Tải bản đầy đủ (.doc) (151 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh lạng sơn trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.43 KB, 151 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CH MINH

Hoàng thanh mai

Bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh lạng
sơn trong giai ®o¹n hiƯn nay
Chun ngành

: Văn hóa học

Mã số

: 60 31 70

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ngun DUY b¾C

HÀ NỘI - 2011


LêI CAM §OAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
cơng bố trong bất cứ cơng trình nào.
Tác giả

Hoµng Thanh Mai



MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: VAI TRÒ CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Di sản văn hoá: Quan niệm, cấu trúc, chức năng
1.2. Quan niệm về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá
1.3. Vai trò của việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay

8
8
16
23

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Về công tác chỉ đạo của các cơ quan lãnh đạo, quản lý
2.2. Về hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá vật thể
2.3. Về hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể


32
32
34
56

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH
VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

85

3.1. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hoá đối với tỉnh Lạng Sơn
3.2. Phương hướng chung
3.3. Quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Lạng Sơn
3.4. Mục tiêu
3.5. Một số giải pháp cơ bản
3.6. Một số giải pháp cấp bách

85
87
91
97
99
111

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


114
116
119


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

2. DSVH

: Di sản văn hoá

3. KT-XH

: Kinh tế - xã hội

4. XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hố là tài sản vơ giá, là bằng chứng sinh động, xác thực, cụ
thể nhất về đặc trưng văn hoá của từng cộng đồng, dân tộc, địa phương. Bảo tồn
và phát huy di sản văn hố nhằm giữ gìn những tinh hoa văn hoá truyền thống

của dân tộc, kế thừa và khai thác giá trị của di sản phục vụ cho q trình phát
triển văn hố và kinh tế - xã hội của đất nước. Để xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tất yếu phải chú trọng vấn đề bảo
tồn và phát huy di sản văn hoá của từng tộc người, từng địa phương.
Đặc biệt, đất nước ta đang trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, và hội nhập quốc tế. Bối cảnh này đã tác động một cách mạnh
mẽ đến văn hoá và di sản văn hố dân tộc. Di sản văn hóa rất dễ bị mai một
và luôn tiềm ẩn nguy cơ bị biến dạng. Bởi vậy, vấn đề đang đặt ra là cần có
các giải pháp cấp thiết nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa dân
tộc, làm cho di sản văn hóa truyền thống tiếp tục tỏa sáng trong xu thế giao
lưu, hội nhập. Nhận thức rõ vấn đề này, Báo cáo chính trị Đại hội tồn quốc
lần thứ XI của Đảng đã khẳng định:
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về
sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn
hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát
triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng
các giá trị văn hóa trong cơng chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người
nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa, ngơn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số [10, tr.225].
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, địa đầu của Tổ quốc, là
nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em, trong đó dân tộc ít người chiếm số


2
đông (84,74 tổng số dân của tỉnh). Trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử,
hiện trên mặt đất này và trong từng cộng đồng dân tộc ở đây còn lưu giữ biết
bao những di sản văn hoá quý giá, từ những di sản văn hoá về khảo cổ, di sản
tín ngưỡng - tơn giáo - danh thắng đến những di tích lịch sử cách mạng, nhất
là vốn di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đặc sắc về lễ hội truyền thống,
những làn điệu dân ca then, sli, lượn, phong tục tập quán độc đáo, kho tàng

truyện kể, thơ ca, vè dân gian, trò chơi dân gian, ẩm thực truyền thống...
Trong những năm vừa qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
qua các nhiệm kỳ, nhất là Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV, tỉnh
Lạng Sơn đã đạt nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực. Kinh tế tiếp tục có mức
tăng trưởng cao, tốc độ GDP bình quân trong giai đoạn 2006-2010 đạt trên
10%. Trong đó tốc độ tăng trưởng bình qn của ngành dịch vụ là 12,7%;
ngành công nghiệp - xây dựng tăng 16%; ngành nông lâm nghiệp tăng 4,6%.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, sản xuất nơng lâm nghiệp và
kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển ổn định và tồn diện, đời sống của nơng
dân được cải thiện; sản xuất công nghiệp tăng khá về quy mơ; kinh tế cửa
khẩu từng bước khẳng định vai trị là động lực thúc đẩy tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển ngày
càng tăng, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường đáng kể. Thu nhập
bình quân đầu người đạt 820 USD, gấp 2 lần so với năm 2005. Văn hóa - xã
hội tiếp tục có bước chuyển biến tích cực, đời sống tinh thần của nhân dân
được cải thiện. Giáo dục tiếp tục giữ vững ở tốp dẫn đầu khu vực; Quốc
phòng - An ninh được tăng cường, giữ vững ổn định chính trị - trật tự an toàn
xã hội. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều địa phương khác trong cả nước,
Lạng Sơn cũng phải đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Vừa giữ gìn bản sắc của các dân tộc không bị mai một
trước sự phát triển của kinh tế thị trường, nhất là bảo tồn vốn di sản phong
phú, đặc sắc của các thành phần dân tộc. Vừa kết hợp hài hoà giữa mục tiêu


