Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tài chính của công ty cổ phần phân bón Sơn Lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 38 trang )

Lời mở đầu
Quản trị tài chính là một bộ phận quan trọng của quản trị doanh nghiệp. Đây là các quan
hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định.
Tất cả các hoạt động kinh doanh đêu ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp,
ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm q trình
kinh doanh. Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận trong hệ thống tài chính, có ảnh
hưởng lớn đến đời sống sản xuất, đến sự phát triển hay suy thối của một doanh nghiệp.
Do đó, để phục vụ cho cơng tác quản lý kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản trị cần phải
thường xuyên tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp của mình, so sánh với một
khoảng thời gian trong quá khứ hoặc với các doanh nghiệp khác trong ngành nhằm phát
hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
cũng như những tiềm năng cần phát huy và nhược điểm cần khắc phục.
Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại cơng ty phân bón Sơn Lâm, em đã nhận thấy rằng
các kế tốn viên của cơng ty khơng hề được trang bị những kiến thức về phân tích tài
chính doanh nghiệp, và bản thân công ty cũng chưa từng phân tích tình hình tài chính của
mình kể từ khi thành lập. Thực trạng kể trên cùng với mong muốn tự trang bị kiến thức
phân tích tài chính cho bản thân mình đã thơi thúc em tìm hiểu thực tiễn hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty thông qua phân tích tài chính giai đoạn 2004-2009, qua đó đề
xuất một số giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp
Sơn Lâm. Vì thế em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tài
chính của cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm” cho bài tiểu luận thực tập giữa khóa
của mình.
Bài viết của em bao gồm 3 phần:
Chương I Giới thiệu chung về công ty cổ phần phân bón Sơn Lâm
Chương II Phân tích báo cáo tài chính cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm giai đoạn
2004-2009


Chương III Các giải pháp nhằm tăng cường năng lực tài chính của cơng ty cổ phần phân
bón Sơn Lâm.


Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của cô giáo Lữ Thị Thu Trang và các nhân viên
phòng kế tốn cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm đã giúp em nghiên cứu hoàn thành bài
tiểu luận này.


Mục lục

Lời mở đầu............................................................................................................................... 1
Chương I: Giới thiệu chung về cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm................................4
1.1 Q trình hình thành và phát triển..................................................................................4
1.2 Lĩnh vực sản xuất kinh doanh........................................................................................4
1.3 Mơi trường kinh doanh....................................................................................................5
Chương II Phân tích báo cáo tài chính của cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm giai
đoạn 2004-2009....................................................................................................................... 7
2.1 Tổng quan về lý thuyết phân tích tài chính doanh nghiệp...............................................7
2.1.1 Khái niệm về phân tích báo cáo doanh nghiệp.........................................................7
2.1.2 Phương pháp phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp...........................................7
2.1.3 Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp..........................................................7
2.2 Phân tích báo cáo tài chính của cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm giai đoạn 20042009...................................................................................................................................... 8
2.2.1 Phân tích khái quát báo cáo tài chính của cơng ty....................................................8
2.2.2 Phân tích dựa trên các chỉ số tài chính....................................................................13
2.3 Đánh giá chung về tình hình tài chính của công ty Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009.......23
2.3.1 Thành tựu đạt được và nguyên nhân.......................................................................23
2.3.2 Hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân.......................................................................23
CHƯƠNG III Giải pháp nhằm tăng cường năng lực tài chính cho cơng ty cổ phần
phân bón Sơn Lâm................................................................................................................ 27
3.1 Các giải pháp nhằm cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Sơn Lâm
............................................................................................................................................ 27
3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao khả năng phân tích tài chính của cơng ty Sơn Lâm........28
3.2.1 Về phía doanh nghiệp.............................................................................................28

3.2.2 Về phía Nhà nước...................................................................................................29
Kết luận................................................................................................................................. 30
Tài liệu tham khảo................................................................................................................ 32
Phụ lục.................................................................................................................................... 33



Chương I: Giới thiệu chung về công ty cổ phần phân bón Sơn Lâm
1.1 Q trình hình thành và phát triển
Tiền thân công ty trách nhiệm hữu hạn Sơn Lâm là một doanh nghiệp nhà nước,
được thành lập năm 1990 thuộc tổng cơng ty khống sản q hiếm Việt Nam - Bộ công
nghiệp nặng. Công ty đã tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh đa dang phong phú như:
sản xuất phân bón hữu cơ, phân bón NPK, chế biến nông lâm sản, sản xuất đồ gỗ, trồng
trọt, trồng rừng, các dịch vụ kinh doanh thương mại,du lịch. Trong đó, kinh doanh sản
xuất phân bón là nhiệm vụ hàng đầu. Với bề dày 17 năm hoạt động kinh doanh sản xuất
phân bón. Cơng ty rất chú trọng đến việc phát triển phục vụ nông nghiệp theo hướng bền
vững. Sản phẩm phân bón của Cơng ty được thị trường chấp nhận, bà con nơng dân tin
dùng. Sản phẩm có mặt hầu hết các tỉnh phía bắc như Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh
Hố, Nghệ An, Sơn La,Thái Ngun…. Năm 2007, để phù hợp với kinh tế thị trường,
công ty trách nghiệm hữu hạn Sơn Lâm được chuyển đổi thành công ty cổ phần Sơn Lâm
với số vốn kinh doanh lớn và nhiều ngành nghề kinh doanh đa dạng, phong phú hơn. Sau
hơn 17 năm hoạt động, công ty luôn được đón nhận các phần thưởng cao quý bao gồm
bằng khen, giấy khen của hội nông dân Việt, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, cục
thuế. Trong lễ kỷ niệm 15 năm thành lập công ty , Sơn Lâm đã vinh dự đón nhận cúp
“Giải thưởng chất lượng Việt Nam năm 2005”. Trong ngày hội kỷ niệm ngày doanh nhân
Việt Nam năm 2007 Cơng ty lại vinh dự đón nhận cúp “Sen vàng" cúp "Bạch Thái Bảo”
và Huy Chương Vàng “Doanh nhân Việt Nam”.
1.2 Lĩnh vực sản xuất kinh doanh
Công ty Cổ phần Sơn Lâm là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và
kinh doanh mặt hàng phân bón phục vụ cho nơng nghiệp, sản phẩm được tiêu thụ hồn

tồn trong nước. Trong đó, phân bón NPK là mặt hàng thiết yếu phục vụ cho cây trồng
như cây lúa, cây màu, cây ăn quả, sắn, mía. Nguyên liệu sản xuất là bột mùn hữu cơ, đạm,
lân, kali với hàm lượng khác nhau tùy theo từng loại cây trồng.


