trình tiếp cận nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống, tách biệt về kỹ năng tuyên
truyền, kỹ năng tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là chưa có,
nhất là trong lĩnh vực tâm lý học xã hội và công tác tư tưởng của Đảng. Kỹ năng
tuyên truyền miệng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ cấp uỷ đảng cơ sở là
một vấn đề mới được nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học xã hội và vận dụng vào
công tác tư tưởng của Đảng hiện nay trên cơ sở sự tiếp thu, kế thừa, bổ sung và
phát triển những cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.2.1. Tuyên truyền và tuyên truyền miệng
1.2.1.1. Tuyên truyền
Thông thường tuyên truyền được hiểu đó là hoạt động truyền bá thông tin,
quan điểm, tư tưởng tới một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó nhằm một mục
đích nhất định. Trong nghiên cứu, tuyên truyền là một khái niệm phức tạp. Đã
có rất nhiều nhà nghiên cứu, chính trị gia, các nhà hoạt động trong lĩnh vực
chính trị bàn về nó nhưng để thống nhất khái niệm tuyên truyền trên phạm vi
rộng lớn là một điều khó khăn. Khái niệm tuyên truyền đã được xem xét và đề

cập ở các góc độ khác nhau.
Bách khoa tồn thư mở [wikipedia]: Tun truyền là hành động truyền bá
thơng tin với mục đích đưa đẩy thái độ, suy nghĩ, tâm lý và ý kiến của quần chúng


×