3
phát triển kinh tế và mục tiêu phát triển văn hoá nhằm giải quyết tốt bài toán
phát triển bền vững, khai thác những giá trị di sản văn hoá - tạo thành một
nguồn lực, một động lực cho sự phát triển của tỉnh. Tỉnh ủy, Uỷ ban Nhân dân
tỉnh Lạng Sơn cũng đã ban hành các Nghị quyết, quyết định chuyên đề về bảo
tồn, phát huy di sản văn hóa. Để có cơ sở đánh giá khách quan, tồn diện hơn

về thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn Lạng Sơn
trong thời gian qua, góp phần tiếp tục xác định đường hướng bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa của tỉnh một cách hiệu quả và bền vững, chúng tôi lựa
chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào tạo thạc
sĩ, chuyên ngành văn hoá học, tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề di sản văn hố đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học,
quản lý, nhiều tổ chức trong nước và quốc tế. Một trong 4 mục tiêu lớn của
Thập kỷ thế giới phát triển văn hố do UNESCO phát động (1988-1997)
chính là giữ gìn và phát huy di sản văn hố. Chính vì vậy, trên thế giới, các
nghiên cứu về di sản văn hoá trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn khá
phong phú.
Ở trong nước, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá cũng đã
được quan tâm từ lâu. Ngay từ sau khi giành được chính quyền từ tay ngoại
bang, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng và Nhà nước ta đã
chăm lo đến sự nghiệp bảo vệ di sản văn hoá nước nhà, trong đó đặc biệt là
chú ý xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ di sản văn
hố. Điều đó thể hiện ở Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký về việc giao nhiệm vụ cho Đơng Dương Bác cổ Học
viện bảo tồn cổ tích trên tồn cõi Việt Nam. Sau kháng chiến chống Pháp,
Chính phủ ban hành Nghị định 519 TTg ngày 29/10/1957. Đất nước thống


4
nhất được một thời gian, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Bảo vệ và
sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh Số 14 LCT /HĐNN07
ngày 4/4/1984. Đến ngày 29/6/2001, Quốc hội thông qua Luật Di sản văn hoá
(sửa đổi, bổ sung năm 2009), có hiệu lực từ ngày 1/1/2002, và được quy định

chi tiết tại Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ ban
hành. Các văn bản trên cho thấy chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hố của dân tộc.
Những vấn đề nghiên cứu có liên quan đến di sản văn hoá và di sản văn hoá ở
Lạng Sơn đã xuất hiện trong nhiều cuộc hội thảo khoa học, trong nhiều cơng
trình nghiên cứu tiêu biểu như GS,TS Hoàng Vinh - Một số vấn đề về bảo tồn
và phát triển di sản văn hoá dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia 1997; Cục di sản
văn hố - Một con đường tiếp cận di sản văn hoá, 2005; Phạm Vĩnh - Lạng Sơn
vùng văn hoá đặc sắc, Nxb Văn hố-Thơng tin, Hà Nội, 2001; Viện Văn hóa Thông tin Hà Nội: Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam,
năm 2007; Nơng Thị Nhình - Nét chung và riêng của âm nhạc trong diễn xướng
then Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004...
Sở Văn hố Thơng tin Lạng Sơn đã xuất bản: Tuyển tập luận văn hội
nghị khoa học Xứ Lạng - Lạng Sơn, 1988, khắc hoạ nên bức tranh khá hoàn
chỉnh về đất nước - con người, kinh tế - xã hội, văn hoá của Xứ Lạng - Lạng
Sơn, đặc biệt về phần văn hoá, giới thiệu một vườn hoa văn hố mn sắc
màu bao gồm truyện thơ, lễ hội, diễn xướng, dân ca sli lượn…; Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh Lạng Sơn cơng bố: Địa chí Lạng Sơn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 1999. Đây là một cơng trình khoa học lớn, có giá trị về nhiều mặt về
mảnh đất và con người xứ Lạng, đặc biệt trong phần Văn hoá-xã hội giới
thiệu khá đầy đủ về di sản văn hố ở Lạng Sơn; Sở Văn hố Thơng tin Lạng
Sơn xuất bản cơng trình: Di sản văn hố, Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội
2006, giới thiệu về các di sản văn hoá vật thể trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; Một
số tác giả đã sưu tầm nhiều truyện kể, truyện thơ dân gian ở Lạng Sơn như:


5
Nguyễn Duy Bắc với Truyện cổ Xứ Lạng, (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
1998); Đinh Quang Khải-Hồng Tú sưu tầm- Truyện đời xưa Tam Mậu Ngọ
(Tởi ké Tam Mậu Ngọ, bản tiếng Tày-Nùng) (Hội Văn học Nghệ thuật Lạng
Sơn, 2004); Lộc Bích Kiệm - Đặc điểm dân ca Tày-Nùng Xứ Lạng, (Hội Văn

học Nghệ thuật Lạng Sơn, 2005); đặc biệt TS. Hồng Văn Páo đã cơng bố Lượn Tày Lạng Sơn, (Nxb Văn hóa dân tộc, 2003). Cơng trình này đã tập hợp
nguồn tư liệu hát lượn trên các địa bàn trong tỉnh Lạng Sơn và hệ thống quy
trình của cuộc lượn. Tác giả nêu lên giá trị tinh thần của hát lượn trong đời
sống đồng bào Tày Lạng Sơn, đồng thời nêu lên một số giải pháp nhằm bảo
tồn và phát triển hát lượn Lạng Sơn. Tác giả Hồng Văn Páo cịn có các cơng
trình như: Lễ hội dân gian Lạng Sơn, 2002; Lễ hội Lồng tồng của người Tày
bản Chu, xã Hưng Đạo, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, 2002; đặc biệt luận
án tiến sỹ nhân học văn hoá: Lễ hội lồng thồng của dân tộc Tày Lạng Sơn,
được bảo vệ thành cơng năm 2009;
VỊ ph¬ng diƯn chỉ đạo và quản lý, vn bo tn v phát
huy giá trị di sản văn hoá ở Lạng Sơn cũng bắt đầu được sự quan tâm của các
cấp, các ngành. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn đã ban hành Nghị quyết số
13-NQ/TU ngày 19/4/2007 về bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa của
tỉnh. UBND tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Đề án bảo tồn di sản văn hóa tỉnh
Lạng Sơn giai đoạn 2010 -2015 và Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị
di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (2010).
Nhìn chung việc nghiên cứu về vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã thu được một số kết quả ban đầu
rất đáng trân trọng, tuy nhiên việc nghiên cứu vấn đề này vẫn chưa được đầy
đủ và toàn diện, và cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
tổng thể về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở tỉnh Lạng
Sơn cũng như đặt vấn đề khai thác giá trị văn hoá với tư cách là một nguồn
lực để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương một cách bền vững.


