Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở thành phố hồ chí minh giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.51 KB, 100 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập tồn cầu, nhu cầu thơng tin
ngày càng cao và các phương tiện thông tin cũng ngày càng nhiều. Với
nhiều luồng thông tin đa chiều, thực tế có những thơng tin thật sự bổ
ích nhưng cũng có nhiều thơng tin nhiễu, sai lệch làm ảnh hưởng đến
niềm tin của xã hội, nhất là những “thông tin đen”, tiêu cực từ phía các
thế lực thù địch nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình” nhất là
trên lĩnh vực công tác tư tưởng. Mặt khác, yêu cầu hiện nay có rất
nhiều những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mà người
dân cần phải nắm rõ để phát huy dân chủ, sống đúng pháp luật, thực
hiện tốt nghĩa vụ cơng dân, đóng góp trí, lực trong xây dựng và bảo vệ
đất nước, góp sức cùng Đảng ta và chính quyền đưa đất nước tiến lên
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
u cầu cơng tác tun truyền miệng trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ngày càng cao vì nó góp phần đưa nghị quyết của
Đảng vào đời sống, thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; đưa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành nền tảng tư tưởng của toàn xã hội; cổ vũ mọi người ra sức thi
đua yêu nước, cải tiến phương thức sản xuất, đưa kỹ thuật công nghệ
hiện đại đến với mọi người để tăng năng suất lao động, khả năng cạnh
tranh, mở rộng thị trường… Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, các
thế lực thù địch đang tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà
nước với âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn.
Công tác tuyên truyền miệng góp phần thúc đẩy q trình thực
thi dân chủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việc cung cấp
những thơng tin chính thống đến nhân dân sẽ giúp bổ sung, cập nhật




2
thơng tin chính xác, đúng quan điểm, đường lối của Đảng, hiểu biết
pháp luật để tôn trọng và thực thi đúng pháp luật; đem lại cho người
nghe những kiến thức xã hội phong phú, giúp người dân tham gia đóng
góp trí lực trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiệu quả
công tác tuyên truyền miệng được đánh giá ngay sau khi hoạt động
tuyên truyền diễn ra cũng như căn cứ trên sự đồng thuận trong nhận
thức và hành động của đối tượng tuyên truyền.
Để đối tượng tuyên truyền nắm bắt được những chủ trương,
đường lối, cập nhật được nguồn thơng tin chính thống, đúng định
hướng thì đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên (các chủ thể tuyên
truyền) giữ vai trò quan trọng.
Hiện nay, bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt, chất lượng
CTTTM còn nhiều hạn chế thể hiện qua các vấn đề sau:
- Thông tin chính thống chậm đến với đối tượng tuyên truyền.
- Thơng tin được truyền tải chưa mang tính thuyết phục do có
những yếu tố hạn chế chủ quan từ phía cán bộ tuyên truyền. Cán bộ
đảng viên chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm, tích cực tham gia
CTTTM.
- Một số luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch chưa bị
phản bác kịp thời do thiếu nhạy bén của các chủ thể tuyên truyền, sức
đề kháng trong nhân dân chưa cao.
-Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở một số đảng bộ chưa
được xây dựng tạo nguồn dài hạn từ ở cơ sở nên vừa thiếu lại vừa yếu.
Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn hiện nay theo tinh thần Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban
Bí thư Trung ương khóa X “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất

lượng hiệu quả CTTTM trong tình hình mới”, tôi chọn đề tài “Chất
lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở Thành


3
phố Hầ Chí Minh giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề này đã có nhiều nhà khoa học, chính trị, tư tưởng nghiên
cứu, nhiều tài liệu học tập ở các trường chính trị, các cơng trình khoa
học đề cập đến như: Nguyên lý tuyên truyền (do Phân viện Báo chí
tuyên truyền biên soạn), các văn kiện, nghị quyết của Đảng, giáo trình
Tư tưởng Hồ Chí Minh do Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành; các tác
phẩm kinh điển Mác – Lênin do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát
hành. Gần đây có nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo cấp cao viết
về nội dung có liên quan đến đề tài được đăng tải trên báo điện tử và
báo viết Tạp chí Cộng sản. Có khá nhiều đề tài nghiên cứu về cơng tác
tư tưởng, cơng tác tun truyền trong đó có cơng tác tuyên truyền
miệng.
Cụ thể như:
- Hà Đăng (1994),“Đổi mới, tăng cường hoạt động báo cáo viên
góp phần nâng cao hiệu quả tư tưởng", Tạp chí Tư tưởng – Văn hóa,
(10).
- TS.Lương Khắc Hiếu (2006), Tư tưởng, phong cách Hồ Chí
Minh và một số suy nghĩ về công tác tuyên truyền hiện nay, Đề tài cấp
bộ. Đề tài đã nêu ra một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác tuyên truyền, làm rõ phong cách sử dụng ngôn ngữ văn bản trong
khi nói, viết của Hồ Chí Minh và nêu một số giải pháp nhằm đổi mới
công tác tuyên truyền.
- Phan Trường Chiến (2000), Nâng cao chất lượng công tác tư

tưởng trong Đảng bộ tỉnh Kiên Giang hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài
đã khẳng định hoạt động tuyên truyền miệng là hình thức quan trọng
trong công tác tư tưởng.