Bảng 1: Một số sản phẩm chủ yếu của công ty Sơn Lâm
Loại phân
NPK 5.10.3
NPK 18.1.16
NPK 5.8.5
NPK 8.2.8
NPK 10.5.12

Cây trồng
cây lúa ( để bón lót)
cây lúa ( để bón thúc)
cây sắn
cây mía
cây cà phê

Đạm
5%
18%
5%
8%
10%

Lân
10%
1%

8%
2%
5%

Kali
3%
16%
5%
8%
12%

Tên của từng loại phân bón là tỉ lệ % của lượng đạm, lân, kali có trong mỗi kg sản
phẩm. Đây là những dạng cơ bản, tùy vào từng loại cây trồng và thổ nhưỡng khác nhau
mà tỉ lệ trên được thay đổi cho phù hợp.
1.3 Môi trường kinh doanh
Khách hàng của công ty Sơn Lâm chủ yếu là người nông dân trồng lúa hoặc một
số loại cây khác như chè, cà phê. Hiện tại, sản phẩm của Sơn Lâm đã có mặt ở hầu hết các
tỉnh miền Bắc và một số tỉnh miền Trung như : Hà Tây (cũ), Hà Nam, Ninh Bình, Thanh
Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Thái Bình, Thái Nguyên, Sơn La, Hưng Yên. Cơng ty có 28
đại lý cấp 1 và 16 đại lý cấp 2. Công ty quản lý bán hàng thông qua các hệ thống đại lý,
qua Hội phụ nữ, Hội nông dân các xã, huyện và nhiều khách hàng là các Tổng cơng ty
như : cơng ty liên doanh Mía đường Nghệ An Tate& Lyle, cơng ty mía đường Quảng
Bình, công ty chè Phù Sơn, công ty cà phê và cây ăn quả Sơn La, nông trường Chiềng
Sung – Sơn La. Hàng năm sản lượng tiêu thụ đạt trên 20 nghìn tấn. Lựa chọn mặt hàng
phân bón để sản xuất và kinh doanh là một lợi thế với Công ty vì Việt Nam là một nước
nơng nghiệp, xuất khẩu lúa gạo lớn thứ 2 trên thế giới và được thiên nhiên ưu đãi với
nhiều loại cây trồng nên các mặt hàng phụ trợ cho nơng nghiệp, trong đó có phân bón
ln dễ dàng tìm được thị trường lớn ngay trong nước với nhu cầu rất lớn từ các vùng
nông nghiệp trồng lúa, cây màu, cây ăn quả. Tuy vậy, đổi lại doanh nghiệp cũng phải chịu
sự cạnh tranh rất lớn từ các công ty của Nhà nước cũng như tư nhân sản xuất cùng mặt

hàng với tiềm lực kinh tế lớn và có nhiều điều kiện phát triển như: Phân bón Bình Điền –
Long An, Phân bón Lâm Thao – Phú Thọ, Phân bón Sơng Gianh – Quảng Bình, Phân bón
Tiến Nơng – Thanh Hóa.


Với sự năng động của ban lãnh đạo công ty cùng ưu thế là một trong những doanh
nghiệp tư nhân sản xuất phân bón đầu tiên, Sơn Lâm ln nỗ lực duy trì những bạn hàng
thân thiết và mở rộng thị trường tiêu thụ kể tư khi mới thành lập.


Chương II Phân tích báo cáo tài chính của cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm giai
đoạn 2004-2009
2.1 Tổng quan về lý thuyết phân tích tài chính doanh nghiệp
2.1.1 Khái niệm về phân tích báo cáo doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu của doanh
nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ
cho phép xứ lý các thơng tin kế tốn và thơng tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình
tài chính, rủi ro, chất lượng hiệu quả các hoạt động cuả doanh nghiệp đó.
2.1.2 Phương pháp phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp,
trong bài viết này, người viết xin đề cập tới 1 phương pháp đơn giản nhất, bao gồm 2 phần
độc lâp. Phần thứ nhất là phân tích tổng quát các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao
gồm bản cân đối kế tốn và báo cáo kết quả kinh doanh, 2 phương pháp chủ yếu được sử
dụng là phân tích dọc (so sánh đối chiếu giữa các số liệu trong cùng một năm ) và phân
tích ngang ( so sánh đối chiếu một số liệu trong nhiều năm liên tiếp) nhằm khắc họa một
cách tổng quan nhất về biến động các hạng mục tài chính của doanh nghiệp trong giai
đoạn 2004-2009. Phần thứ hai yêu cầu sự kết hợp giữa hệ thống chỉ số đã được tiêu chuẩn
hóa nhằm áp dụng đánh giá năng lực tài chính của cơng ty Sơn Lâm. Có 4 nhóm chỉ số

chính được sử dụng trong bài viết này, bao gồm khả năng thanh tốn, vịng quay tài sản,
tỷ số nợ và khả năng sinh lời.
2.1.3 Ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Bằng cách phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ta có thể giá đầy đủ,
chính xác tình hình phân phối, sử dụng và quản lý các loại vốn, nguồn vốn, vạch rõ khả
năng tiềm tàng về vốn của xí nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả sử


dụng vốn, giúp doanh nghiệp cũng cố tốt hơn hoạt động tài chính của mình. Có bốn nhóm
đối tượng chính được hưởng lợi từ phân tích tài chính doanh nghiệp:
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Phân tích tình hình tài chính nhằm mục
tiêu:Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá khứ, tiến
hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh tốn, trả nợ, rủi ro tài chính của
doanh nghiệp, định hướng các quyết định của ban giám đốc như, đây là cơ sở cho các dự
báo tài chính, bao gồm kế hoạch đầu tư, phần ngân sách tiền mặt…
- Đối với chủ sở hữu/ cổ đông: Họ quan tâm đến lợi nhuận và khả năng trả nợ, sự
an tồn của tiền vốn bỏ ra, thơng qua phân tích tình hình tài chính giúp những người này
đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, khả năng điều hành hoạt động của
nhà quản trị để quyết định sử dụng hoặc bãi miễn nhà quản trị, cũng như quyết định việc
phân phối kết quả kinh doanh hợp lý.
- Đối với những tổ chức tín dụng, người cho vay: Mối quan tâm của những người
này chỉ hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Do đó họ cần chú ý đến tình hình
và khả năng thanh tốn của đơn vị cũng như quan tâm đến lượng vốn của chủ sở hữu, khả
năng sinh lời để đánh giá đơn vị có khả năng trả nợ được hay khơng khi quyết định cho
vay, bán chịu sản phẩm cho đơn vị,
- Đối với cơ quan thuế, thông qua thông tin trên báo cáo tài chính xác định các
khoản nghĩa vụ đơn vị phải thực hiện đối với nhà nước, cơ quan thống kê tổng hợp phân
tích hình thành số liệu thống kê, chỉ số thống kê.
2.2 Phân tích báo cáo tài chính của cơng ty cổ phần phân bón Sơn Lâm giai đoạn
2004-2009