6
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ vai trị của di sản văn hố đối với phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay, luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của tỉnh Lạng Sơn trong thời gian vừa

qua, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác này trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về di sản văn hoá, bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa, vai trò của việc bảo tồn, phát huy giá trị DSVH trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hoá trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong những năm vừa qua.
- Đề xuất phương hướng, mục tiêu, một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác bảo tồn di sản văn hoá và khai thác giá trị di sản văn hoá
vào việc phát triền kinh tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hoá trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong 10 năm gần đây (từ 2000
đến 2010).
- Về không gian: địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Về đối tượng: các di sản văn hoá trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn của các
dân tộc anh em Nùng, Tày, Kinh, Dao, Sán Chay, Hoa, H.Mông và một số dân
tộc khác ở Lạng Sơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hoá.


7
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành như văn
hoá học, bảo tàng học, ...
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản là: phương pháp
thống kê, phân tích, phân loại, đối chiếu và so sánh, tổng hợp, phương pháp

logic - lịch sử…để hoàn thành những mục tiêu nghiên cứu đề ra.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Đánh giá sát đúng thực trạng cơng tác bảo tồn di sản văn hố ở tỉnh
Lạng Sơn từ năm 2000 đến 2010.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi nhằm bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hoá với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lạng Sơn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán
bộ quản lí văn hóa, các cơ quan chức năng liên quan trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị các DSVH trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Vai trị của việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh việc bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn
hiện nay.


8
Chương 1
VAI TRÒ CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
DI SẢN VĂN HÓA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. DI SẢN VĂN HOÁ: QUAN NIỆM, CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG.

Văn hoá là tổng thể các hoạt động sáng tạo của con người trong lịch sử

cũng như trong hiện tại, hoạt động sáng tạo ấy đã sản sinh ra những kinh
nghiệm sống được đúc kết lại thành các truyền thống và thị hiếu, các giá trị và
chuẩn mực xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của con người, xây dựng
nên một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Những sản phẩm của hoạt động sáng
tạo của con người bất kể là vật thể hay phi vật thể, hữu hình hay vơ hình, qua
sự sàng lọc thử thách của lịch sử thời gian đọng lại trở thành di sản văn hoá.
Như vậy, di sản văn hoá chứa đựng những kinh nghiệm, những tri thức sống,
những truyền thống thị hiếu, giá trị và chuẩn mực xã hội.
Di sản văn hoá là bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc, thái độ ứng
xử đối với di sản văn hố nói lên trình độ nhận thức của mỗi quốc gia dân tộc.
1.1.1. Quan niệm về di sản văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm di sản
Thuật ngữ di sản đã có một lịch sử phát triển khá lâu dài, bắt đầu được
biết đến nhiều nhất qua các cuộc cách mạng tư sản Pháp. Có thể nói rằng,
chính việc tịch thu của cải tầng lớp quý tộc và nhà thờ, sau đó tập hợp chúng
thành các tài sản quốc gia trong thời gian cách mạng tư sản đã nảy sinh ra
khái niệm về di sản. Để tránh sự phá hoại của các tài sản này, nhà nước đã cho
tiến hành kiểm kê, tiến hành mô tả, sắp xếp, phân loại các công trình lịch sử
để xác định thứ tự ưu tiên nhằm bảo tồn và khôi phục di sản của quốc gia.
Như vậy, di sản lúc đó được mọi người hiểu là ý niệm về một tài sản chung,
tài sản của mọi cơng dân chứ khơng phải của riêng một ai, đó là ý niệm đã tạo
thành ý thức về di sản quốc gia.


9
Từ một thuật ngữ của đời sống, di sản đã trở thành một thuật ngữ khoa
học. Năm 1983 Hội nghị di sản toàn quốc (Anh) đã định nghĩa di sản như sau:
“Đó là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hiện
nay và những gì một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện nay mong
muốn chuyển giao cho thế hệ tương lai”. Định nghĩa này chỉ ra rằng di sản là

sự lựa chọn về mặt văn hố, tập chung chính vào sự bảo tồn và cần phải lựa
chọn một quan điểm bảo tồn di sản.
Trải qua thời gian, di sản đã trải qua những sự thay đổi ở phương diện khái
niệm. Thuật ngữ “Di sản” trước tiên được định nghĩa vào năm 1970 “Tài sản do
cha mẹ để lại”. Đến năm 1980 nó trở thành “sở hữu tài sản do tổ tiên chuyển
giao”, rồi thêm “tài sản văn hoá của một cộng đồng, một đất nước, của nhân
loại”; và giờ đây người ta bắt đầu nói đến khái niệm di sản văn hố phi vật thể
bên cạnh khái niệm di sản văn hoá vật thể, cũng như đặt các vấn đề liên quan
đến ý thức và quan điểm của mỗi thời đại ảnh hưởng đến khái niệm về di sản.
Tuy nhiên, dù sao đi nữa, bất chấp những tranh cãi về mặt khái niệm, di
sản văn hố cũng được thừa nhận là có sự gắn bó với q khứ và được cơng
nhận ở thời kỳ hiện tại.
Trong Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá do UNESCO khởi xướng
(1988 - 1997), cùng với việc nhận thức lại vai trị của văn hố đối với sự phát
triển kinh tế xã hội, di sản văn hoá cũng được bàn đến là một trong bốn mục
tiêu mà tổ chức văn hoá, giáo dục và khoa học của Liên hợp quốc hướng tới.
Tạp chí Người đưa tin của UNESCO đã cơng bố nhiều cơng trình nghiên cứu
của các học giả trên thế giới về di sản văn hoá. A.Mo-lơ đã quan niệm DSVH
như là một mã “di truyền xã hội”, còn ngài F.Mayor - nguyên Tổng giám đốc
UNESCO thì cho rằng DSVH là một hệ thống giá trị, là những nhân tố hình
thành nên bản sắc của một dân tộc.
Ở Việt Nam, thuật ngữ di sản đã có lúc hầu như khơng được hiểu một
cách đầy đủ, như đã trình bày ở trên, di sản được hiểu là những gì do tổ tiên,