4
- Nguyễn Minh Tân (2003), Nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng trong Đảng bộ tỉnh Tiền Giang giai đoạn hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài có nêu lên phương hướng củng cố và nâng cao chất lượng đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên nhằm đảm bảo tuyên truyền có
hiệu quả đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của
nhà nước đến cơ sở, thông tin định hướng tư tưởng kịp thời về các sự
kiện quan trọng của đất nước, của tỉnh Tiền Giang và thế giới đến đảng
viên và nhân dân.
- Nguyễn Thanh Tâm (2004), Chất lượng công tác tư tưởng của
Đảng bộ tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay, Luận văn của Thạc sĩ
Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài
xác định công tác tuyên truyền là một bộ phận của công tác tư tưởng
nhằm truyền bá cho đảng viên và quần chúng nhân dân; lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, trang bị cho họ những tri thức về các quy luật
phát triển của xã hội, xây dựng niềm tin vào lý tưởng cộng sản và nâng
cao tính tích cực, sáng tạo của đảng viên và quần chúng nhân dân trong
cuộc đấu tranh xây dựng xã hội mới.
- Vũ Văn Vở (2009), Chất lượng công tác tuyên truyền miệng
của các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài luận giải
cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng công tác tuyên truyền miệng của

các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải Dương, qua đó đề xuất một số nhóm giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng và hoạt
động của đội ngũ báo cáo viên của các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải
Dương. Đề tài đã giải quyết nhiệm vụ tìm hiểu quan niệm, vai trị, vị
trí, đặc điểm và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên làm cơng tác tun
truyền miệng của các huyện; phân tích thực trạng đội ngũ báo cáo viên,


5
công tác tuyên truyền miệng ở cấp huyện; đề xuất phương hướng và
giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng
và hoạt động đội ngũ báo cáo viên các đảng bộ huyện ở tỉnh Hải
Dương trong giai đoạn hiện nay.
- Lương Hoàng Anh (2009), Chất lượng công tác tuyên truyền
miệng của các đảng bộ huyện ở tỉnh Kiên Giang, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh.
Đề tài có mục đích phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng
trong công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ huyện ở tỉnh Kiên
Giang trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp chủ yếu
nhằm từng bước nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng của
các đảng bộ huyện ở tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài là làm rõ vị trí, vai trị cơng tác tuyên truyền
miệng; phân tích thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm
thực tiễn về chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ
huyện ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua và đề xuất những phương
hướng, giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác
tun truyền miệng.
Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu “Chất lượng công
tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí

Minh giai đoạn hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Dựa trên các quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng để
phân tích thực trạng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận
ở thành phố, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở Tp Hồ Chí Minh.


6
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích làm rõ các khái niệm, quan điểm của Đảng về vai trò,
tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận
ở thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích chất lượng cơng tác tun truyền miệng của các
Đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác tuyên truyền miệng của các Đảng bộ quận ở thành
phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu chất lượng công tác tuyên truyền miệng của các
đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2001 đến năm 2010 (qua hai
nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp).
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp luận nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận để giải quyết đề tài này là các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng ta về
cơng tác chính trị - tư tưởng, công tác tuyên truyền, hoạt động tuyên
truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên. Ngoài ra tác giả sử dụng một số thành tựu lý luận từ các đề tài đã
được công bố, các luận văn thạc sĩ của các tác giả có liên quan đến đề
tài.


7
5.2. Cơ sở thực tiễn
Khảo sát tình hình chất lượng công tác tuyên truyền miệng và đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trên địa bàn một số quận tiêu biểu của
thành phố Hồ Chí Minh; các báo cáo và số liệu sơ kết, tổng kết công tác
tuyên giáo, thống kê đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên được Ban
Tuyên giáo thành ủy thành phố Hồ Chí Minh tổng hợp từ năm 2001 đến
năm 2010. Tham khảo tình hình thực tiễn công tác tuyên truyền miệng ở
tỉnh Hải Dương và Kiên Giang qua các luận văn thạc sĩ đã thực hiện của
các tác giả để so sánh, đối chiếu.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp
phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh, điều tra xã hội học, chuyên
gia, đặc biệt là phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Kết quả của luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền miệng và nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền miệng của các đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí Minh trong

tình hình mới.
- Luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho các cấp ủy
đảng và Ban tuyên giáo các cấp nói chung và đảng bộ quận ở thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng; luận văn có thể dùng làm tài liệu bồi
dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp trong giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 03 chương, 06 tiết.


8

Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA
CÁC ĐẢNG BỘ QUẬN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. CÁC QUẬN, CÁC ĐẢNG BỘ QUẬN VÀ CÔNG TÁC TUYÊN
TRUYỀN MIỆNG CỦA CÁC ĐẢNG BỘ QUẬN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội
và tình hình, đặc điểm, vai trị, nhiệm vụ của các đảng bộ quận ở
thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội
của thành phố Hồ Chí Minh và các quận trong Thành phố có tác
động đến cơng tác tun truyền miệng
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương, là
trung tâm về kinh tế, văn hóa, giao dịch quốc tế và du lịch của cả nước,

là nơi giao lưu văn hóa, vùng đất có truyền thống hơn 300 năm lịch sử
và là đầu mối giao thông lớn cả về đường thủy, đường bộ và đường
hàng không; thông thương thuận tiện với các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung
Bộ, Nam Tây Nguyên và khu vực Đông Nam Á. Là một thành phố
trong vùng đất Nam Bộ mới hình thành so với chiều dài lịch sử ngàn
năm văn hiến của đất nước, thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gịn) có
nhiều người dân nhập cư từ các tỉnh thành Trung Nam Bắc đến mưu
sinh, lập nghiệp tạo nên những nét văn hóa vô cùng phong phú, đa
dạng, dựa trên sự giao thoa nhiều phong tục tập quán, văn hóa địa
phương của các vùng miền khác nhau trên cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí địa lý thuận tiện, là trung tâm
giao lưu, thông thương với cả nước và khu vực. Hiện nay, người dân
khắp mọi miền đất nước tiếp tục nhập cư ngày càng đông về Thành