2.2.1 Phân tích khái quát báo cáo tài chính của cơng ty
Phân tích khái qt báo cáo tài chính của Sơn Lâm cho ta biết một, cách chung
nhất, cơng ty Sơn Lâm có làm ăn hiệu quả hay không, các hạng mục tài sản thay đổi như
thế nào, thơng qua phân tích bảng cân đối kế tốn, báo cáo kết quả kinh doanh (phịng kế
tốn của cơng ty không lập bảng lưu chuyển tiền tệ)


A Phân tích bảng cân đối kế tốn
Bảng cân đối kế tốn là một bảng tóm tắt ngắn gọn về những gì mà doanh nghiệp có/sở
hữu (tài sản) và những gì mà doanh nghiệp nợ (các khoản nợ) ở một thời điểm nhất định,
phải được lập theo mẫu được Bộ Tài chính quy định. Đầu tiên ta xem xét hạng mục tài
sản trong bảng cân đối kế toán của Sơn Lâm
Đồ thị 1: Thay đổi trong tổng tài sản của cơng ty phân bón Sơn Lâm trong giai đoạn
2004-2005 (đơn vị Việt Nam Đồng)

Xu thế thay đổi trong tổng giá trị tài sản trong những 6 năm trở lại đây của công ty Sơn
Lâm tương đối rõ ràng. Giai đoạn 2004-2007 giá trị cán cân tài sản-nguồn vốn tăng liên
tục, từ mức 20.1 tỷ đồng trong năm 2004 đã tăng lên tới 112.9% trong 3 năm sau đó, con
số ghi nhận tại năm 2007 là 42.8 tỷ đồng. Đặc biệt giai đoạn từ năm 2006 tời năm 2007
công ty đã tăng 16 tỷ đồng trong tổng giá trị tài sản nắm giữ, tương đương 59,7% tổng tài
sản của năm 2006. Đây cũng là mức tăng lớn nhất tính theo năm trong giai đoạn nghiên
cứu. Tuy nhiên, xu hướng trái chiều xuất hiện gần như ngay lập tức sau khoảng thời gian
này. Tổng tài sản giảm liên tục, xuống còn 32.9 tỉ đồng năm 2008 và 22.1 tỉ đồng năm
2009. Vậy là sau giai đoạn đầy biến động 2004-2009, giá trị tài sản của công ty Sơn Lâm
vẫn không thay đổi nhiều. Đây được coi là bước thụt lùi lớn, vì các chỉ số trên chưa tính
tới yếu tố lạm phát.
Để làm rõ hơn điều đó, ta tiếp tục tìm hiểu xu hướng thay đổi của tài sản ngắn hạn và dài
hạn của doanh nghiệp



Đồ thị 2: Những thay đổi ở hạng mục tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn của công ty
Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009 (đơn vị Việt Nam Đồng)

Hạng mục tài sản dài hạn của công ty gần như có cùng xu hướng thay đổi với
tổng tài sản. Tăng mạnh và đạt đỉnh tại năm 2007 (29.7 tỉ đồng), tài sản dài hạn, bao gồm
tài sản cố định, các khoản mục đầu tư dài hạn và các khoản phải thu dài hạn đều đồng loạt
tụt giảm. Năm 2009 giá trị này đã mất tồn bộ sức tăng trước đó, ghi nhận mức thấp nhất
trong giai đoạn nghiên cứu là 7.7 tỉ đồng, xấp xỉ một nửa so với năm 2008 và một phần tư
so với năm 2009. Điều này phản ánh công ty Sơn Lâm đang thu hẹp phạm vi sản xuất của
mình một cách khá rõ ràng. Tiếp tục nhìn sang phần tài sản ngắn hạn, hạng mục này có sự
thay đổi nhiều như tài sản dài hạn, xu thế biến động từ sau năm 2006 cho thấy là một
chiều đi lên tuy nhiên sức tăng không mạnh. Trong đó, giá trị năm 2008 và 2009 lần lượt
là 14.5 và 14.4 tỉ đồng.
Một cách tổng quan ta có thể thấy được vai trò của hai loại tài sản trong tổng tài sản của
doanh nghiệp đã thay đổi đáng kể. Giai đoạn 2004-2005 vai trò của hai hạng mục này là
như nhau. Đây là hạn chế của công ty Sơn Lâm khi để cho phần trăm giá trị của các
khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho quá lớn, lần lượt 35.8% và 11.4% trong năm
2004, 42.12% và 7.6% trong năm 2005. Điều này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp
trong việc quay vòng sản xuất. Tuy nhiên, giai đoạn 2006-2007 tài sản dài hạn có vai trị
cao hơn hẳn, công ty đã sử dụng vốn nhiều hơn, nhà xưởng máy móc thiết bị được thay
mới hoặc nâng cấp, phần trăm giá trị của các khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho chỉ


xấp xỉ 7.7%. Năm 2007 cũng là thời điểm cả tài sản ngắn hạn và dài hạn của doanh
nghiệp đều tăng, đây là dấu hiệu cho thấy Sơn Lâm vừa mở rộng được sản xuất vừa tăng
cường được khả năng thanh tốn hiện hành của mình. Giai đoạn 2008-2009 ta thấy có sự
di chuyển trái chiều giữa hai khoản mục này. Hoạt động sản xuất của Sơn Lâm rõ ràng đã
gặp vấn đề lớn, công ty phải liên tục bán đi tài sản cố định của mình và chuyển bớt một
phần tài sản dài hạn về tiền mặt. Rõ ràng đây khơng phải là một tín hiệu tích cực.
Tiếp tục xem xét tới bên nguồn vốn trong báo cáo tài chính của Sơn Lâm, ta có bảng sau

