Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Báo mạng điện tử với việc quảng bá hình ảnh việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 119 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong một thế giới cạnh tranh và nhiều biến đổi như hiện nay, nhiều
quốc gia đang nỗ lực thu hút du khách và nhà đầu tư nước ngoài với kỳ vọng
tăng trưởng kinh tế vượt bậc và bền vững. Một thông điệp định vị rõ ràng hay
một hình ảnh tích cực sẽ giúp quốc gia đó chiếm một vị trí trong tâm tưởng
người nước ngoài khi họ quyết định đầu tư, du lịch hay mua sản phẩm. Không
chỉ vậy, ngay với người dân ở đất nước của mình, việc nhận thức sâu sắc hơn
vị trí, tầm quan trọng và những giá trị văn hóa, kinh tế, xã hội... sẽ càng làm
cho họ tự hào hơn, ý thức hơn việc bảo vệ chủ quyền, bảo vệ những di sản,
những thành tựu mà dân tộc mình đã dày cơng xây đắp giữ gìn.
Lâu nay, hình ảnh mà thế giới biết đến Việt Nam là hình ảnh của một
dân tộc dám đứng lên chiến đấu và chiến thắng hai đế quốc mạnh hơn mình
gấp bội. Cịn một Việt Nam khác, một Việt Nam với những phong cảnh thiên
nhiên kì thú, với những phong tục tập quán đặc sắc, với những con người giàu
lòng mến khách thân thiện, một Việt Nam với thị trường tiềm năng, với nguồn
nhân cơng trẻ và dồi dào... thì chưa hẳn đã nhiều người biết đến. Quảng bá
hình ảnh Việt Nam trong cộng đồng và với bạn bè thế giới, để thế giới biết
đến Việt Nam, tìm đến với Việt Nam là cơ hội mở ra những hướng đi mới là
tiền đề cho đất nước phát triển.
Trong thời gian qua Việt Nam đã có khá nhiều nỗ lực trong việc tạo
dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra khu vực và thế giới. Những thành tựu
của sự nghiệp Đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong cơng
tác đối ngoại đã góp phần làm cho các nước trên thế giới biết đến Việt Nam
như một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, chính trị ổn định, với lực
lượng lao động trẻ, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh. Phong tục tập quán,
danh lam thắng cảnh, ẩm thực Việt Nam đang thu hút sự chú ý của bạn bè xa
gần, kéo họ đến với Việt Nam và yêu mến Việt Nam.



2
Mặc dù vậy, trên thực tế, hoạt động quảng bá hình ảnh Việt Nam trên
các phương tiện thơng tin đại chúng còn nhiều hạn chế và chưa được quan
tâm đúng mức. Theo một nghiên cứu mới đây của Media Tenor - cơ quan
nghiên cứu truyền thơng quốc tế có uy tín tại Đức thì Việt Nam xuất hiện rất
thưa thớt trên các kênh truyền hình thế giới năm 2011. Media Tenor cho rằng
nếu có “sự cố” xảy ra, sự thiếu vắng thơng tin về mình có thể đẩy một nước
vào thế bất lợi.
Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng khác, báo mạng điện tử
với những thế mạnh tích cực của mình đã tham gia vào việc tuyên truyền,
quảng bá hình ảnh Việt Nam với người Việt Nam và trên trường quốc tế
nhưng công tác tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả. Để hình ảnh Việt Nam
đẹp hơn, phong phú hơn đối với người Việt, những thông tin về Việt Nam và
hình ảnh một Việt Nam hịa bình, thân thiện, tiềm năng đến với bạn bè thế
giới là sự trăn trở của nhiều người và quan trọng hơn, đây phải trở thành một
nhiệm vụ của những người làm truyền thông luôn hướng tới.
Đề tài luận văn “Báo mạng điện tử với việc quảng bá hình ảnh Việt
Nam” xuất phát từ mong muốn nâng cao hiệu quả và chất lượng thơng tin
quảng bá hình ảnh Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về thương hiệu hay thương hiệu điểm đến là một trong
những nội dung đã được các chuyên gia về thương hiệu tìm tịi nghiên cứu rất
nhiều trong thập niên vừa qua. Nhiều báo cáo, đánh giá về chỉ số thương hiệu
cạnh tranh giữa các quốc gia được đưa ra như bảng xếp hạng thương hiệu
quốc gia CPI (Country Brand Index) do Tổ chức tư vấn thương hiệu
Futurebrand tại Mỹ tiến hành, hay bảng xếp hạng tính cạnh tranh về du lịch,
các điểm đến hàng đầu thế giới do Tourism Review thực hiện hay bảng xếp
hạng những nơi đáng đầu tư nhất thế giới do CNBC bình chọn…