9
phố để học tập, cơng tác, sinh sống. Tình hình kinh tế - xã hội của
Thành phố khá phát triển so với các tỉnh, thành trong cả nước. Phương
tiện thông tin đại chúng phát triển nên điều kiện tiếp cận thơng tin dồi
dào.
Dân số trung bình của thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM)
khoảng 7,382 triệu người (mật độ dân số của thành phố hiện nay là
3.523 người/km2) [56]. Theo số liệu thống kê năm 2007, Thành phố có
2,801 triệu người đang làm việc ở các cơ quan, đơn vị; có 5,64 triệu
dân sống ở 17 quận thuộc khu vực nội thành (tỷ lệ 84,81%) [56]. Trong
quá trình chỉnh trang, kiến thiết đơ thị và sắp xếp bộ máy hành chính
cấp quận, đã có 05 quận mới tách, hình thành trong 10 năm qua như:
quận Bình Tân, quận Tân Phú, Quận 9, Quận 2, Quận 12. Quận có mật
độ dân cư đơng nhất là quận Gị Vấp (86.960 người/km 2), thấp nhất là
Quận 9 (2.237 người/km2). Thành phần lao động có trình độ chun

mơn kỹ thuật theo thống kê năm 2010 có tỷ lệ 55% trong số lao động
có việc làm mới [67].
Kinh tế TPHCM phát triển mạnh, Thành phố đóng góp ngân
sách cho Trung ương cao nhất nước (trên 30%), GDP đầu người tăng
bình quân hàng năm. GDP đầu người tăng từ 1.350 USD năm 2000 lên
1.980 USD năm 2005 và 3.100 USD năm 2010. Thành phố có tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân hàng năm 11,1%
(trong 5 năm 2006-2010), riêng năm 2010 tăng 11,5%. GDP bình quân
(theo giá thực tế) 56,636 triệu đồng 1 người/tháng (năm 2008). Thu
nhập bình quân đầu người là 2,263 triệu đồng/tháng; mức chi tiêu bình
quân 1,618 triệu đồng/người/tháng. Giá trị tổng sản phẩm nôi địa năm
2010 là 418.068 tỷ đồng [56].
Các phong trào văn hóa xã hội phát triển mạnh. Phong trào Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào Tồn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc, phong trào Tồn dân bảo vệ mơi trường; Thành phố


10
phát động Thực hiện nếp sống văn minh, mỹ quan đô thị thời gian gần
đây đã thúc đẩy người xây dựng nếp sống văn minh, văn hóa mới trong
đời sống cộng đồng.
Về dân tộc và tôn giáo, đại bộ phận người dân Thành phố thuộc
dân tộc Kinh. Có trên 10 loại hình tơn giáo đang hoạt động trên địa
bàn. Số đồng bào có đạo chiếm tỷ lệ trên 30% (số liệu do Ban Tôn giáo
và Dân tộc Thành phố cung cấp), trong đó số người theo Phật giáo và
Thiên Chúa giáo chiếm số đơng so với đồng bào có đạo. Tơn giáo, tín
ngưỡng hiện vẫn thu hút nhiều quan tâm của các tầng lớp nhân dân.
Các tín ngưỡng truyền thống tích cực đang tiếp tục được duy trì gắn
liền với phong tục tập quán, nếp sống đạo đức của người Thành phố.
Hoạt động tôn giáo khá phong phú, nhiều cơ sở tự viện đang tích cực

truyền giáo trong tín đồ và có xu hướng phát triển tín đồ. Thơng qua
các hoạt động truyền giáo, các vị chức sắc tôn giáo cũng tích cực động
viên tín đồ tham gia các hoạt động từ thiện xã hội theo phương châm
“đẹp đạo, tốt đời”. Phật giáo có chiều hướng phát triển theo hướng
nhập thế và phần lớn đóng góp tích cực cho hoạt động xã hội tại địa
phương, hiện tại vẫn giữ vai trị là tơn giáo đồng hành cùng dân tộc
theo phương châm của mình. Số tu sĩ các đạo cũng phát triển và có
trình độ đại học, trên đại học ngày càng nhiều.
Nhìn chung, thành phố Hồ Chí Minh là thành phố năng động,
sáng tạo, có nhiều lĩnh vực đi đầu về phát triển kinh tế - xã hội, là nơi
thí điểm xây dựng chính quyền đơ thị do đặc điểm về địa chính trị,
kinh tế, là nơi có truyền thống cách mạng hào hùng, bất khuất, vinh dự
được tặng danh hiệu “Thành phố anh hùng” mang tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại.
1.1.1.1. Tình hình, đặc điểm của các đảng bộ quận ở thành
phố Hồ Chí Minh
Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh có 17 đảng bộ quận nội thành


11
và 260 đảng bộ phường. Số ủy viên Ban chấp hành các đảng bộ quận
trong nhiệm kỳ 2010-2015 có từ 39 đến 41 đồng chí. Tổng số đảng
viên trong tồn Thành phố tính đến 6 tháng đầu năm 2010 là 156.377
đồng chí. Tổng số đồn viên, hội viên các đồn thể chính trị xã hội là
2.570.822 người.
Thời điểm hiện nay, đội ngũ báo cáo viên thành phố có 30 đồng
chí, trong đó trình độ đại học có 18 đồng chí có trình độ đại học (tỉ lệ
60%) và 12 đồng chí có trình độ sau đại học tức từ thạc sĩ trở lên (tỉ lệ
40%); bình qn mỗi quận có 24 báo cáo viên cấp quận và 300 tuyên
truyền viên cấp cơ sở đang hoạt động. Tồn thành phố có 412 báo cáo