Đồ thị 3: Những thay đổi ở hạng mục nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của công ty Sơn
Lâm giai đoạn 2004-2009 (đơn vị Việt Nam Đồng)

Trong giai đoạn nghiên cứu, cơng ty Sơn Lâm có lượng vốn chủ sở hữu tương đối ổn định
qua các năm, giao động quanh mức 10.5 tỉ đồng (ngoại trừ năm 2006, con số này là 7 tỉ
đồng) Điều đó cho thấy phần lớn biến động trong tổng tài sản-nguồn vốn đã mô tả ở trên
đến từ sự thay đổi trong hạng mục nợ phải trả của Sơn Lâm. Giai đoạn 2004-2005 nợ phải
trả của công ty chỉ trong khoảng từ 9.3 đến 9.5 tỉ đồng, vai trị của địn bẩy tài chính là
khơng rõ ràng và Sơn Lâm vẫn sản xuất kinh doanh dựa nhiều trên vốn góp của chủ sở
hữu và lợi nhuận tái đầu tư. Trong 2 năm tiếp theo ta thấy một sự tăng mạnh mẽ của hạng
mục nợ phải trả, song song với đó là sự gia tăng giá trị hạng mục tài sản dài hạn như đã
phân tích ở trên. Công ty Sơn Lâm đang sử dụng nhiều vốn vay để tăng cường trang thiết
bị máy móc, mở rộng sản xuất hơn so với giai đoạn trước đó, hay nói theo cách khác,


chấp nhận rủi ro nhiều hơn, điều này hoàn toàn trùng khớp với nhận định ở trên. Tuy
nhiên, giai đoạn 2008-2009 là sự thoái lui ồ ạt khỏi các khoản vay ngắn hạn và dài hạn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh không được như mong muốn khiến Sơn Lâm buộc phải
bán bớt đi các tài sản dài hạn hiện có, thanh toán một phần nợ ngân hàng để tiếp tục tồn
tại. Nợ phải trả của công ty trong năm 2009 là 11.8 tỉ đồng, chỉ nhiều hơn 2.5 tỉ so với
năm 2004 và bằng một phần ba so với năm 2007 (33 tỉ đồng). Sản xuất giảm, lợi nhuận bị
thu hẹp, tuy nhiên tình hình tài chính của Sơn Lâm trở nên an tồn hơn.
B Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
Lợi nhuận là mục tiêu sau cùng, là thước đo cho sự thành công của các doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo kinh doanh của Sơn Lâm cho ta thấy được biến động về lợi nhuận của
doanh nghiệp trong thời kì nghiên cứu.
Đồ thị 4: Sự thay đổi lợi nhuận của công ty Sơn Lâm trong giai đoạn 2004-2009 (đơn
vị Việt Nam Đồng)

Rõ ràng, hiệu quả việc sử dụng tiền vay vào mục đích đầu tư sản xuất của Sơn

Lâm đang bị đặt một dấu hỏi lớn. Năm 2004-2005 với một khoản vay hạn chế, vai trò của
vốn chủ sở hữu lớn, giá trị tài sản dài hạn khiêm tốn lại là khoảng thời gian thành công
nhất của Sơn Lâm trong cả giai đoạn nghiên cứu (lần lượt là 1.34 và 1.26 tỉ đồng). Công
ty phải chịu lỗ lần đầu tiên ngay sau khi mở rộng kinh doanh dựa trên vốn vay ngân hàng
trong năm 2006 (âm 194 triệu đồng) trong khi đó, khoản lãi 41.96 triệu đồng năm 2007
không thể tương xứng với số tiền vay kỉ lục lên tới 33 tỉ đồng. Một hệ quả tất yếu như đã


phân tích ở trên là việc Sơn Lâm phải giảm khả năng rủi ro bằng cách tăng độ an toàn về
tài chính, trong đó thu hẹp sản xuất và rút tiền về trang trải một phần nợ thời kì trước là
cần thiết. Chính việc đó khiến Sơn Lâm đã bị mất một phần thị trường vốn có vào tay các
đối thủ cạnh tranh, lợi nhuận công ty năm 2008 không khả quan trong khi năm 2009 đánh
dấu mức lãi lớn nhất trong lịch sử là âm 256 triệu đồng. Nhìn một cách tổng quan, hoạt
động tài chính của Sơn Lâm chỉ sinh lời trong hai năm 2004, 2005, sau đó là bốn năm liên
tiếp chịu lỗ. Khoản mục này đã phải chịu áp lực rất lớn khi Sơn Lâm đẩy mạnh vay ngân
hàng từ cuối năm 2005, khiến số tiền lãi cơng ty phải trả tăng đột biến. Chính đường lợi
nhuận từ hoạt động tài chính ln thấp hơn so với đường lợi nhuận tổng sau thuế đã chỉ ra
rằng các khoản đầu tư sản xuất kinh doanh không hiệu quả, không tương xứng với số tiền
bỏ ra, đang kéo kết quả kinh doanh của công ty đi xuống. Đỉnh điểm năm 2006 con số
này lên tới -868.4 triệu đồng.
2.2.2 Phân tích dựa trên các chỉ số tài chính
Phân tích chỉ số tài chính là một phần quan trọng của phân tích cơ bản. Phân tích
tỷ số liên quan đến việc so sánh các con số với nhau để tạo nên các tỷ số và từ đó dựa vào
các tỷ số này để đánh giá xem hoạt động của công ty đang trong tình trạng suy giảm hay
tăng trưởng.
Các tỷ số cần phải được so sánh giữa các thời kỳ trong cùng một công ty để thấy được
công ty đang tăng trưởng hay suy giảm. Một trong những ưu điểm của phương pháp này
so với phân tích khái quát là giảm được sự sai lệch do lạm phát gây ra. Đầu tiên chúng ta
xem xét tới khả năng thanh toán của công ty Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009
A Khả năng thanh toán

- Hệ số khả năng thanh toán hiện hành
Là mối quan hệ giữa tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn (tài sản ngắn hạn) với
các khoản nợ ngắn hạn. Nó thể hiện khả năng chuyển đổi của tài sản lưu động thành tiền
trong một khoảng thời gian ngắn (<1 năm) để đảm bảo cho việc thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn (có thời gian < 1 năm). Cơng thức tính:
Hệ số thanh tốn hiện hành = (Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn) / Nợ ngắn hạn