3
- Về sách:
+ Cuốn sách “Brand Management” - “Quản trị thương hiệu” của
Patricia F. Nicolino (2010), Nxb Lao động xã hội, giới thiệu cho người đọc
những vấn đề cốt lõi trong xây dựng thương hiệu; tầm nhìn và giá trị cốt lõi
của thương hiệu, tìm chiến lược Internet cho thương hiệu của mình. Cuốn
sách được coi là sổ tay, sách gối đầu giường cho các chủ doanh nghiệp cũng
như những người làm công tác xây dựng thương hiệu.
+ “Asian Brand Strategy” - “Chiến lược thương hiệu Châu Á” của
Martin Roll (2010), Nxb Lao động xã hội, đã cung cấp kiến thức lý thuyết và
chiến lược toàn diện của các thương hiệu lớn ở Châu Á, đi kèm là các câu
chuyện thành công và thất bại của Singapore Airlines, Shiseido, Samsung, Jet
Airways, Jim Thompson, Li - Ning, BritishIndia.
- Về đề tài khoa học:
Đề tài khoa học cấp Bộ: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du
lịch quốc tế trọng điểm của TS. Đỗ Thanh Hoa năm 2005 - 2006. Đề tài đã đề
xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt
Nam đến năm 2010 tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm nhằm thu
hút thị phần khách du lịch từ thị trường này. Ngồi ra cịn có nhiều hội thảo
chun đề về tiếp thị hình ảnh Việt Nam và tiếp thị du lịch trực tuyến...
- Về luận văn, luận án:
+ Văn Công Toản (2001), “Vấn đề văn hóa - du lịch trên sóng truyền
hình Huế thời kỳ đổi mới”, luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và
Tuyên. Luận văn đã đánh giá đúng thực trạng của công tác tuyên truyền,
quảng bá về phát triển du lịch của báo chí, đồng thời đề cập đến vấn đề khai
thác tài nguyên du lịch thông qua sóng truyền hình Huế, kiến nghị một số giải
pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền trong công tác này trên các phương tiện
truyền thông của địa phương giàu tiềm năng du lịch như Huế.



4
+ Lê Thuý Hằng (2009), “Báo chí với việc xây dựng và quảng bá thuơng
hiệu Việt”, luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Luận
văn đã nghiên cứu thực trạng nội dung và hình thức tác phẩm báo chí viết về đề
tài xây dựng và quảng bá thương hiệu Việt qua khảo sát một số sản phẩm báo chí
trên báo in và báo mạng điện tử; đồng thời chỉ ra đuợc những ưu điểm và hạn
chế của báo chí trong q trình thơng tin về vấn đề xây dựng và quảng bá thuơng
hiệu Việt trong giai đoạn hiện nay.
+ Nguyễn Tiến Vụ (2010), “Báo chí Bắc Ninh tuyên truyền, quảng bá
du lịch của tỉnh hiện nay”, luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Luận văn đã đánh giá thực trạng công tác thông tin, tuyên
truyền, quảng bá phát triển du lịch của báo chí Bắc Ninh, chỉ ra những thành
công, hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động của báo chí Bắc Ninh trong việc thông tin, tuyên truyền, quảng bá phát
triển du lịch địa phương.
Bên cạnh đó, qua q trình tìm hiểu, tác giả cịn tham khảo thêm một số
trang web cung cấp các vấn đề liên quan đến việc quảng bá hình ảnh quốc gia như:
www.dangkythuonghieu.vn, www.thietkethuonghieu.net, www.vnbrand.net...
Nghiên cứu cơng tác quảng bá hình ảnh đất nước nói chung khơng cịn
là một đề tài xa lạ. Quảng bá hình ảnh đất nước cũng đã xuất hiện trên nhiều
tài liệu nghiên cứu, bài viết của các báo, tạp chí ở Trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào trực tiếp nghiên cứu về
việc thơng tin quảng bá hình ảnh Việt Nam trên báo mạng điện tử, coi đó như
cơng cụ, phương tiện để quảng bá hình ảnh đất nước từ góc độ nghiên cứu của
báo mạng điện tử.
Trước tình hình nghiên cứu như vậy, tác giả luận văn mong muốn qua
đề tài này sẽ góp thêm tiếng nói vào lý luận chung về vấn đề báo mạng điện
tử tham gia thông tin quảng bá hình ảnh đất nước. Đồng thời, qua luận văn sẽ
đưa ra cái nhìn mới, tồn diện, khoa học về cách thức thơng tin quảng bá hình