viên ở 17 quận, trong đó có 225 báo cáo viên hoạt động thường xuyên
(tỉ lệ 54,61%).
Trình độ của cán bộ, đảng viên khơng ngừng được chuẩn hố và
nâng cao cả về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Đây là điểm
nổi bật của Thành phố và điều đó đã góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động tuyên truyền miệng của từng đảng bộ, chi bộ. Tồn đảng bộ
thành phố có trên 52,9% đảng viên có trình độ trung cấp lý luận chính
trị trở lên và 63,43% đảng viên có trình độ từ cao đẳng trở lên về một
hay nhiều lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ [67].
Với số lượng và chất lượng hiện nay của cán bộ đảng viên và
quần chúng cốt cán các đoàn thể tham gia hoạt động tuyên truyền
miệng tại thành phố, nhu cầu thơng tin của các ngành, các giới trong
tồn thành phố được đáp ứng đầy đủ, có khả năng tuyên truyền quan
điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các nghị
quyết, chỉ thị, các thông tin thời sự, các vấn đề cần cập nhật phục vụ
đời sống của nhân dân lao động, yêu cầu ngày càng cao của hoạt động
tuyên truyền miệng.
1.1.1.3. Vai trò, nhiệm vụ của các đảng bộ quận ở thành phố
Hồ Chí Minh trong công tác tuyên truyền miệng


12
* Vai trò:
Trên tinh thần mọi cán bộ, đảng viên là một tuyên truyền viên
miệng, đảng viên của các đảng bộ quận ở TPHCM đóng vai trị quan
trọng trong cơng tác tuyên truyền miệng vì đảng viên của từng đảng bộ
là đội ngũ tiên phong tại địa phương, là nòng cốt chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Việt Nam, là những người gương mẫu đi đầu trong mọi
phong trào, là đại biểu trung thành của nhân dân, có giác ngộ giai cấp,

có bản lĩnh chính trị vững vàng, có điều kiện tham gia vào các vị trí
lãnh đạo, chủ chốt ở cơ sở đảng.
Cấp uỷ của các đảng bộ quận góp phần đưa đường lối, quan
điểm của Đảng, các chủ trương, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng bộ thành phố và của cấp mình đến cán bộ, đảng viên và quần
chúng các giới tại địa phương và cổ vũ mọi người cùng phấn đấu thực
hiện. Trong công tác tuyên truyền miệng, đảng viên là những chủ thể
tuyên truyền miệng, phải là những chủ thể tun truyền năng động,
sáng tạo, có trình độ lý luận chính trị cơ bản đáp ứng yêu cầu lý giải
các vấn đề thực tế, phân tích những quan điểm cốt lõi của đường lối,
chủ trương, nghị quyết của Đảng, nắm vững chủ trương để truyền đạt
đến đối tượng cần tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền miệng được thực hiện thống nhất từ thành
phố đến các quận, phường dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng. Việc
định hướng nội dung, phương hướng tuyên truyền do các cấp uỷ cấp
trên chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, cấp uỷ từng cấp tiến hành xây
dựng kế hoạch, xác định phương thức, phạm vi và đối tượng thực hiện
tuyên truyền miệng.
* Nhiệm vụ:
Trong bối cảnh Đảng cầm quyền, Lênin nói: “Nhiệm vụ thứ nhất
của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là


13
thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của Cương lĩnh
và sách lược của mình” [44, tr.208]. Như vậy việc tuyên truyền đường
lối, quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ của đảng đối với quần
chúng là hết sức cần thiết mà mỗi tổ chức đảng phải chú trọng triển
khai.
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các chỉ thị, thơng báo của

Trung ương về cơng tác tuyên truyền miệng như: Chỉ thị số 14-CT/TW
ngày 03/8/1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IV) về “Việc
tổ chức báo cáo viên và tuyên truyền viên của Đảng”; Thông báo số
71-TB/TW, ngày 07/6/1997 của Thường vụ Bộ Chính trị (Khóa VIII)
“Về việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác tuyên truyền
miệng”; Chỉ thị số 17/CT/TW, ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (Khóa X) “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả cơng tác tun truyền miệng trong tình hình mới” và các tài
liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền miệng; đồng thời kết
hợp với thực tiễn, chúng ta rút ra được một số quan điểm chung như
sau:
Thứ nhất, trong hoạt động của các đảng bộ Quận, hoạt động
tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền mang tính nghệ
thuật, khoa học và tính đảng cao. Hoạt động này được tiến hành bằng
lời nói trực tiếp từ chủ thể tuyên truyền tác động đến đối tượng người
nghe; thực hiện sự giao tiếp trực tiếp giữa người nói với người nghe,
với cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác nhau trong xã hội.
Hoạt động tuyên truyền miệng là phương thức tuyên truyền, giáo dục
quan trọng của Đảng, là hoạt động có mục đích dưới sự lãnh đạo của
các cấp uỷ đảng.
Thứ hai, chủ thể tuyên truyền miệng là đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên; là các đảng viên và cán bộ chủ chốt của các hội,
đoàn; là lực lượng chính trị nịng cốt của cơ sở. BCV bằng hoạt động