10
cha ơng truyền lại cho con cháu hoặc nói rộng hơn là thế hệ trước truyền cho
thế hệ sau. Khái niệm di sản được hiểu một nghĩa đơn giản nhất là tài sản của
thế hệ trước để lại cho thế hệ sau hay “chỉ chung cho các tài sản văn hố như
văn học dân gian, các cơng trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc, các tác

phẩm văn học,... mà các thế hệ trước để lại cho thế hệ sau [33, tr.667]. Tuy
nhiên, điều này trên thực tế chưa hoàn tồn thoả mãn những suy luận logic
muốn tìm hiểu kỹ hơn về khái niệm này. Chúng ta đều biết rằng, khơng phải
bất cứ của cải gì do thế hệ trước để lại cho thế hệ sau cũng được xem là di
sản. Lấy ví dụ trong trường hợp các phong tục, tín ngưỡng được xem là di sản
quý báu do tiền nhân để lại cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay nhiều phong
tục, tín ngưỡng bị xem là mê tín, dị đoan cần phải bỏ đi. Như vậy, chúng ta
cần có một cách lý giải sâu sắc hơn về thuật ngữ này.
Khái niệm di sản là một khái niệm tiến triển, có nghĩa là nó thay đổi
theo thời gian và khơng gian. Giờ đây khái niệm di sản khơng hồn toàn đồng
nhất với khái niệm tài sản từ quá khứ, nhất là đối với các di sản cộng đồng, rõ
ràng là khơng phải bất kỳ q khứ nào cũng có thể trở thành di sản. Luật Di
sản văn hoá của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xác định di sản
văn hoá là “sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử văn hố, khoa học
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [6, tr.38].
1.1.1.2. Khái niệm di tích lịch sử - văn hóa
Tại Pháp, khái niệm “Di tích lịch sử” được chính thức hoá vào đầu
những năm 1930, và được xác định về mặt pháp lý bằng một chế độ xếp hạng
và bảo vệ đã được một đạo luật phê chuẩn vào năm 1913. Di tích lịch sử bằng
chứng khơng thể phủ nhận về một q khứ ln có mắt mà cộng đồng dân tộc
đã công nhận và thừa nhận như những giá trị tiêu biểu cho bản sắc của mình.
Theo Luật Di sản văn hố của nước Cộng hồ Xã hội Chủ nghĩa Việt
nam: “Di tích lịch sử - văn hố là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn
hố và khoa học” [6, tr.39].


11
Theo điều 28 của Luật Di sản văn hoá năm 2001, di tích lịch sử - văn
hố phải có một trong các tiêu chí sau đây:

- Di tích lịch sử văn hố là các cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với
các sự kiện lịch sử tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa phương.
- Di tích lịch sử - văn hố là các cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với
thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có
ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc của địa phương trong
các thời kỳ lịch sử.
- Di tích lịch sử - văn hoá là những địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu.
1.1.2. Cấu trúc của Di sản văn hoá
Sau nhiều cuộc hội thảo văn hoá do tổ chức UNESCO đứng ra tổ chức,
người ta đi đến thống nhất chia di sản văn hoá thành hai loại: di sản văn hoá
vật thể và di sản văn hoá phi vật thể.
- Di sản văn hoá vật thể bao gồm những hiện vật (động sản và bất
động sản) có giá trị đặc biệt về các mặt lịch sử truyền thống, nghệ thuật, dân
tộc học, khảo cổ học, cổ nhân học, lịch sử tự nhiên,… (Ví dụ các di tích, cơng
trình lịch sử, đền đài, cung điện, thư viện, sách. Di chỉ khảo cổ, mẫu vật hoá
thạch, đất đá trong thiên nhiên,…) một số danh lam thắng cảnh có ý nghĩa
quan trọng về mặt văn hố cũng có thể xếp vào loại này.
Di sản văn hoá phi vật thể bao gồm những sáng tạo tinh thần theo
phương pháp truyền thống của một cộng đồng văn hố. Những sáng tác ấy
được nhìn nhận như là sự phản ánh sinh động khát vọng trong cuộc sống
muôn mặt của xã hội, được lưu truyền và biến tấu bằng các phương thức
truyền khẩu, mô phỏng và bắt chước, diễn ra theo dòng thời gian và khơng
gian một q trình khơng ngừng được tái tạo mang tính tập thể. Những sáng
tác ấy được tích luỹ và hình thành nên hệ thống các giá trị và chuẩn mực, dựa
theo đó các cộng đồng dân tộc tự khẳng định bản sắc văn hố của riêng mình.
Theo quan niệm như thế, di sản văn hoá phi vật thể bao gồm các thể loại chủ