ảnh Việt Nam trên báo mạng điện tử.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hình thành, hệ thống hóa báo mạng điện tử, luận văn đã
khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng thơng tin quảng bá hình ảnh Việt Nam
trên báo mạng điện tử hiện nay, góp phần hình thành cơ sở khoa học và thực
tiễn cho việc đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả báo
mạng điện tử với việc quảng bá hình ảnh Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã đề ra, trong phạm vi đề tài này, tác giả xác
định những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ các khái niệm, phạm trù nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận
liên quan đến đề tài luận văn.
- Khảo sát nội dung, hình thức, đánh giá thực trạng thơng tin quảng bá
hình ảnh Việt Nam trên 3 tờ báo mạng điện tử đó là: Quehuongonline.vn,
VnExpress.net, VOVNews.vn.
- Đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả báo mạng điện tử với việc quảng bá hình ảnh Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là báo mạng điện tử với việc quảng bá
hình ảnh Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi 3 tờ báo mạng điện tử tiêu biểu ở
Việt Nam đó là: Quehuongonline.vn, VnExpress.net và VOVNews.vn. Thời
gian khảo sát của đề tài từ tháng 6 năm 2011 đến hết tháng 6 năm 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở phương pháp luận
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về báo chí, báo mạng điện tử và vấn đề quảng bá
hình ảnh Việt Nam.


6
- Dựa trên cơ sở lý luận báo chí và truyền thông hiện đại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: dùng để thu thập, nghiên cứu, kế
thừa những tư liệu đã có nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích đối với các tác phẩm thơng
tin quảng bá hình ảnh Việt Nam trên báo mạng điện tử nhằm phân tích thực
trạng. Từ đó tìm ra những thành cơng và hạn chế trong thơng tin quảng bá
hình ảnh Việt Nam trên báo mạng điện tử.
- Phương pháp điều tra xã hội học: dùng để lấy ý kiến của 400 độc giả
(bao gồm: người Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước
ngoài) về thực trạng 3 tờ báo mạng được khảo sát tham gia thông tin quảng bá
hình ảnh Việt Nam.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: dùng để phỏng vấn sâu một số nhà báo,
phóng viên của Quehuongonline.vn, VnExpress.net, VOVNews.vn và một số
báo khác nhằm thu thập ý kiến về thơng tin quảng bá hình ảnh Việt Nam trên
trên báo chí hiện nay.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn đề cập tới những ưu nhược điểm của báo mạng điện tử với
việc quảng bá hình ảnh Việt Nam; những tiêu chí đánh giá và kinh nghiệm
quảng bá hình ảnh quốc gia của một số nước, đồng thời đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của báo mạng điện tử với việc quảng bá hình
ảnh Việt Nam.

6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan báo chí nói chung và
các cơ quan báo mạng điện tử nói riêng. Những giải pháp có thể giúp cho các
nhà báo, phóng viên báo mạng điện tử quan tâm nâng cao chất lượng thông
tin các bài viết về đề tài quảng bá hình ảnh Việt Nam. Mặt khác, luận văn có


7
thể giúp cho những người quan tâm có thơng tin và kiến thức về quảng bá
hình ảnh Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.


8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THÔNG TIN QUẢNG BÁ
HÌNH ẢNH VIỆT NAM TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm chung về quảng bá hình ảnh quốc gia
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Quảng bá
Cho đến nay thuật ngữ quảng bá đã được nhắc đến rất nhiều trên các
phương tiện truyền thông đại chúng, trong các bài báo, các tài liệu nghiên
cứu, gắn liền với các vấn đề như quảng bá hình ảnh, quảng bá thương hiệu.
Quảng bá là một từ Hán Việt được ghép từ chữ “quảng” có nghĩa là
rộng lớn và từ “bá” có nghĩa là làm lan rộng. Vì vậy, ta có thể hiểu quảng bá
có nghĩa là tuyên truyền rộng rãi.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: quảng bá là “phổ biến rộng rãi bằng các
phương tiện thông tin” [46, tr.802].

Quảng bá cũng được hiểu là “Những hoạt động nhằm tạo ra hoặc thúc
đẩy lợi ích, lợi nhuận cho một cá nhân, một sản phẩm, một tổ chức” [20, tr.34].
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, quảng bá là hoạt động truyền
bá rộng rãi hình ảnh của một cá nhân, một tổ chức, một quốc gia tới một đối
tượng nào đó nhằm làm cho đối tượng hiểu rõ hơn về cá nhân, tổ chức, quốc
gia đó nhằm đạt được một mục đích cụ thể mà chủ thể quảng bá mong muốn.
1.1.1.2. Hình ảnh, hình ảnh quốc gia
- Hình ảnh
Thuật ngữ hình ảnh có nguồn gốc từ tiếng latinh “Imago” và có quan
hệ mật thiết với một từ latinh khác là “Imatari” - dùng để chỉ sự mơ phỏng,
phỏng theo. Hình ảnh là khoa học và nghệ thuật mơ phỏng hoặc mơ tả hình
dáng bên ngồi của một đối tượng hoặc con người. Đó là những hình dung
về con người, đồ vật, tổ chức hay đất nước được hình thành trong nhận