14
tuyên truyền miệng trực tiếp tuyên truyền, giáo dục đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối, quan
điểm của Đảng về những vấn đề thời sự lớn, về những vấn đề mới đặt

ra trong cuộc sống, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần hình thành nếp sống mới, con người mới; tuyên truyền những
nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước,
trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”… trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, định hướng tư tưởng,
nắm bắt và hướng dẫn dư luận xã hội, hướng dẫn sự suy nghĩ và hành
động của toàn dân theo Nghị quyết của Đại hội Đảng, góp phần xây
dựng và củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận
trong toàn xã hội, khắc phục được một phần tệ quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời quần chúng. Đặc biệt, cịn góp phần nâng cao chất lượng sinh
hoạt chính trị tư tưởng của các tổ chức Đảng và đoàn thể, quần chúng.
Thứ ba, trong hoạt động của các cấp uỷ đảng, đội ngũ BCV là
lực lượng nịng cốt trong cơng tác qn triệt, nghiên cứu, giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị, chủ
trương, đường lối của Đảng. Đội ngũ BCV do cấp ủy đảng trực tiếp ra
quyết định cơng nhận. BCV của cấp ủy đảng có nhiệm vụ tuyên truyền
theo sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của tổ chức đảng, chịu sự phân
công của cấp ủy đảng cùng cấp và sự chỉ đạo của các cơ quan chuyên
ngành cấp trên.
Theo tinh thần Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (Khóa X) “Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác tun truyền miệng trong tình hình mới” xác định cơng tác
tun truyền miệng là nhiệm vụ của tồn đảng, vì vậy tất cả cấp uỷ các
cấp từ Trung ương đến cơ sở, các đảng viên hoạt động trên mọi lĩnh
vực đều phải có trách nhiệm làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng, trực


15
tiếp tham gia tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; kịp thời thơng tin và định hướng tư tưởng cho

cán bộ, đảng viên, nhân dân ở nơi công tác và cư trú về các vấn đề
quan trọng trong nước và trên thế giới, coi đó là một tiêu chuẩn để
đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất lượng công tác của các
cấp uỷ, tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất chính trị của mỗi
đảng viên.
Với quan điểm nêu trên, vai trị của các đảng bộ quận trong cơng
tác tun truyền miệng, nhiệm vụ của các cấp uỷ đảng đối với công tác
tuyên truyền miệng được xác định:
- Chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân về sự lãnh đạo của
mình đối với hoạt động tuyên truyền nói chung, tuyên truyền miệng
nói riêng về cơng tác chỉ đạo triển khai hoạt động, đánh giá và rút kinh
nghiệm quá trình đưa nghị quyết của các cấp uỷ Đảng vào cuộc sống.
- Có trách nhiệm xây dựng nội dung tuyên truyền miệng và đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên ở từng địa phương, đơn vị, mỗi
ngành, mỗi giới để đáp ứng yêu cầu của hoạt động tuyên truyền miệng
đảm bảo các yêu cầu tính đảng, tính khoa học, tính đại chúng; tính
chính xác, kịp thời, sáng tạo; tính chiến đấu, tính thuyết phục.
- Thường xuyên củng cố, bổ sung nguồn cán bộ, đảng viên tham
gia đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Xây dựng đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên có đủ phẩm chất chính trị, năng lực chun
mơn để góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, đồng thời không
ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tuyên truyền miệng.
- Chú trọng thực hiện cung cấp, cập nhật thường xuyên thông tin
mới về thời sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; tổ chức các lớp bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ thành
phố đến tận các địa phương.
- Xây dựng các cơ chế phối hợp thực hiện công tác tuyên truyền


16

miệng trong tồn bộ hệ thống chính trị từ thành phố đến quận và cơ sở.
Tạo điều kiện để cán bộ tun truyền phát huy tính năng động, sáng
tạo, đóng góp trí lực, tồn tâm tồn ý phục vụ đảng, phục vụ nhân dân;
khuyến khích đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong
hoạt động tuyên truyền miệng.
- Xây dựng chế độ kiểm tra, giám sát, thực hiện báo cáo định kỳ
với cấp uỷ cấp trên trực tiếp về hoạt động tuyên truyền miệng của cấp
uỷ cấp mình. Phải đánh giá và rút kinh nghiệm thường xuyên cho hoạt
động tuyên truyền miệng để ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của báo cáo viên, tuyên
truyền viên các cấp. Có chế độ chính sách thích hợp đối với đội ngũ
này để động viên tinh thần hăng hái, sáng tạo sao cho cán bộ, đảng
viên hết lịng hết sức vì cơng tác tun truyền.
Vì cơng tác lãnh đạo hoạt động tuyên truyền là một bộ phận của
công tác lãnh đạo xây dựng Đảng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng; hoạt
động tuyên truyền là yêu cầu để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Hoạt động tuyên truyền miệng là một yêu cầu khách quan, tất yếu của
công tác tư tưởng, nó góp phần tạo nên hiệu quả cơng tác tư tưởng
trong mọi thời kỳ cách mạng. Nhận thức đầy đủ vai trị, nhiệm vụ hoạt
động tun truyền miệng có ý nghĩa quan trọng trong thời đại bùng nổ
thông tin, trong thời kỳ hội nhập toàn cầu, trong bối cảnh thành phố Hồ
Chí Minh đang tiến hành xây dựng chính quyền đô thị, phấn đấu trở
thành thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh, hiện đại như Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ IX đã tiếp tục xác định.
1.1.2. Công tác tuyên truyền miệng của các đảng bộ quận ở
thành phố Hồ Chí Minh – Quan niệm, đặc điểm, vai trò, nhiệm vụ
1.1.2.1. Quan niệm về tuyên truyền miệng và công tác tuyên
truyền miệng
* Quan niệm về tuyên truyền miệng:



17
Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo xuất bản năm
2010, những chuyên gia về công tác tuyên giáo đã nêu những khái
niệm cơ bản về tuyên truyền miệng như sau: “Tuyên truyền miệng là
một phương thức tuyên truyền được tiến hành bằng lời nói trực tiếp
nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ vũ tính tích
cực hành động của người nghe” [9, tr.136].
* Quan niệm về công tác tuyên truyền miệng:
Chỉ thị 17-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khố X
“Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tun
truyền miệng trong tình hình mới” nêu rõ:
Cơng tác tun truyền miệng là nhiệm vụ của tồn Đảng,
vì vậy tất cả cấp uỷ các cấp từ Trung ương đến cơ sở, các
đảng viên hoạt động trên mọi lĩnh vực đều phải có trách
nhiệm làm nhiệm vụ tuyên truyền miệng… coi đó là một tiêu
chuẩn để đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, chất
lượng công tác của cấp uỷ, tính tiên phong, gương mẫu và
phẩm chất chính trị của mỗi đảng viên [9, tr.141].
Chỉ thị 17-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khố X
“Về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tun
truyền miệng trong tình hình mới” cũng nêu: Để đáp ứng những đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, thực
hiện Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết Trung ương 5 (khố X) “Về
cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, Ban Bí thư
yêu cầu các cấp uỷ đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu
sắc vai trò, tầm quan trọng của công tác tuyên truyền miệng, phát huy
cao độ các ưu thế của tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên để cùng với các kênh thông tin, tuyên truyền khác
tạo ra sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả của công tác tư

tưởng…


18
Trong CTTTM, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực
lượng quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền, giáo dục quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, đưa
tiếng nói của Đảng trực tiếp đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Đối với CTTTM, Ban Tuyên giáo là cơ quan tham mưu giúp cấp
uỷ tổ chức và điều hành hoạt động của đội ngũ báo cáo viên. Tổ chức,
xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Trên cơ sở tìm hiểu về TTM và CTTTM nói chung, có thể hiểu
CTTTM của các đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí Minh là: hoạt động
của các cấp uỷ, tổ chức đảng quận nhằm tuyên truyền, giáo dục, nâng
cao ý thức chính trị, giác ngộ cách mạng, tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của tổ chức Đảng và
chính quyền địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế
– xã hội của quận.
1.1.2.2. Đặc điểm của công tác tuyên truyền miệng
- CTTTM có nhiều ưu thế có thể phát huy tác dụng, nâng cao
hiệu quả, chất lượng tuyên truyền.
Trước hết, là ưu thế của ngơn ngữ nói. Ngơn ngữ nói có ưu thế
là nó mang tính phổ biến trong giao tiếp xã hội, là công cụ trực tiếp
trong giao tiếp ứng xử giữa người với người. Lời nói có thể được sử
dụng linh hoạt, hiệu quả thông tin cao, sử dụng trong mọi hồn cảnh,
mọi điều kiện và đảm bảo tính cấp thiết, tức thời của thông tin (yêu cầu
thông tin khẩn cấp, thơng tin nhanh). Trong TTM, người nói có thể sử
dụng những thuật ngữ, thành ngữ quen thuộc với đối tượng để biểu đạt
nội dung một cách ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu các vấn đề, nói cách

khác là có thể trình bày tóm tắt, cơ đọng được sự vật, hiện tượng mà
cần phải nói dài. Đồng thời sử dụng châm ngôn, cách ngôn, từ đồng
nghĩa, đa nghĩa và các thủ thuật tu từ để làm cho lời nói sinh động, hấp


19
dẫn, thu hút người nghe.
CTTTM là nghệ thuật vận dụng tổng hợp ý nghĩa của từ, với
cách đặt câu, với các yếu tố khác như ngữ điệu, trường độ, cao độ, sự
ngừng giọng, các yếu tố về thanh, sắc… để tạo ra sự diễn cảm lời nói.
Nhờ khai thác, vận dụng sức mạnh truyền cảm của lời nói – một ưu thế
riêng mà khơng một phương tiện nào khác có được. Tuyên truyền
miệng có thể tác động mạnh mẽ vào tình cảm của con người, khơi dậy
tính tích cực nhận thức của đối tượng, thúc đẩy quá trình hình thành
niềm tin và cổ vũ hành động tự giác của công chúng.
Thứ hai, khi tiến hành TTM, chủ thể có thể sử dụng các yếu tố
phi ngơn ngữ nên nó phát huy tối đa ưu thế tạo nên hiệu quả tuyên
truyền cao hơn. Ngồi lời nói, chủ thể tun truyền có thể sử dụng các
yếu tố phi ngơn ngữ (có tài liệu gọi là yếu tố của hệ thống tiếp xúc cơ
học) như tư thế, cử chỉ, điệu bộ, diện mạo… làm phương tiện biểu đạt
thông tin gắn với sắc thái tình cảm. Cử chỉ, điệu bộ là một trong số các
yếu tố bổ sung cho lời nói, làm cho đối tượng hiểu rõ hơn ý nghĩa, sắc
thái của lời nói. Có thể nói, tư thế, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt, nụ
cười…. nghĩa là tất cả yếu tố phi lời có ảnh hưởng lớn đến q trình
tun truyền miệng. Chúng hỗ trợ cho lời, làm tăng ý nghĩa của lời,
biểu hiện xúc cảm, sắc thái tình cảm của người tuyên truyền với vấn đề
tuyên truyền, do đó chúng góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền.
Thứ ba, CTTTM là loại hình giao tiếp trực tiếp gần gũi và có thể
giúp ta tự điều chỉnh ngay trong q trình tuyên truyền. Khi được trực
tiếp nghe và nhìn người tuyên truyền diễn thuyết, bao giờ người nghe

cũng cảm thấy gần gũi, dễ hiểu và có sức tập trung chú ý cao hơn khi
nghe qua các phương tiện truyền thông đại chúng khác. Khi tiếp xúc
trực tiếp với đối tượng tuyên truyền, chủ thể tuyên truyền có thể điều
chỉnh sắc thái âm thanh, chọn lọc ngôn ngữ, giới hạn mức độ nội dung,
lời nói cho thích hợp, thu hút người nghe. Giao tiếp trực tiếp tạo điều