12
yếu sau đây: âm nhạc, ca múa, sân khấu, ngôn ngữ, truyền thuyết, huyền

thoại, lễ hội, nghi lễ, phong tục, tập quán, y học dân tộc, nghệ thuật nấu ăn, bí
quyết trong sản xuất đồ thủ cơng mỹ nghệ… Có thể ghi nhận vào đây cả
“nghệ nhân dân gian”, người đang nắm các bí quyết này, cũng được xem là tài
sản văn hoá. Trong đạo luật “Bảo tồn các tài sản văn hoá” của nước Nhật Bản,
lớp nghệ nhân dân gian kể trên được gọi là “kho báu sống”.
Theo định nghĩa của UNESCO, Tại mục 1, điều 2 của Công ước về
Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, được Hội nghị tồn thể của UNESCO
thơng qua vào ngày 17 - 10 - 2003 tại kỳ họp lần thứ 32 đưa ra định nghĩa Di
sản văn hóa phi vật thể được hiểu là
Các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và
kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các khơng gian
văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm và trong một số
trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa
của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn
hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm khơng ngừng tái
tạo để thích nghi với mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng
đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một
ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối
với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người [39, tr.330].
Việc xác định rõ cấu trúc của di sản văn hố có tầm quan trọng đặc biệt,
vì nó liên quan đến sự định hướng triển khai công tác khảo sát, điều tra đúng
với các đối tượng đang cần được ưu tiên xử lý trước. Đây là một bước tiến
đáng kể trong quá trình nhận thức về di sản văn hố, nhờ đó mà có tác dụng
tốt đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị của nó.
Ngồi cách phân loại trên về cấu trúc di sản văn hố, ta có thể còn gặp
những cách phân chia khác nhau. Chẳng hạn Đàm Hồng Thụ trong luận án
tiến sỹ văn hố học “nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hoá nghệ thuật


13

trong giai đoạn hiện nay”, đã đưa ra một cách phân loại di sản văn hoá gắn
với hệ phương pháp xử lý đối với từng thể loại di sản văn hố, Đàm Hồng
Thụ đã chia di sản văn hố thành 8 loại, mỗi loại gắn với một cơ quan bảo
quản chuyên biệt. Ví dụ tài sản văn tự gắn với cơ quan lưu trữ thư viện, di sản
văn hoá nghệ thuật gắn với các Bảo tàng nghệ thuật, Viện lưu trữ điện ảnh,…
Hoặc căn cứ vào trạng thái tồn tại cuả di sản văn hoá, người ta chia di sản văn
hoá thành di sản văn hoá tĩnh và động.
Trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn cách phân loại di sản văn hoá
được ghi trong Luật Di sản văn hoá của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chính thức được Quốc hội phê chuẩn vào tháng 6/2001 và có hiệu lực từ
1/1/2002 gồm 7 chương, 74 điều. Về cơ bản, cách phân loại di sản văn hoá
này cũng thống nhất với quan niệm của UNESCO. Trong đó điều 4 của Luật
này nêu rõ:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu
truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và và các hình thức
lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian,
lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri
thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục
truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác [6, tr.38-39].
Và được sửa đổi bổ sung trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hoá năm 2009
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được
tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [17, tr.7].



14
1.1.3. Chức năng của di sản văn hóa
Di sản văn hố là kiệt tác có giá trị đặc biệt do nhân loại sáng tạo nên;
Có sức ảnh hưởng lan tỏa trong cộng đồng và sự độc đáo của bản sắc văn hóa,
tính ứng dụng, các chất lượng kỹ thuật và các khả năng mang lại hiệu quả,
mang giá trị như một chứng nhân độc đáo cho truyền thống văn hóa; Có nguy
cơ biến mất do thiếu phương tiện bảo vệ và do q trình đơ thị hóa hay do tiếp
biến văn hóa. Vấn đề này phải được các quốc gia thể hiện trong các biện pháp
quản lý và chương trình hành động.
Di sản văn hoá là bộ phận quan trọng tạo nên mơi trường văn hố của
các cộng đồng. Văn hoá và di sản văn hoá là thiên nhiên thứ hai ni dưỡng
cá nhân và cộng đồng.
Di sản văn hố là yếu tố cơ bản tạo nên truyền thống văn hoá, làm cơ
sở cho sự phát triển của văn hoá trong giai đoạn tiếp theo. Di sản văn hoá là
tiền đề, là cơ sở cho sự sáng tạo cái mới, nếu khơng có cái cũ thì cũng khơng
có cái mới, cái mới chỉ ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển cái cũ. Như vậy,
di sản được kế thừa và phát huy tạo nên truyền thống văn hoá, làm cho văn
hố khơng bị đứt gãy, hơn nữa, di sản văn hố cịn là "ngun liệu", "vật liệu"
cho sự phát triển văn hố trên cơ sở tích luỹ vốn liếng văn hoá. Di sản cũng là
đối tượng cho sự tiếp thu, cải biến để phát triển, quan trọng hơn, di sản văn
hoá của các thời đại trước tạo ra những nấc thang cho sự phát triển văn hoá
của thời đại sau. Như vậy, di sản là cơ sở cho sự sáng tạo cái mới, cái mới ra
đời lại là di sản của tương lai, đến lượt nó lại làm cơ sở cho sự sáng tạo tiếp
theo. Trong mối quan hệ nhân quả đó, vai trị của di sản hết sức to lớn, khơng
có di sản thì khơng có cái mới, khơng có cái mới thì khơng có phát triển.
Di sản văn hoá là nhân tố cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc, cơ sở lựa
chọn giá trị văn hoá và là động lực tinh thần của xã hội. Bản sắc dân tộc là
"đặc tính dân tộc", là "cốt cách dân tộc" được biểu hiện ở hệ giá trị dân tộc,
được cả cộng đồng lựa chọn, thừa nhận và chấp nhận trên nền tảng lịch sử của