9
thức công chúng với sự giúp đỡ của quan hệ cơng chúng, quảng cáo hoặc
tun truyền.
- Hình ảnh quốc gia
Mỗi quốc gia đều có những hình ảnh vượt qua thời gian đến với những
quốc gia khác nhau ở mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít. Điều đó có ý nghĩa rất
lớn trong việc tác động đến nhận thức của cộng đồng quốc tế về đất nước, tạo
ra sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo cơ hội cho các nước giao lưu hợp tác trên
nhiều lĩnh vực để cùng có lợi và phát triển. Với ý nghĩa đó, tạo dựng hình ảnh
quốc gia là một việc làm ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt là trong xu thế
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.
Tuy nhiên, có khá nhiều quan niệm về hình ảnh quốc gia:
Trong cuốn “Hình ảnh quốc tế của nước Nga”, tác giả Galumov. E. A.
định nghĩa:
Hình ảnh quốc gia là tập hợp các đặc điểm có liên quan với nhau

được hình thành trong quá trình phát triển của hệ thống nhà nước,
được thể hiện thông qua các khuynh hướng chính trị, kinh tế, xã
hội, cộng đồng và các q trình khác trong nước. Đây chính là uy
thế, vị thế của quốc gia đang có hoặc sẽ có được trong nhận thức
của cộng đồng thế giới [14, tr.23-25].
Ông Hoàng Tuấn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn
hóa - Thể thao và Du lịch phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 26:
Hình ảnh quốc gia là những hình ảnh liên tưởng của người nước
ngồi về quốc gia đó về chính sách kinh tế, chính trị, đầu tư, đặc
tính sản phẩm, bản sắc văn hóa và tính cách con người… của đất
nước đó. Vì vậy, Việt Nam cần thiết phải có một chiến lược tạo dựng
và quảng bá hình ảnh quốc gia để định hướng các hoạt động. Việc
làm này thường mất khá nhiều thời gian, đòi hỏi sự bền bỉ và sáng
tạo; đặc biệt phải khai thác thật đúng về thế mạnh và tính độc đáo


10
của đất nước ta. Một hình ảnh quốc gia tích cực về Việt Nam sẽ làm
cho bạn bè thêm yêu Việt Nam - và chính đó sẽ là một lá chắn bảo
vệ đất nước Việt Nam.
Có tác giả xem xét khái niệm hình ảnh quốc gia theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp:
Nói theo nghĩa hẹp thì hình ảnh quốc gia thể hiện ở những lĩnh vực
nổi trội của đất nước mà khi nhắc đến lĩnh vực ấy người ta dễ dàng
liên tưởng đến quốc gia đó. Cịn theo nghĩa rộng thì hình ảnh quốc
gia là một bức tranh tổng thể của một quốc gia với tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội nước đó như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, lịch sử, khoa học, nghệ thuật, thể thao, y tế, giáo dục… Hình
ảnh quốc gia được tạo dựng từ hình ảnh đặc sắc trên mỗi lĩnh vực
cụ thể đó [36].

Đây là cách hiểu rõ ràng và cụ thể, hình ảnh quốc gia khơng phải là bất
biến mà nó sẽ biến đổi theo sự phát triển của đất nước. Việt Nam được thế
giới biết đến là một nước anh hùng trong thời kỳ chiến tranh. Trong xây dựng
kinh tế, Việt Nam được coi là một quốc gia năng động, đi lên từ nghèo khó
với sự tăng trưởng đáng ngạc nhiên. Việt Nam là điểm đến an toàn và hấp dẫn
cho du khách trên thế giới. Tất cả những hình ảnh đó về Việt Nam sẽ hỗ trợ và
làm tăng lịng tin của khách hàng vào hàng hố Việt Nam. Vì vậy, mỗi thời kỳ
và giai đoạn phát triển của đất nước cần có chiến lược quảng bá và tạo dựng
hình ảnh quốc gia riêng và phù hợp.
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá hình ảnh quốc gia
Chỉ số thương hiệu quốc gia Anholt (Anhol Nation Brands Index) là
bảng phân tích và xếp hạng thương hiệu các quốc gia trên thế giới. Hàng quý,
Anholt đều tiến hành thăm dò ý kiến 25.000 người về các khía cạnh văn hóa,
chính trị, thương mại, tài sản cá nhân, tiềm năng đầu tư và khả năng thu hút
du lịch trên phạm vi 35 nước phát triển và đang phát triển. Các kết quả điều


11
tra là cơ sở để xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá độ mạnh của thương
hiệu quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
Chỉ số thương hiệu quốc gia cho phép đánh giá độ mạnh và mức độ hấp
dẫn của hình ảnh một quốc gia và cho biết người tiêu dùng thế giới đánh giá
như thế nào về đặc trưng của thương hiệu đó.
Hệ thống tiêu chí đánh giá thương hiệu quốc gia của Anholt căn cứ trên 6
giao diện truyền thông cấu thành thương hiệu quốc gia (the national branding
hexagon), được thể hiện bằng hình lục giác với 6 đỉnh gồm các yếu tố:
Đầu tư, nhập cư
Du lịch