Hệ số này càng lớn thì khả năng thanh tốn nợ ngắn hạn càng cao và ngược lại. nếu Ht <
1 thì doanh nghiệp khơng đủ khả năng thanh tốn nợ ngắn hạn. Thông thường Ht = 2
được coi là hợp lý, được đa số các chủ nợ chấp nhận. Ứng dụng vào cơng ty cổ phần phân
bón Sơn Lâm ta có đồ thị sau:
Đồ thị 5: Khả năng thanh tốn hiện hành của cơng ty Sơn Lâm trong giai đoạn 20042009

Nhìn chung khả năng thanh tốn hiện hành của công ty Sơn Lâm qua các năm
đều không khả quan. Giai đoạn 2004-2008 chỉ số này đã có biến động lên xuống nhưng
đều thấp hơn 2, cơng ty vẫn có khả năng gặp khó khăn trước những khoản nợ ngắn hạn
trong năm. Năm 2009 khả năng thanh toán hiện hành vọt lên mức 6.67, đây là hệ quả trực
tiếp của việc Sơn Lâm hạn chế vay mới, thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, bán bớt các
tài sản cố định và giảm đầu tư để tăng tiền mặt như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, chỉ số
này quá cao, đứng về phía doanh nghiệp, cũng thể hiện việc sử dụng tiền không hiệu quả,
tiền nhàn rỗi quá nhiều.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành chưa bộc lộ hết khả năng thanh tốn của
doanh nghiệp. Nếu tất cả các món nợ ngắn hạn được u cầu thanh tốn ngay thì khả
năng tài chính của doanh nghiệp có đáp ứng được khơng? Nghiên cứu khả năng thanh
toán nhanh sẽ trả lời được câu hỏi này


Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tiền, các khoản tương đương tiền, đầu tư tài chính

ngắn hạn và các khoản phải thu / Nợ ngắn hạn.
Đồ thị 6: Khả năng thanh tốn nhanh của cơng ty Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009

Như vậy khả năng thanh toán nhanh ở doanh nghiệp cũng thay đổi rất nhiều. Hệ số
khả năng thanh tốn nhanh thường biến động từ 0,5-1, do đó cơng ty Sơn Lâm khơng gặp
khó khăn trong việc thanh toán nhanh các khoản nợ trong các năm 2004, 2005, 2006,
2008 và 2009. Năm 2007 hệ số này rơi xuống 0.212, thấp hơn mức an tồn. Đây cũng là
năm có sự chênh lệch lớn nhất giữa hệ số thanh toán nhanh và thanh toán hiện hành (gần
380%), thể hiện tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào hàng tồn kho,
tính thanh khoản của hạng mục tài sản ngắn hạn của Sơn Lâm tương đối thấp. Còn lại,
trong năm 2009 vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay vốn lưu động thấp, hiệu quả sử dụng
vốn cũng không cao.
B Nhóm hệ số phản ánh cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư
Cơ cấu tài chính được xem như chính sách tài chính của doanh nghiệp, nó có vị trí
quan trọng trong việc điều hành các khoản nợ vay đề khuyếch đại lợi nhuận cho chủ sở
hữu.Phân tích cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư cho phép đánh giá rủi ro của việc đầu
tư dài hạn của doanh nghiệp. Việc phân tích cần xem xét các chỉ tiêu:
- Tỷ số nợ và tỷ suất đầu tư
Tỷ số nợ đo lường sự góp vốn của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Chủ nợ ưa
thích tỷ số nợ vừa phải, vì tỷ số nợ thấp, hệ số an tồn của chủ nợ cao, món nợ của họ


càng được bảo đảm. Ngược lại thì rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp được chuyển sang
chủ nợ gánh chịu một phần.
Tỷ số nợ = (Nợ phải trả) / (Tổng nguồn vốn ) x 100(%)
Ngược lại với tỷ số nợ là tỷ suất tự tài trợ =100(%) - Tỷ số nợ
- Tỷ suất đầu tư
Phản ánh vị trí quan trọng của tài sản cố định trong doanh nghiệp
Tỷ suất đầu tư = (TSCĐ và ĐT dài hạn) / (Tổng tài sản)
Tỷ suất đầu tư càng cao, mức độ quan trọng của tài sản cố định càng lớn

Áp dụng vào công ty Sơn Lâm, ta có:
Đồ thị 7: Diễn biến tỷ số nợ và tỷ suất đầu tư của công ty Sơn Lâm giai đoạn 20042009

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ độc lập hay phụ thuộc của doanh nghiệp trong kinh
doanh. Tỉ sơ nợ khoảng 50-60% là bình thường, thậm trí trong nhiều trường hợp tỷ số nợ
cao của doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt vì khi đó họ chỉ bỏ ra một lượng nhỏ vốn nhưng
lại sử dụng được lượng tài sản lớn, lợi nhuận được khuyếch đại. Ta thấy trong các năm
diễn biến tỷ số nợ và tỷ số đầu tư đều tuân theo một xu hướng đồng nhất, giảm nhẹ trong
giai đoạn 2004-2005, tăng trong 2 năm sau đó và giảm mạnh ở cuối kì nghiên cứu. Năm
2007 có tỷ số nợ cao nhất, đạt 75.9%, trong khi tỷ suất đầu tư trong năm đó cũng xấp xỉ
70%. Tuy nhiên, sau giai đoạn 2008-2009, tỷ suất đầu tư giảm mạnh, chỉ còn 20.73%, tỷ
số nợ cũng xuống mức 53.57%. Nhìn chung trong giai đoạn 2004-2008 tỷ số nợ và tỷ suất
đầu tư luôn ở mức gần tương đương nhau, đây là điều hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên năm