15
cộng đồng, được đem vào vận hành trong đời sống cộng đồng. Trong di sản
văn hoá của một dân tộc có chứa đựng những giá trị văn hố của q khứ làm
cơ sở cho sự chuyển đổi thành những giá trị mới, làm cho bản sắc dân tộc
luôn được khẳng định và trường tồn cùng dân tộc. Trong một nền văn hoá nếu
di sản văn hoá bị chối bỏ, bị xố bỏ thì nền văn hố ấy sẽ mất hết bản sắc, tự
đánh mất mình. Bản sắc văn hố được khẳng định, nó giống như cái màng lọc để
chọn lọc những yếu tố mới được sáng tạo ra. Cái nào phù hợp (có giá trị) tiến bộ
sẽ được phát triển, cái nào không phù hợp sẽ bị loại bỏ, đặc biệt là những yếu tố
từ bên ngoài thâm nhập văn hố Việt Nam. Nhiều khi các di sản đó cịn có sức
mạnh như một quyền uy, sự thơi thúc hoặc cản trở hành vi con người.
Di sản văn hoá thúc đẩy cho quy luật giao lưu tiếp biến vận thông trong
đời sống của cộng đồng làm cho văn hoá dân tộc và văn hoá nhân loại phát
triển đa dạng. Quy luật giao lưu-tiếp biến là quy luật cơ bản của sự vận động
và phát triển của văn hoá, người ta chỉ có thể giao lưu-tiếp biến với nhau trên
cơ sở những gì đã sáng tạo ra hoặc dựa trên những cái đã có để sáng tạo ra cái
mới. Di sản văn hố giữ vai trị cơ sở cho sự giao lưu văn hố là trình độ, là
nhu cầu của sự giao lưu. Nếu khơng có di sản đạt đến một trình độ nào đó thì
trong sự giao lưu văn hố sẽ bị áp đặt, hoặc không thể tiếp nhận được cái mới,
dẫn đến tình trạng hoặc trở thành bóng mờ của người khác hoặc sẽ trở nên cô
lập, tất cả dẫn đến tàn lụi, hoặc nghèo nàn đời sống văn hố. Di sản văn hố
có tác dụng như một màng lọc đối với những yếu tố, những giá trị văn hố
ngoại lai. Nó có vai trị bảo tồn các giá trị và bản sắc dân tộc trong quá trình
giao lưu, tiếp biến văn hoá. Như vậy, di sản văn hoá thúc đẩy quy luật giao
lưu, tiếp biến văn hoá để làm phong phú văn hố các dân tộc và tồn nhân
loại, đồng thời phát huy tính đặc sắc của nền văn hoá dân tộc làm cho văn hoá
phát triển vừa mang tính đa dạng, vừa mang tính nhân văn độc đáo.
Di sản văn hố góp phần tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Vai trò
của di sản được biểu hiện ở hai phương diện: di sản là nền tảng cho sự sáng



16
tạo các giá trị văn hoá mới, là nấc thang trình độ, là giá đỡ tinh thần, là năng
lực sáng tạo của chính văn hố. Mặt khác, di sản văn hoá tham gia vào nền
tảng tinh thần của xã hội để góp phần chọn lựa mơ hình kinh tế-xã hội phù
hợp với đặc điểm, đặc trưng của dân tộc. Nghĩa là mơ hình kinh tế-xã hội của
đất nước xây dựng trên nền tảng giá trị nào, tất nhiên phải được xây dựng trên
nền tảng giá trị dân tộc thể hiện ở di sản văn hoá, truyền thống văn hoá của
dân tộc.
1.2. QUAN NIỆM VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

1.2.1. Quan niệm về bảo tồn và bảo tồn di sản văn hoá
Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động bảo tồn thường bắt gặp ba
từ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn. Bảo quản, mang nghĩa sử dụng những biện
pháp kỹ thuật để gìn giữ, chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn tồn tại lâu dài.
Bảo vệ chứa đựng nội dung thực hành các hoạt động mang tính chất pháp lý
hay nói cách khác bảo vệ là “giữ không để cho bị xâm phạm”. Bảo tồn mang
nghĩa rộng hơn, là “hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự
xuống cấp hoặc phá hoại” hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo quản kết
cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của kết cấu đó. Như vậy,
bảo tồn là tất cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa
của di sản văn hóa nhằm bảo đảm sự an tồn, phát triển lâu dài về vật chất
cho di sản văn hóa và khi cần đến phải đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày,
khôi phục và tôn tạo lại để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ
của xã hội. Cơng tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao
gồm các hoạt động như: Bảo tồn nguyên trạng; Trùng tu; Gia cố ; Tái định vị;
Phục hồi; Tái tạo - làm lại; Qui hoạch bảo tồn. Trong tiến trình lịch sử, hoạt
động bảo tồn di sản văn hóa xuất hiện ngay từ khi con người ý thức được giá
trị của di sản văn hóa trong đời sống, đồng thời hiểu được mối nguy hại do tác

động của thiên nhiên và chính con người gây ra. Nên họ đã khơng ngừng tìm
kiếm các biện pháp bảo tồn, trong lịch sử bảo tồn theo cơ sở khoa học được