Văn hóa

Hình ảnh quốc gia
Con người

Xuất khẩu

Chính phủ

Mơ hình 1.1. Các yếu tố đánh giá hình ảnh quốc gia
Du lịch: Là tiêu chí dễ nhận biết nhất của thương hiệu quốc gia. Một
quốc gia có thuơng hiệu tốt thường là quốc gia có nền du lịch phát triển mạnh
và các dịch vụ du lịch phù hợp. Trong việc quảng bá hình ảnh quốc gia, du
lịch đóng góp vai trị rất lớn và có ý nghĩa quyết định đến thành cơng và hiệu
quả của chương trình này bởi thơng qua các sản phẩm du lịch có thể tạo cho
du khách những hình ảnh trực quan nhất, sinh động nhất, phản ánh rõ nhất về
đất nước, con người, văn hóa, lịch sử… nơi họ đến du lịch. Vì thế, để làm nổi
bật hình ảnh quốc gia, mỗi nuớc đều phải chú trọng tối đa cho công tác quảng


12
bá, thúc đẩy du lịch, khơi dậy tiềm năng du lịch cũng như tạo uy tín cho
thuơng hiệu du lịch mà họ tạo dựng.
Đầu tư và nhập cư: Xây dựng được hình ảnh quốc gia tốt đẹp sẽ giúp cho
quốc gia đó tạo dựng được lịng tin, sự tơn trọng không chỉ cho công chúng các
nước trên thế giới, với khách du lịch mà còn bao gồm cả những nhà đầu tư,
những doanh nhân đang tìm kiếm mơi trường làm ăn. Đầu tư là tính đến vấn đề
lợi ích và mơi trường đầu tư với ít rủi ro nhất ln là lựa chọn ưu tiên của bất cứ
nhà đầu tư nào. Một đất nước có thương hiệu quốc gia mạnh mẽ sẽ thu hút được
nhiều hoạt động đầu tư và lượng người đến sinh sống và làm việc. Mỹ, Anh,
Australia là các quốc gia có tỉ lệ người nhập cư cao trên thế giới. Thực tế này có
được là do các nước này có nền kinh tế phát triển mạnh, xã hội ổn định, dân chủ

và môi trường sống thuận tiện. Vì thế tiêu chí thu hút đầu tư và tỉ lệ nhập cư góp
phần khơng nhỏ và giá trị cho việc nhận diện hình ảnh quốc gia.
Xuất khẩu: Cho thấy khả năng xuất khẩu những sản phẩm mang thương
hiệu của chính quốc gia đó chứ khơng phải là kim ngạch xuất khẩu của những
hàng hóa gia cơng hay lắp ráp. Khi các sản phẩm, dịch vụ ngày càng được
chuẩn hóa giá trị cao hơn, những nhà kinh doanh thường hướng tới việc
chuyển hướng tới hình ảnh quốc gia để phân biệt thương hiệu hàng hóa của
họ. Nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa hay cụm từ “Made in…” từ đó ngày
càng trở thành yếu tố quan trọng cho sự đánh giá sản phẩm bên cạnh yếu tố về
giá cả, nhãn hàng, bao bì và cơng ty sản xuất. Ví dụ như các sản phẩm dán má
“Made in Germany”, “Made in France” hay “Made in Japan” thường được
cho là những sản phẩm có chất lượng cao, điều đó một phần nhờ vào danh
tiếng của các quốc gia đó tạo dựng trong việc sản xuất và xuất khẩu.
Hình ảnh quốc gia vì thế ngày càng trở nên quan trọng trong việc gia
tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa của nước đó khi gia nhập vào thị trường thế
giới. Khi những thước đo về chất lượng, giá cả và hình thức các sản phẩm đã
tương đương nhau thì nguồn gốc xuất xứ sẽ tạo nên sức cạnh tranh vô song


13
cho sản phẩm đó. Một khi các sản phẩm của một quốc gia có được chỗ đứng
và sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, hoạt động xuất khẩu của quốc gia
đó tăng cao là điều dễ hiểu.
Con người: Chỉ số này sẽ cho biết mức độ cởi mở và thân thiện của một
quốc gia. Đồng thời chỉ số này cịn đo trình độ học vấn, khả năng giao tiếp và
các chỉ số khác. Công dân của mỗi nước đều mang trong mình tinh thần tự
hào dân tộc sâu sắc. Tinh thần đó sẽ được nâng lên gấp bội khi hình ảnh đất
nước họ đang mang quốc tịch được đề cao và tôn trọng so với các nước khác.
Yếu tố con người còn nêu lên vai trò của cộng đồng trong việc xây dựng và
quảng bá hình ảnh quốc gia.