2009 tỷ suất đầu tư chưa bằng một sửa so với tỷ số nợ, ta có thể nghi ngờ doanh nghiệp
đang tìm cách chuyển nợ bằng việc vay mới tại một ngân hàng để thanh toán nợ cũ tại
một ngân hàng khác. Điều này là hồn tồn có khả năng như đã phân tích ở trên khi xét
tới số tiền vay kỉ lục của Sơn Lâm ở giai đoạn trước trong khi hiệu quả mà nó đem lại gần
như khơng có.
- Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định
Chỉ số này dùng để nghiên cứu mức độ trang bị tài sản cố định bằng nguồn vốn
của chủ sở hữu như thế nào. Điều đó cũng cho phép đánh giá về sự an tồn về tài chính
khi đầu tư mua sắm TSCĐ.
Tỷ suất tự tài trợ = (Nguồn vốn chủ sở hữu) / (TSCĐ và đầu tư dài hạn)
Một doanh nghiệp có tình hình tài chính vững mạnh thì tỷ suất này thường lớn hơn 1.
Vận dụng vào công ty Sơn Lâm ta có:
Bảng 2: Khả năng tự tài trợ tài sản cố định của công ty Sơn Lâm giai đoạn 20042009

Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố

định

2004

2005

2006

2007

2008

2009

1,008

1,131

0,368

0,352

0,573

2,23

Tỷ số tự tài trợ tài sản cố định của Sơn Lâm có xu hướng biến thiên ngược chiều
so với tỷ số nợ và tỷ suất đầu tư. Năm 2004, 2005 vẫn là 2 năm có kết quả tài chính tốt
nhất của công ty với tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định vừa đạt mức chấp nhận được. 3 năm
tiếp theo, Sơn Lâm đã sử dụng nhiều vốn vay hơn vào hoạt động sản xuất kinh doanh,

điều này kéo tỷ số tự tài trợ đi xuống một cách đáng kể. Hệ số tỷ suất tự tài trợ năm 2009
là 2,23 khơng đơn thuần có nghĩa cơng ty Sơn Lâm đã cố gắng tăng cao sự độc lập tới các
khoản đầu tư tài sản cố định và đầu tư dài hạn nhằm khơng phải huy động vốn từ bên
ngồi. Đây cịn là tác động một phần của việc Sơn Lâm đã giảm tỷ suất đầu tư xuống mức
kỷ lục, kéo theo giảm giá trị tài sản cố định trong khi lượng vốn chủ sở hữu khơgn thay
đổi.
C Nhóm tỷ số phản ánh khả năng hoạt động


- Vòng quay hàng tồn kho
Hàng tồn kho là tài sản dự trữ với mục đích đảm bảo cho quá trình kinh doanh
được tiến hành thường xuyên, liên tục và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Để tăng tốc độ
luân chuyển vốn lưu động thì từng giai đoạn mà vốn lưu động lưu lại phải được rút ngắn,
hàng tồn kho phải được dự trữ hợp lý. Nhằm giải quyết vấn đề nêu ra, chúng ta phải
nghiên cứu vòng quay hàng tồn kho.
Số vòng quay hàng tồn kho = (Trị giá vốn hàng xuất bán) / (Số dư bình quân hàng tồn
kho)
Số dư bình quân hàng tồn kho = [Hàng tồn kho (đầu kỳ + cuối kỳ)] / 2
Chỉ tiêu này cho biết bình quân trong kỳ hàng tồn kho quay được mấy vòng (lần). Chỉ tiêu
này càng lớn chứng tỏ tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh, số ngày hàng lưu
trong kho càng giảm và hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao và ngược lại.
Số ngày hàng lưu kho = (Số ngày trong kỳ) / (Số vòng quay hàng tồn kho)
- Số vòng quay các khoản phải thu
Giống như hàng tồn kho, các khoản phải thu là một bộ phận VLĐ lưu lại trong
giai đoạn thanh tốn. Nếu rút ngắn q trình này chẳng những tăng tốc độ luân chuyển
vốn lưu động mà còn giảm bớt được rủi ro trong khâu thanh tốn.
Số vịng quay các khoản phải thu = (Doanh thu thuần) / (Số dư bình qn các khoản phải
thu)
Trong đó:Số dư bình qn các khoản phải thu = [Số dư các khoản phải thu (đầu kỳ+cuối
kỳ)] / 2

Chỉ tiêu này cho biết tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt.Chỉ tiêu này
càng lớn chứng tỏ tiền thu được về quỹ càng nhanh, kỳ thu tiền càng ngắn và ngược lại.
Kỳ thu tiền bình quân = (Số ngày trong kỳ) / (Số vòng quay các khoản phải thu)
- Vòng luân chuyển vốn lưu động
Vốn lưu động (VLĐ) của doanh nghiệp luôn vận động qua các hình thái khác
nhau, vốn lưu động luân chuyển càng nhanh chứng tỏ việc sử dụng vốn ở doanh nghiệp
càng có hiệu quả. Số vịng ln chuyển vốn lưu động thể hiện trong kỳ vốn lưu động quay
được bao nhiêu vòng


Số vòng luân chuyển vốn lưu động = (Doanh thu thuần) / ( Số dư bình quân về vốn lưu
động)
Chỉ tiêu này cho biết bình quân trong kỳ VLĐ quay được mấy vịng. Số vịng ln chun
VLĐ càng cao thì tốc độ luân chuyển VLĐ càng nhanh, số ngày luân chuyển 1 vòng càng
ngắn và ngược lại.
Số ngày luân chuyển VLĐ (N) = (Số ngày trong kỳ) / (Số vòng luân chuyển VLĐ)
Vận dụng vào công ty Sơn Lâm ta có đồ thị sau:
Đồ thị 8: Diễn biến vịng quay hàng tồn kho, các khoản phải thu, luân chuyển vốn
lưu động của cơng ty Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009

Có thể nói cả ba chỉ số này của cơng ty Sơn Lâm đều biến động khơng có xu
hướng rõ ràng trong giai đoạn 2004-2009. Số vòng quay các khoản phải thu của Sơn Lâm
đạt mức cao nhất trong các năm 2007, 2008, rủi ro trong khâu thanh toán giảm rõ rệt
trong giai đoạn này. Đây là sự cải thiện rất lớn của Sơn Lâm nếu so sánh với năm liền
trước đó, chỉ số này chỉ ở mức 1.691. Số vòng quay hàng tồn kho của công ty cũng tăng
liên tục từ năm 2004 đến năm 2007. Đây là tín hiệu tốt, thể hiện tốc độ luân chuyển của
hàng tồn kho nhanh.Tuy nhiên, đến năm 2008, chỉ tiêu này đã bất ngờ giảm rất mạnh, về
mức 1.706 vòng trên năm, Sơn Lâm đã gặp khó khăn lớn trong việc tìm kiếm thị trường
đầu ra cho sản xuất, phịng marketing của cơng ty làm việc không hiệu quả. Năm 2007
cũng ghi nhận cả ba chỉ tiêu đều ở mức cao nhất trong kỳ nghiên cứu, tuy nhiên như phân

tích ở bảng kết quả kinh doanh, đây là năm doanh nghiệp chỉ có số lãi không đáng kể.