17
hình thành và phát triển từ Pháp vào giữa thế kỷ XIX. Cho đến vài thập kỷ
gần đây bảo tồn di sản văn hóa trở thành mối quan tâm của giới khoa học và
là điểm nóng chú ý của xã hội. Theo thống kê của một số tác giả, có ngày từ
“bảo tồn di sản văn hóa” xuất hiện trên mạng lên tới 482.000 trang (web). Ở
nhiều nước bảo tồn di sản văn hóa trở thành một ngành học có tính chun
mơn cao, người ta áp dụng các quy tắc chung về bảo tồn theo các qui ước
chung của cộng đồng quốc tế như năm 1954, UNESCO đưa ra nghị định về
bảo tồn di sản văn hóa. Năm 1964, tổ chức ICOMOS (tổ chức chuyên môn
độc lập xem xét các hồ sơ ứng cử di sản văn hóa của UNESCO) cho ra đời
hiến chương Venice về bảo tồn và trùng tu di tích, di chỉ. Hiến chương này
nhấn mạnh việc bảo tồn địi hỏi phải giữ gìn tính ngun gốc (authentic), có
nghĩa khơng được phép làm thêm hay bớt đi mà phải bảo tồn nguyên vẹn
“Khi hãy còn là một khung cảnh truyền thống thì khung cảnh đó phải được
bảo vệ. Khơng một cơng trình xây dựng gì mới, một sự phá hoại hoặc sửa
sang nào mà làm biến đổi mối tương quan giữa khối hình và màu sắc được
phép tiến hành.” Năm 1972, Công ước về việc bảo tồn các di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới do UNESCO đề xướng và khởi thảo chính thức có hiệu
lực dựa trên tinh thần tôn trọng Hiến chương Venice. Năm 1981, Hiến chương
Burra ra đời nhằm bổ sung thêm cho hiến chương Venice, chủ chương xử lý
thận trọng sự thay đổi: làm mọi việc cần thiết để bảo tồn di sản, song mặt
khác càng ít thay đổi càng tốt để di sản giữ được tối đa giá trị văn hóa của nó.
Năm 1994, Văn kiện Nara về tính ngun gốc đã nhấn mạnh tính đa dạng văn
hóa và đa dạng di sản, “tùy theo tính chất của di sản văn hóa, bối cảnh văn
hóa của di sản đó và sự biến chuyển của nó trong thời gian mà phán xét về
tính ngun gốc có thể được gắn với một loạt các nguồn thơng tin khác nhau.

Các dạng thơng tin có thể bao gồm hình thức và thiết kế, vật liệu và chất liệu,
cách sử dụng và chức năng, truyền thông và kỹ thuật, vị trí và nơi dựng lập,
tinh thần và cách thực hiện, những yếu tố bên trong và bên ngoài di sản. Việc


18
sử dụng những nguồn thơng tin đó sẽ cho phép dựng lên được các chiều kích
nghệ thuật, lịch sử, xã hội và khoa học của di sản văn hóa được khảo sát”.
Văn kiện mở ra một con đường mới, lối suy nghĩ thống hơn và linh hoạt hơn
tùy theo tính chất, hoàn cảnh cụ thể để mà phán xét về tính ngun gốc của di
sản văn hóa. Tuy nhiên văn kiện Nara vẫn khẳng định vị trí khơng thể thay đổi
của hiến chương Venice về tính nguyên gốc của di sản văn hóa.
Hoạt động bảo tồn theo cơ sở khoa học trải qua nhiều thay đổi, có thể
hiểu bảo tồn di sản văn hóa khơng có nghĩa là cố gắng giữ lại được càng
nhiều càng tốt những gì thuộc về quá khứ hoặc giữ nguyên trạng một cách
cứng nhắc làm cho di sản đóng băng và về lâu dài sẽ đưa đến sự xuống cấp,
hủy hoại chúng. Cũng khơng có nghĩa bảo tồn di sản văn hóa là được phép tự
ý sửa chữa theo ý muốn chủ quan của một cá nhân hay tập thể nào để dẫn đến
tình trạng tự hủy hoại, xuống cấp hoặc làm mất đi bản sắc riêng của mỗi di
sản. Mà bảo tồn di sản văn hóa là việc bảo vệ, gìn giữ những giá trị liên quan
từ quá khứ đến hiện tại làm cho di sản văn hóa đó lớn mạnh hơn, giàu có hơn
và tất yếu cái được bảo tồn phải phù hợp với thời đại để nó có thể tiếp tục
song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc sống. Hoạt động bảo tồn di sản văn
hóa phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt mang tính thơng lệ được
cộng đồng quốc tế chấp nhận thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều dự
án trùng tu đã làm phá hoại di sản văn hóa hơn là bảo tồn. Kết quả là tạo ra
một hình ảnh mới hoặc làm biến đổi di sản văn hóa và làm mất đi tính ngun
gốc cần có của một di sản văn hóa. Đặc biệt là đối với các di sản văn hóa là
các cơng trình kiến trúc, các vật liệu gốc được thay thế bằng vật liệu mới. Các
kỹ thuật hiện đại sử dụng trong cơng trình kiến trúc cổ khơng mấy thành cơng

đã phá hỏng vẻ đẹp vốn có của di sản văn hóa. Có nhiều trường hợp vì mục
đích giới thiệu với cộng đồng, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu về du lịch, thương
mại hoặc các nhu cầu khác mà làm mất đi tính ngun gốc của di sản văn hóa.
Quanh địa điểm của các cơng trình kiến trúc nhiều chỗ phát triển mới không


19
thích hợp: như việc xen lẫn các cơng trình hiện đại, kể cả việc sử dụng công
viên, cây xanh quá nhiều cũng làm mất đi giá trị ban đầu của các di sản.
Nhưng cũng có nhiều nơi bảo tồn di sản được thực hiện cách rất nghiêm túc
như ở Nhật Bản. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, Chính phủ Nhật Bản đã có những
chính sách ưu tiên bảo tồn các cơng trình kiến trúc truyền thống (chùa, đền
cổ). Tới năm 1975, các chương trình trùng tu, bảo tồn được hệ thống hóa theo
qui mơ từng cấp độ và phải qua phê duyệt của Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Hội
đồng Bảo vệ Di sản Quốc gia. Những cơng trình là “tài sản quốc gia hay di
sản văn hóa quan trọng” có qui định chặt hơn, Chính phủ tồn quyền quyết
định trong việc thay đổi điều kiện hiện tại của công trình cả nội và ngoại thất.
Ở Singapore, việc bảo tồn di sản có những chính sách rất cụ thể một mặt đưa
ra như một sắc lệnh, một mặt khuyến khích người dân cùng tham gia thực
hiện. Khẩu hiệu được đưa ra là: 3R, đó là: “Maximum Retention, Sensitive
Restoration, Careful Repair” - “giữ lại tối đa, phục hồi nhanh chóng, sửa chữa
cẩn thận”. Để từ đó xây dựng hành lang pháp lý duy trì sự chuẩn mực bảo tồn
các di sản văn hóa.
Có thể kết luận rằng, chẳng có một phương pháp chung nào cho việc
bảo tồn ở tất cả các di sản văn hóa. Vì vậy, khi bảo tồn một di sản văn hóa cụ
thể cần nghiên cứu thật kỹ, chọn lựa phương án thích hợp với từng địa
phương, từng đặc thù riêng của nó để đảm bảo cho cộng đồng và các thế hệ
mai sau rằng “cái chúng ta đang trưng bày là xác thực chứ không phải đồ giả,
là lịch sử chứ không phải là tuyên truyền, là sự uyên bác chứ không phải là
định kiến, là thông tin chứ khơng phải là sự kích động và là sự cảm hứng chứ