Văn hóa: Để làm rõ tiêu chí này, Anholt sẽ đặt ra các câu hỏi đánh giá nhận
thức của người dân về di sản văn hóa quốc gia cũng như những đánh giá của họ
đối với văn hóa đương đại như phim ảnh, âm nhạc, hội họa, văn chương…
Chính phủ: Theo tiêu chí này, những người được điều tra sẽ cho biết họ
đánh giá như thế nào về năng lực điều hành và mức độ cơng bằng của chính
phủ, qua đó cho thấy mức độ tin cậy của người dân đối với chính phủ trong
việc ra các quyết định bảo vệ và gìn giữ hịa bình, gìn giữ mơi trường, xóa đói
giảm nghèo, các thể chế dân chủ… [28].
Trong bảng xếp hạng thương hiệu quốc gia do Anholt công bố năm
2011, Mỹ được đánh giá là nước có thương hiệu quốc gia mạnh nhất, kế đến
là Đức, Anh, Pháp và Nhật. Nhật Bản là quốc gia duy nhất ở khu vực châu Á
được lọt vào 10 bảng xếp hạng thương hiệu. Trong khu vực Đông Nam Á,
Singapore, Malaysia và Indonesia đã lọt vào danh sách xếp hạng này với thứ
tự lần lượt là 27, 35 và 38. Trung Quốc hiện xếp thứ 20 trong danh sách này.
1.1.3. Bài học kinh nghiệm về thơng tin quảng bá hình ảnh quốc gia
trên phương tiện truyền thông của một số nước trên thế giới
- Kinh nghiệm tạo dựng hình ảnh quốc gia của Mỹ
Nước Mỹ không chỉ là cường quốc mạnh về kinh tế, khoa học cơng
nghệ mà cịn là cường quốc có lực lượng truyền thông đại chúng hùng mạnh


14
cả về báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử, có đội quân làm báo lớn nhất thế
giới, có tay nghề cao, phương tiện kỹ thuật phục vụ tác nghiệp hiện đại, chất
lượng cao... Cơng nghiệp báo chí ở Mỹ chiếm 2% tổng sản phẩm công nghiệp.
Một số tập đồn truyền thơng Mỹ muốn độc quyền kinh doanh thơng tin
không chỉ trong nước Mỹ mà vươn sang cả các châu lục khác. Đây là một
biểu hiện lớn của khuynh hướng chính trị - xã hội cực đoan và chủ nghĩa
thương mại. Họ muốn thơng tin chỉ cịn là “những cuộc độc thoại của quyền
lực” và các khách hàng bị tác động mạnh bởi những “giá trị” - tin tức mà các

tập đồn đó cung cấp. Khách hàng của cơng nghiệp thơng tin báo chí sẽ trở
thành người thụ động; trong bối cảnh thế giới có xu hướng tồn cầu hóa thì họ
vẫn phải chịu thân phận bị động đối với việc lựa chọn thơng tin. Đó cũng là
thách thức đặt ra cho các quốc gia khác, nhất là các nước chậm phát triển.
Truyền thông đại chúng Mỹ sẽ vẫn duy trì các chiến dịch quảng cáo
mạnh mẽ cho chủ nghĩa tiêu thụ, điều đó có thể làm cho tâm lý tiêu thụ trở thành
tâm lý phổ biến trong xã hội. Hậu quả là làm cho con người bị lệ thuộc đến mức
nơ lệ vào hàng hóa. Vì chạy theo lợi nhuận thuần tuý, nhiều ấn phẩm báo chí đã
đi ngược lại những giá trị chung, về thẩm mỹ, phong tục, văn hóa Mỹ.
Một nét lớn nữa của báo mạng điện tử Mỹ là sự xâm nhập và ứng dụng
ngày càng nhiều của yếu tố khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới đối với báo
mạng điện tử. Xu hướng xây dựng một thế giới trong đó ti vi, điện thoại và
máy điện tốn có thể kết hợp với nhau thành loại ti vi tương tác (interactive
televison) đã xuất hiện, cho phép người xem có thể đưa ra các yêu cầu theo
nhu cầu thơng tin của mình.
Ở mức độ nào đó, đời sống chính trị ln thơng qua các diễn đàn thơng
tin - báo chí để cơng chúng được tham gia cơng khai, dân chủ ngồi các đợt
thăm dị dư luận về các vấn đề cơng cộng, về các chính khách trên truyền
thông đại chúng. Ngày nay, công chúng muốn thơng qua thơng tin của báo
mạng điện tử để có thể tham gia trực tiếp, hiệu quả vào đời sống cộng đồng.