Một lần nữa ta thấy được sai lầm trong đầu tư đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới toàn bộ
hoạt động kinh doanh của Sơn Lâm. Trong giai đoạn 2008-2009 số vòng quay các khoản
phải thu của Sơn Lâm giảm mạnh, kết hợp với sự gia tăng trong số vòng quay hàng tồn
kho cho thấy Sơn Lâm đang tìm cách giải quyết nhanh lượng hàng tồn kho bằng cách
chấp nhận tăng thời gian thanh toán của khách hàng, điều này là hệ quả trực tiếp của các
bảng phân tích lãi lỗ, nguồn vốn và tài sản đã nêu ở trên.
- Hiệu suất sử dụng tài sản
Quá trình kinh doanh suy cho cùng là quá trình tìm kiếm lợi nhuận. Để đạt được
lợi nhuận tối đa trong phạm vi và điều kiện có thể, doanh nghiệp phải sử dụng triệt để các
loại tài sản trong quá trình kinh doanh để tiết kiệm vốn. Hiệu suất sử dụng tài sản sẽ cho
thấy hiệu quả sử dụng tài sản ở doanh nghiệp như thế nào.
Hiệu suất sử dụng tài sản = Doanh thu thuần / Giá trị tài sản bình qn
Trong đó:Giá trị tài sản bình quân = [Tài sản (đầu kỳ+cuối kỳ)] / 2
Chỉ tiêu này cho biết: bình quân 1 đồng tài sản tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra
bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng tài sản càng lớn thì hiệu quả sử dụng
tài sản càng cao và ngược lại.
Vận dụng vào công ty Sơn Lâm ta có:
Bảng 3: Hiệu suất sử dụng tài sản của công ty Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009

Hiệu suất sử dụng tài
sản

2005

2006

2007


2008

2009

0.689

0.497

0.673

0.222

0.538

Nhìn chung chỉ tiêu này của Sơn Lâm giao động quanh mức 0.5, cá biệt có năm 2008 con
số này là 0.222. Đây là một mức trung bình thấp, doanh nghiệp Sơn Lâm có tỉ lệ doanh
thu trên vốn khơng khả quan. Năm 2005 vẫn là năm kinh doanh tốt nhất của công ty với
hiệu suất sử dụng tài sản cao nhất trong cả kì nghiên cứu. Giai đoạn 2008-2009 có sự tăng
mạnh của chỉ số hiệu suất tài sản, đây là kết quả của việc Sơn Lâm thu hẹp sản xuất, giảm
đầu tư dẫn tới giảm tổng tài sản-nguồn vốn, bên cạnh đó Sơn Lâm cũng phải bán đi một
lượng lớn tài sản cố định khiến doanh thu tăng. Tuy nhiên điều này khơng có nghĩa năm
2009 cơng ty sử dụng tài sản tốt hơn năm 2008, thực chất như phân tích ở trên, Sơn Lâm


phải bán tài sản cố định với giá thấp, trong khi hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ,
gây lỗ lớn nhất trong lịch sử cơng ty. Trong khi đó, năm 2008 Sơn Lâm vẫn thu được lãi.
D Các chỉ số phản ánh khả năng sinh lời
Lợi nhuận là mục đích cuối cùng của q trình kinh doanh. Song nếu chỉ đánh giá
qua chỉ tiêu lợi nhuận thì nhiều khi kết luận về chất lượng kinh doanh có thể bị sai lầm

bởi có thể số lợi nhuận này chưa tương xứng với lượng vốn và chi phí bỏ ra, lượng tài sản
đã sử dụng. Vì vậy chúng ta phải đặt lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu, vốn
liếng mà doanh nghiệp đã huy động vào kinh doanh khi tiến hành phân tích khả năng sinh
lời của Sơn Lâm, thông qua 3 chỉ tiêu dưới đây:
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = (Lợi nhuận sau thuế) / (Doanh thu thuần)
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn = (Lợi nhuận sau thuế) (Giá trị tài sản bình quân)
Chỉ tiêu này cho biết bình quân 1 đồng vốn tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = (Lợi nhuận sau thuế) / (Vốn chủ sở hữu
bình quân)
Chỉ tiêu này cho biết bình quân 1 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra vào kinh doanh thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế..
Các chỉ tiêu trên càng lớn chứng tỏ khả năng sinh lời càng cao và ngược lại.
Vận dụng vào công ty Sơn Lâm ta có bảng sau:

Bảng 4: Các chỉ tiêu lợi nhuận của công ty Sơn Lâm trong giai đoạn 2004-2005


2004

2005

2006

2007


2008

2009

Tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu

0.08

0.119

-0.016

0.042

0.009

-0.017

Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn

0.068

0.082

-0.0072

0.0017


0.002

-0.0115

Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu

0.1266

0.1493

-0.0279

0.0055

0.007

-0.025

Vẫn cùng một xu hướng đã nhận định ở trên, năm 2004 và 2005 là hai năm hoạt
động tốt nhất của công ty trong thời kỳ nghiên cứu. Cả ba chỉ số lợi nhuận trên doanh thu,
trên vốn và trên vốn chủ sở hữu đều đạt mức cao nhất trong thời kỳ này, lần lượt là 0.08,
0.068, 0.1266 trong năm 2004 và 0.119, 0.082, 0.1493 trong năm 2005. Hai năm 2006 và
2009 cũng là khoảng thời gian đầy khó khăn của cơng ty với các chỉ số trên đều nhỏ hơn
0, tương ứng với làm ăn thua lỗ. Giai đoạn 2007-2008 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
giảm, trong khi hai chỉ tiêu còn lại đều tăng. Đây lại một lần nữa giải thích cho xu thế
giảm trong tổng tài sản-vốn doanh nghiệp đang nắm giữ. Doanh nghiệp bán nhanh tài sản
để thanh toán nợ cũ khiến lợi nhuận không cao, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu chỉ còn
0.009, thấp nhất trong tất cả các năm có lãi. Tuy nhiên, vì tổng tài sản giảm nên tỷ suất lợi
nhuận trên vốn và vốn chủ sở hữu giảm, điều này làm hai tỷ suất cịn lại tăng. Nhìn một