không phải là những lời sáo rỗng”.
1.2.2. Quan niệm phát huy và phát huy giá trị di sản văn hoá
Phát huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái tốt
tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ cao đến
thấp, từ đơn giản đến phức tạp. Nói một cách đơn giản phát huy chính là việc


20
khai thác, sử dụng sản phẩm một cách có hiệu quả. Công việc này xuất phát
từ nhu cầu thực tế, con người mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được
nhiều người cùng biết đến hoặc đem về những lợi ích kinh tế. Phát huy giá trị
di sản văn hóa là một hoạt động có tính liên ngành, có tiêu chí chung, mục
đích là phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội, cho việc phát triển du lịch bền vững
và góp phần quan trọng trong việc giáo dục truyền thống u nước, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời là nhịp cầu nối với bạn bè năm châu. Cách
thức phát huy của mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau, điều đó tùy thuộc
vào văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng tất thảy các
hoạt động này đều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm tơn vinh vẻ đẹp
và phát triển các giá trị văn hóa đó. Hình thức chủ đạo của phát huy là quảng
bá hình ảnh của di sản trên mọi phương diện nhằm khai thác, thu hút khách
đến tham quan, đầu tư. Từ đó giúp việc phục hồi tối đa các giá trị văn hóa
truyền thống, tạo cơ hội giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau góp phần
hiểu biết lẫn nhau và tăng cường mối quan hệ quốc tế vì hịa bình, vì sự phát
triển của xã hội. Mặt khác, nếu biết phát huy lợi thế của di sản văn hóa thì đây
còn được xem là một tiềm lực kinh tế. Kinh nghiệm ở Trung Quốc, Singapore
và nhiều nước châu Âu cho thấy, nếu biết cách khai thác giá trị của di sản văn
hóa sẽ đem về lợi ích kinh tế vơ cùng to lớn từ lượng khách du lịch, qua đó
góp phần nâng cao vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Với tiềm năng có
nhiều di sản văn hóa vào bậc nhất thế giới, Trung Quốc đã khéo khai thác tài
sản quí giá từ 56 dân tộc để đầu tư cho phát triển du lịch. Hình thức phát huy

giá trị của di sản văn hóa được Nhà nước đặc biệt quan tâm và lập thành
những dự án lớn trong lĩnh vực trao đổi văn hóa, từ đó đưa các loại hình di
sản văn hóa dân tộc giao lưu, mở rộng mối quan hệ với các nước. Đất nước
Singapore cũng khai thác thế mạnh từ nền văn hóa đa dân tộc tạo thành từng
khu di sản, như trung tâm di sản phố Tàu, trung tâm di sản Malay. Mỗi điểm
dừng lại có cách phát huy khác nhau, tại trung tâm di sản Malay ngoài việc du


21
khách khám phá nền văn hóa của người Hồi giáo qua lối kiến trúc, tìm hiểu
nền học vấn… cịn được thưởng thức các món ăn địa phương, âm nhạc truyền
thống, thử nghiệm tại các làng nghề.
1.2.3. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hố
Di sản văn hóa giữ vai trị quan trọng, là nguồn tài ngun vơ hạn cho
việc phát triển văn hố, kinh tế, xã hội. Từ đó kích thích tiêu dùng tạo ra
những sản phẩm mang giá trị đặc trưng, làm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng
của khách du lịch và đem lại nguồn tài chính đáng kể, góp phần làm tốt công
tác bảo tồn. Hơn nữa, việc phát huy tốt giá trị của di sản còn mang lại một lợi
nhuận vô giá về mặt tinh thần, bởi thông qua việc hiểu biết về di sản văn hóa
sẽ có tác động trực tiếp tới phương diện giáo dục, giúp vun đắp tình cảm cho
mỗi cá nhân và cộng đồng.
Bảo tồn và phát huy luôn gắn liền với nhau như một cặp phạm trù trong
việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa là cái thể hiện sức sống
của dân tộc, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn mà
không đem ra sử dụng thì khơng phát huy được giá trị ẩn chứa trong di sản,
rồi thời gian sẽ làm di sản phai mờ và nhanh chóng bị chìm vào qn lãng. Chỉ
khi giá trị các di sản được phát huy thì mới có cơ sở, có căn cứ và làm điều kiện
để bảo tồn di sản. Do vậy, phát huy sẽ tạo ra hướng tiếp nhận, ảnh hưởng mới
làm cho các giá trị văn hóa khơng bị lãng qn mà cịn lan rộng và giữ vững
được bản sắc của mình. Bảo tồn là cơ sở cho sáng tạo, phục vụ phát huy và

ngược lại phát huy giúp cho bảo tồn di sản văn hóa được tốt hơn, tỏa sáng hơn.
Vì vậy, cần xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, để bảo tồn
không cản trở sự phát triển, trái lại còn tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững.
Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nên được coi là một
hoạt động khoa học, đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu, sự phối hợp liên
ngành và phải tuân thủ những nguyên tắc cao nhất của bảo tồn là giữ được
tính nguyên gốc của di sản gắn với những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội cụ


×