15
Bởi chính đời sống cộng đồng là cơ chế biến lý thuyết về dân chủ thành thực
tiễn, đòi hỏi báo chí cũng như báo mạng điện tử phải thơng tin đa chiều,
khách quan, chính xác, nhanh, nhạy và đời sống cộng đồng cũng là nơi thảo
luận rồi biến thành hành động.
- Kinh nghiệm tạo dựng hình ảnh quốc gia của Trung Quốc
Năm 2001, Trung Quốc ký hợp đồng với tập đoàn AOL Time Warner
của Mỹ bắt đầu phát các chương trình tiếng Anh ở Mỹ 24/24 với mục đích

giới thiệu một hình ảnh Trung Quốc nhân hậu và ơn hồ.
Năm 2009, Bắc Kinh và Hãng DDB Guoan đã phát động chiến dịch
trên toàn cầu để khuếch trương cho nhãn hiệu “Made in China” nhằm thay
đổi quan niệm cố hữu rằng hàng hoá được sản xuất ở Trung Quốc thuộc
loại thứ phẩm, thậm chí là hàng fake (hàng nhái). Từng xảy ra những vụ tai
tiếng về sữa bột có chất độc, đồ chơi trẻ em có nhiều chất chì, hoa quả
được ngâm trong chất có thể gây ung thư và thức ăn cho chó mèo cũng có
chất độc.
Chiến dịch “Made in China, made with the world” (Làm tại Trung Hoa,
Làm cùng thế giới), sử dụng một số kênh truyền thông ở châu Á và châu Âu,
và CNN ở Mỹ. Các đoạn băng quảng cáo thể hiện một gam rộng hàng Made
in China, được giải thích cặn kẽ là chúng được chế tác như sản phẩm liên
doanh với các nhà sản xuất hàng đầu thế giới. Chẳng hạn điện thoại Iphone,
máy tính bảng Ipad sản xuẩt ở Trung Quốc theo các chương trình phần mềm
do Apple chế tác, hay quần áo Trung Quốc do các nhà tạo mẫu Paris thiết kế,
giày thể thao Trung Quốc sản xuất theo công nghệ của Mỹ…
Năm 2011, Văn phịng Báo chí Quốc Vụ viện Trung Quốc xây dựng
phim quảng bá hình ảnh quốc gia Trung Quốc, phim quảng bá này đã giới
thiệu Trung Quốc ngày nay với người dân đi lại Quảng trường Thời đại New
York, Mỹ. Đây ln ln là nơi cơng cộng mang tính tiêu biểu về địa lý ở Mỹ,
thu hút du khách đến từ mọi miền đất nước Mỹ và khắp nơi trên thế giới.


16
- Kinh nghiệm tạo dựng hình ảnh quốc gia của Hàn Quốc
Rất nhiều quốc gia đã coi chiến lược quảng bá hình ảnh đất nước bằng
truyền thơng của Hàn Quốc là con đường mẫu mực, trong đó có cả cường
quốc về văn hóa truyền thống - Trung Quốc.
Hơn 40 năm về trước, Hàn Quốc nằm trong khu vực những nước nghèo
nhất thế giới. Ngày nay, vị thế của Hàn Quốc trên trường quốc tế đã được

nâng lên rất nhiều cả về kinh tế lẫn chính trị. Hàn Quốc được cả thế giới biết
đến như là quốc gia năng động, phát triển, thành cơng trên nhiều lĩnh vực.
Thành cơng đó có sự tham gia tích cực của truyền thơng, báo chí.
Nhắc tới chiến dịch “xuất khẩu văn hóa” của Hàn Quốc thì khơng thể
khơng nhắc tới mạng lưới truyền thơng khổng lồ và rộng khắp của đất nước
này. Không phải ngẫu nhiên mà chính phủ Hàn Quốc sử dụng truyền thơng
làm phương tiện để quảng bá văn hóa Hàn với đặc tính lan truyền nhanh và
tác động mạnh của nó.
Bản thân ngành truyền thông của Hàn Quốc cũng rất phát triển. Họ là
một trong những nước châu Á đầu tiên xây dựng thành công ngành kinh tế
truyền thông. Ngành kinh tế đặc thù này - thơng qua các tập đồn truyền
thơng - đã góp phần đưa truyền thơng Hàn Quốc trở thành một ngành kinh tế
mũi nhọn chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ nhu cầu giải
trí, thơng tin… của cơng chúng.
Mặc dù cạnh tranh lẫn nhau rất khốc liệt, nhưng mục đích chung của
các kênh truyền hình đều là quảng bá văn hóa của đất nước. Nội dung của các
kênh truyền hình này (đặc biệt là các kênh chiếu ở nước ngoài như Arirang
hay KBS World) đều nhấn vào hình ảnh đất nước với nền văn hóa vừa truyền
thống và vừa hiện đại. Vì lẽ đó một trong những điểm mạnh của truyền thơng
Hàn Quốc là khả năng khai thác tốt những nét văn hóa truyền thống.Tuy hoàn
toàn độc lập về kinh tế và cách thức quản lý với chính phủ nhưng các kênh
truyền hình Hàn Quốc đã trở thành tiếng nói của tồn đất nước, là một