20
kiện cho người tuyên truyền linh hoạt vận dụng cách nói trong những
tình huống khác nhau, sử dụng điệu bộ thích hợp, phù hợp với đối
tượng, với hồn cảnh. Ngồi ra hình thức giao tiếp này cịn có thể cho
phép người nói chuyển từ độc thoại sang đối thoại và ngược lại.
Khi tiến hành TTM có thể phối hợp nhiều loại hình để tạo nên
hiệu quả cao tuỳ mức độ sử dụng của chủ thể tuyên truyền. Cụ thể:
Độc thoại là loại hình tun truyền miệng mà người nói tác động
liên tục đến người nghe bằng lời. Nếu chuẩn bị tốt về nội dung, có tính
lơgích cao, bố cục chặt chẽ, đáp ứng nhu cầu của nhiều người nghe,
vừa sâu sắc vừa cơ đọng, dễ hiểu, dễ nhớ thì sẽ phát huy tác dụng của
nó.
Khi tiến hành loại hình độc thoại mà chủ thể cảm thấy người
nghe nhàm chán, người nói có thể chuyển sang loại hình đối thoại với
những câu hỏi gợi mở để người nghe cùng tham gia trao đổi ý kiến,
trình bày quan điểm của mình và đặt thêm câu hỏi để người tuyên
truyền giải đáp, làm cho khơng khí buổi nói chuyện diễn thuyết được
sơi nổi, sinh động hơn. Lúc này vai trị người nói và người nghe có
điều kiện chuyển hố lẫn nhau, có thể chuyển sang hình thức một
người đối thoại với cả nhóm, cả nhóm cùng đối thoại với một người.
Ngồi hai loại hình trên, trong CTTTM, chủ thể có thể chuyển
sang loại hình sắm vai (đóng kịch) bằng cách nhờ đối tượng tuyên
truyền giúp chủ thể đặt giả định một tình huống và xử lý tình huống để

minh hoạ cho một nội dung mà chủ thể cần đi đến kết luận qua phân
tích tình huống, từ đó kết luận lại vấn đề. Loại hình này địi hỏi sự
chuẩn bị cơng phu, sự hoà nhập vào “vai diễn” theo một kịch bản soạn
trước mà nhiều đối tượng có thể cùng tham gia (loại hình này thường
diễn ra ở các buổi nói chuyện, thảo luận, trao đổi những chun đề có
tính cách chun sâu hay bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng nghiệp vụ).
Giao tiếp trực tiếp rõ là đã có ưu thế vượt hơn so với các loại


21
hình phương tiện thơng tin đại chúng khác mà ở những phương tiện
khác, người nghe chỉ tiếp thu một cách thụ động, khơng được giải đáp
ngay tại chỗ những gì người nghe thắc mắc, khơng có cơ hội để người
nghe cùng tham gia quá trình hoạt động tuyên truyền với vai trị là chủ
thể được hốn chuyển vị trí với người nói và người nói cũng khơng
biết thái độ tiếp nhận thông tin của người nghe như thế nào.
Với những đặc điểm vượt trội về ưu thế, CTTTM ln có tính
hấp dẫn, phong phú, sinh động và biến hố trên cơ sở có thể phối hợp
nhiều loại hình trong một cuộc tuyên truyền.
Tuy nhiên, CTTTM cũng có một số hạn chế:
- Lời nói có tính tuyến tính chỉ đi một chiều, khơng quay trở lại.
Vì vậy, người nói cần thận trọng, người nghe cần chú ý, nếu không,
không lấy lại được lời nói đã nói và khơng nghe lại được lời nói của
báo cáo viên.
- CTTTM sẽ kém hiệu quả, nếu nơi tập trung (sân vận động,
quãng trường, hội trường …) q rộng, khơng gian q lớn (dủ đã có
phương tiện khuếch đại) và số lượng người nghe quá đông.
1.1.2.3. Vai trị của cơng tác tun truyền miệng
Nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên quan trọng nhất được Chỉ thị 17CT/TW “về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác
tun truyền miệng trong tình hình mới” nêu ra là:

Tiếp tục quán triệt ý nghĩa, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác
tun truyền miệng, hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên, xác định đây là một trong những kênh thông tin quan trọng nhất,
trực tiếp truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phổ biến, giáo dục, quán triệt các quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; định hướng tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân trước các vấn đề thời sự quan trọng
trong nước và quốc tế; góp phần tạo sự thống nhất tư tưởng trong đảng,


22
sự đồng thuận của xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ phong trào cách
mạng. Đồng thời, đây là một trong những vũ khí sắc bén, kịp thời đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù
địch, phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc, phản động. Công tác
tuyên truyền miệng thông qua đội ngũ báo cáo viên và tuyên truyền
viên là một mắt khâu quan trọng, trực tiếp nối liền Đảng, Nhà nước với
nhân dân, Trung ương với địa phương và cơ sở để vừa đưa chủ trương,
đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước đến với nhân
dân , vừa nắm bắt, phản ánh trung thực, kịp thời tư tưởng, tâm tư, nhu
cầu, lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân đối với lãnh đạo
Đảng, Nhà nước; gắn truyền đạt với đối thoại, trao đổi, truyền tải trực
tiếp những thông tin nội bộ cần thiết phục vụ công tác tư tưởng đối với
tất cả các đối tượng ở mọi hoàn cảnh, điều kiện một cách linh hoạt.
Căn cứ nhiệm vụ nêu trên, vai trò CTTTM được xác định như
sau:
- Cùng với các công cụ, phương tiện công tác tư tưởng khác,
CTTTM góp phần truyền bá sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
và những tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại.