cách tổng thể, tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu luôn lớn hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn,
mối quan hệ giữa chúng sẽ phụ thuộc vào cơ cấu vốn của công ty, năm 2004 và 2005 là
năm có sự chệch lệch lớn nhất giữa 2 chỉ tiêu này, lần lượt 5.3% và 5.49%. Các năm về
sau với sự tham gia của lượng vốn vay này càng lớn, khoảng cách này đã bị thu hẹp lại,
năm 2008 chỉ chênh lệch 28.5%.
Nhìn chung phần lớn các chỉ số tài chính của cơng ty cổ phần phân bón Sơn
Lâm đều khơng khả quan, đây chắc chắn không phải là những con số mà một nhà đâu tư
mong chờ. Chúng ta sẽ tổng kết lại toàn bộ tình hình tài chính của cơng ty Sơn Lâm giai
đoạn 2004-2009 dưới đây.


2.3 Đánh giá chung về tình hình tài chính của công ty Sơn Lâm giai đoạn 2004-2009
2.3.1 Thành tựu đạt được và nguyên nhân
Trong suốt giai đoạn 2004-2009 công ty Sơn Lâm đã trải qua nhiều biến chuyển,
thể hiện trên bảng báo cáo tài chính tương ứng. Mặc dù đã hiểu được một cách tổng qt
tình hình tài chính của Sơn Lâm là không tốt, tuy nhiên chúng ta vẫn phải xem xét trên
khía cạnh một doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ với tác phong làm việc không chuyên
vừa chập chững cổ phần hoá để thấy được một số chuyển biến tích cưc. Một cách chung
nhất, Sơn Lâm đã biết thu lại các hoạt động kinh doanh dựa nhiều trên vốn vay ngân hàng
để đảm bảo an toàn cho tình hình tài chính của cơng ty. Trong khi rất nhiều các doanh
nghiệp nhà nước khác mặc dù làm ăn thua lỗ nhưng vẫn khai lãi để tiếp tục sản xuất kinh
doanh và tiếp tục vay vốn ngân hàng. Đây là điều rất nguy hiểm, gây tổn hại cho nhà
nước và xã hội hàng trăm tỷ đồng. Giai đoạn 2006-2007, như đã phân tích, số lượng vốn
vay của Sơn Lâm tăng vọt, nhà xưởng, cơ sở sản xuất cũng theo đó mà phát triển, tuy
nhiên đây cũng là thời điểm công ty làm ăn thất bát, năm 2006 chịu lỗ trong khi năm 2007
lợi nhuận không đáng kể. Giám đốc Sơn Lâm và các thành viên trong hội đồng quản trị đã
lập tức nhận ra nhiều khó khăn mà cơng ty đang gặp phải và nhiều chính sách được đưa
ra, trong đó nhìn chung bao gồm hai hướng : thứ nhất hạn chế vay mới các khoản vay
trung hạn và dài hạn, nỗ lực giảm tối thiểu các khoản vay ngắn hạn, thứ hai chuyển cơ sở
sản xuất về địa điểm mới với chi phí rẻ hơn, nằm trên tuyến đường thuận tiện hơn, bán đi

cơ sở sản xuất cũ trong thời điểm sốt đất nửa cuối năm 2009 để thu tiền về trang trải các
khoản vay ngân hàng, đẩy mạnh giảm hàng tồn kho, chuyển sang tiền mặt. Điều này đã
về căn bản giúp Sơn Lâm có cơ cấu tự đầu tư tài sản cố định lớn, khả năng thanh tốn
nhanh và thanh tốn hiện hành cao, cơng ty thốt khỏi bờ vực phá sản. Về bản chất, đó
chính là xuất phát từ tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo cơng ty đối với tồn thể nhân
viên, người làm thuê, với nhà nước.
2.3.2 Hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Tuy nhiên, xét trên quan điểm hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng sinh lời,
các hoạt động mở rộng giai đoạn 2006-2007 và thu hẹp sản xuất giai đoạn 2008-2009 đều
để lại nhiều hậu quả lên tình hình tài chính của cơng ty Sơn Lâm.


Đầu tiên, khả năng thanh toán hiện hành của doanh nghiệp ở mức kém, ngoại trừ
năm 2009, trung bình trong giai đoạn 2004-2008 chỉ ở mức 1.02. Công ty Sơn Lâm đã
gặp khó khăn khi phải đối mặt với những nhu cầu tài chính phát sinh trong q trình sản
xuất kinh doanh. Nguyên nhân là do các khoản phải thu của doanh nghiệp tương đối cao
so với cơ cấu vốn. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng sau:
Đồ thị 9: Thay đổi trong các khoản phải thu của khách hàng của công ty Sơn Lâm
giai đoạn 2004-2009

Đối tượng khách hàng của doanh nghiệp, người nông dân, đa số không trả đầy đủ số tiền
như đã cam kết ban đầu. Bà Trần Thị Thu Hương, trưởng phòng kế tốn của cơng ty Sơn
Lâm cho biết ‘năm nào cơng ty cũng kết toán trong sổ nội bộ số tiền người dân nợ khơng
thanh tốn lên đến hàng tỉ đồng, trong đó số tiền khơng địi được cũng phải vài trăm
triệu’. Số tiền cịn lại người dân cũng khơng thanh toán ngay mà chia làm nhiều lần, khiến
nợ trong dân của doanh nghiệp luôn ở mức cao. Bản chất sản phẩm phân bón và khách
hàng là người nơng dân đã và đang ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động sản xuất của công
ty. Cụ thể, năm 2006, 2007 nông dân được mùa, họ sẵn sàng chi trả số tiền mua phân bón
đúng hạn hơn cho cơng ty. Trong khi đó, năm 2004, 2005 mặc dù công ty hoạt động hiệu
quả nhưng nhiều khách hàng xin khất tiền hàng, và công ty vì muốn giữ mối làm ăn lâu

dài nên đã bắt buộc phải nhân nghượng. Số vòng quay các khoản phải thu cũng theo đó
mà bị ảnh hưởng. Cá biệt, chỉ số này trong năm 2009 chỉ ở mức 1.19, điều này có nghĩa
kỳ thu tiền bình qn của doanh nghiệp lên tới 301 ngày, cao hơn rất nhiều so với các lĩnh


×