- CTTTM là kênh thơng tin chủ yếu và chính thống nhằm giáo
dục, phổ biến, quán triệt mọi chủ trương, đường lối, chính sách, quan
điểm của Đảng và Nhà nước; đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống; thông tin kịp thời và có định hướng các vấn đề thời sự quan
trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng của xã hội mà dư
luận quan tâm, phản ánh. Thông qua kênh tuyên truyền miệng và hoạt
động của chủ thể tuyên truyền mà một mặt, thông tin đến được với
quần chúng nhân dân, mặt khác nhờ thông tin phản hồi có thể nắm bắt
được nhận thức và thái độ của đối tượng tuyên truyền đối với chủ
trương, đường lối, chính sách, nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu


23
cầu, lợi ích… của các giai tầng xã hội.
- CTTTM góp phần to lớn vào việc xây dựng nền văn hoá mới,
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vào
việc xây dựng và phát huy nhân tố con người, nâng cao phẩm chất
chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
- CTTTM góp phần cổ vũ, động viên mọi người hăng hái thi đua
yêu nước, kịp thời giới thiệu những kinh nghiệm, mơ hình hay, những
gương điển hình tập thể cá nhân lao động xuất sắc, sáng tạo, tiên
phong đi đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
- CTTTM là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hồ bình” mà các thế lực thù địch đang ra sức hoạt
động chống phá cách mạng nước ta nhằm giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội, giúp quần chúng nhân dân đề cao cảnh giác, tích
cực tham gia phát hiện, truy tố các thành phần cơ hội, phản bội đất
nước, dân tộc nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
- Nhờ CTTTM mà các cấp uỷ đảng có thể đưa được những

thơng tin nội bộ, những thông tin đến người nghe mà vì lý do nào đó
những thơng tin ấy khơng được phép đưa trên các phương tiện thông
tin đại chúng để đảm bảo tính bí mật.
1.1.2.4. Nhiệm vụ của cơng tác tuyên truyền miệng
Trong từng thời kỳ cách mạng nhiệm vụ cơng tác tun truyền
miệng có những cơng việc cụ thể tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng và hoàn cảnh thực tế của đất nước. Tuy nhiên vẫn phải đảm
bảo những nhiệm vụ trọng yếu như sau:
Một là, phổ biến, truyền bá sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và
nhân dân về hệ tư tưởng của Đảng để chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động.


24
Hai là, phổ biến, quán triệt cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tuyên truyền, vận động
mọi người tin, hiểu và làm theo.
Ba là, thông tin về các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế, các
thành tựu và các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội mà người dân quan
tâm hoặc bức xúc.
Bốn là, tuyên truyền cổ vũ mọi người tích cực hưởng ứng phong
trào thi đua yêu nước, thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng; cán bộ,
công chức, đảng viên phải chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân và nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ, gắn bó
với nhân dân.
Năm là, tuyên truyền phản bác các luận điệu sai trái, đề cao cảnh
giác, đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động “diễn biến
hồ bình” của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng. Đồng thời tuyên truyền cái hay, cái đẹp để lấy tích cực đẩy lùi

tiêu cực ra khỏi đời sống xã hội.
1.1.2.5. Nguyên tắc của công tác tuyên truyền miệng
Để nâng cao chất lượng CTTTM cần tuân thủ những nguyên tắc
cơ bản sau:
Một là, tính đảng là nguyên tắc cơ bản, hàng đầu của CTTTM.
Khi tiến hành CTTM, phải đúng với định hướng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, tính chiến đấu là ưu thế của CTTTM. Chủ thể của
CTTTM luôn phải khẳng định và kiên quyết bảo vệ cái đúng, xây dựng
những tư tưởng, tình cảm lành mạnh, uốn nắn những quan điểm, tư
tưởng lệch lạc, đấu tranh chống các luận điểm phản động, chống đối
Đảng, Nhà nước, chế độ, các biểu hiện tiêu cực.
Ba là, tính quần chúng: Để nâng cao chất lượng của CTTTM, thì
nội dung tuyên truyền phải thiết thực và đáp ứng yêu cầu, nguyện


25
vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi viết cho ai xem, nói cho
ai nghe”[

].

Bốn là, tính khoa học, chân thực, khách quan: Nguyên tắc này
địi hỏi CTTTM phải nói đúng sự thật, nói rõ sự thật, không né tránh,
cực đoan, một chiều và làm cho mọi người hiểu rõ cơ sở khách quan,
khoa học, có đủ căn cứ lý luận và thực tiễn để nâng cao tính thuyết
phục, làm cho người nghe tin tưởng vào sự đúng đắn của vấn đề tuyên
truyền đặt ra.
Ngoài bốn nguyên tắc cơ bản trên, trong tình hình hiện nay,

CTTTM cần chú ý đến tính kịp thời (thời sự) và sáng tạo. Trong thời
đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, những thơng
tin mới, chính xác, thiết thực bao giờ cũng cuốn hút được nhiều người.
1.2. CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA
CÁC ĐẢNG BỘ QUẬN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – QUAN NIỆM,
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ

1.2.1. Quan niệm và yêu cầu về chất lượng công tác tuyên
truyền miệng của các đảng bộ quận ở thành phố Hồ Chí Minh
Theo Từ điển Triết học “Chất lượng (chất) là tính quy định bản
chất của sự vật, tính quy định những đặc điểm và tính cách vốn có của
sự vật: do tính quy định đó, sự vật và sự vật như nó đang tồn tại, chứ
khơng phải là sự vật nào khác; tính quy định đó phân biệt sự vật ấy với
sự vật khác” [65]. Dưới góc độ kinh tế học thì chất lượng là tập hợp
những tính chất của sản phẩm, thể hiện mức độ thoả mãn những yêu
cầu định trước cho nó, trong điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã
hội… Còn theo từ điển Tiếng Việt, chất lượng là “cái tạo nên phẩm
chất, giá trị của một con người, một sự việc” [66].
Khái niệm tuyên truyền miệng trong công tác tư tưởng được
hiểu ở nhiều phương diện khác nhau do cách tiếp cận khác nhau. Có


×