17
phương tiện để chính phủ quảng bá đất nước mình ra ngồi thế giới. Đó là
một trong những nhiệm vụ to lớn được đặt ra của truyền thông Hàn Quốc.
Sự phát triển của truyền thông cũng đã kéo theo sự bùng nổ của ngành
cơng nghiệp giải trí và ngược lại, ngành cơng nghiệp giải trí trở thành “nguồn
tin” cho truyền thơng. Chính sách phát triển văn hóa khơng chỉ dừng lại ở

việc đầu tư cho lĩnh vực điện ảnh, mà cịn có lĩnh vực âm nhạc game-show,
talk-show truyền hình.
Ngồi điện ảnh thì “Korea wave” hay “Hallyu”, “Dynamic Korea” cịn
bao gồm cả âm nhạc, thời trang, mỹ phẩm…, thị trường nhiều quốc gia trên thế
giới đặc biệt là các quốc gia châu Á đã bị chinh phục bởi truyền hình và âm
nhạc, các nhãn hiệu thời trang và mĩ phẩm và tạo nên sự bùng nổ của ngành
thời trang, giải trí và thẩm mỹ tại Hàn Quốc và nhiều quốc gia châu Á khác.
1.2. Đặc trưng và vai trò của báo mạng điện tử trong việc quảng bá
hình ảnh quốc gia
1.2.1. Đặc trưng của báo mạng điện tử
1.2.1.1. Khả năng đa phương tiện
Đa phương tiện (multimedia) là một sự kết hợp phương tiện truyền
thông (media) và các dạng nội dung (content) khác nhau [15, tr.106].
Thuật ngữ này có thể được sử dụng như một danh từ (một phương tiện
với nhiều hình thức nội dung) hoặc như một tính từ để mơ tả một phương tiện
có nhiều hình thức nội dung.
Đa phương tiện được sử dụng mang ý nghĩa tương phản với phương
tiện truyền thơng sử dụng chỉ máy tính thơ sơ để hiển thị như chỉ văn bản
hoặc các dạng thức truyền thống của in ấn hoặc tài liệu sản xuất thủ công.
Sau này, trong sử dụng thường ngày, thuật ngữ đa phương tiện dùng để
chỉ sự kết hợp điện tử phương tiện truyền thông gồm: video, ảnh tĩnh, âm
thanh và văn bản theo cách có thể được truy cập tương tác.
Đa phương tiện trên báo mạng điện tử là việc sử dụng nhiều loại
phương tiện (ngôn ngữ văn tự và phi văn tự) để thực hiện và tạo nên một sản


18
phẩm báo chí. Một sản phẩm báo chí được coi là đa phương tiện khi nó tích hợp
nhiều trong số các phương tiện truyền tải thông tin sau: văn bản (text), âm thanh
(audio), hình ảnh tĩnh (still image), hình ảnh động (animation), đồ họa (graphic),

video link hoặc các dạng nội dung tương tác khác (interactive program).
Báo mạng điện tử có sự tổng hợp của cơng nghệ đa phương tiện, có
nhiều ưu điểm vượt trội so với các loại hình báo chí truyền thống. Báo
mạng điện tử phải chú ý nhiều hơn tới khả năng đa phương tiện. Kết hợp
hài hoà giữa các yếu tố nội dung tin, hình ảnh động (video), âm thanh
(audio), đồ họa (graphic)… trong một sản phẩm báo chí. Gần như ngay lập
tức cùng với những tin ngắn là những hình ảnh, âm thanh được truyền trực
tiếp trên trang chủ của báo mạng điện tử sẽ tạo ra sự hấp dẫn, sống động
đặc biệt cho công chúng.
1.2.1.2. Tính tức thời và phi định kỳ
Đây là một trong những ưu điểm lớn nhất của báo mạng điện tử so với
báo in, phát thanh và truyền hình. Thơng tin được cập nhập tức thời theo từng
giờ, từng phút khiến cho người đọc tiếp nhận được thông một cách chủ động
và nắm bắt thông tin dễ dàng.
Không giống các loại hình báo chí khác: báo in, phát thanh, truyền
hình thơng tin có tính định kì. Ví dụ như: ở báo in thường có các tờ nhật báo,
số báo mới nhất được phát hành vào các buổi sáng của mỗi ngày. Ở phát
thanh, truyền hình thơng tin được phân bổ trong những khoảng thời gian nhất
định. Trong khi đó, báo mạng điện tử có tính phi định kì, 24 giờ/ngày, 7
ngày/tuần. Thông tin từ khi thu nhận đến khi phát hành đều được diễn ra
nhanh chóng với những thao tác hết sức đơn giản.
Báo mạng điện tử vượt qua được các rào cản mà các loại hình báo chí
khác gặp phải, nội dung thông tin không bị giới hạn bởi khuôn khổ của trang
báo, thời lượng phát sóng hay thời gian tuyến tính, quy trình sản xuất thơng
tin đơn giản nên có thể cập nhật, bổ sung bất kỳ lúc nào. Giới hạn cuối cùng
của một bài báo trên báo mạng điện tử chỉ là tạm thời và tương đối.


19
Với những ưu điểm trên, báo mạng điện tử ngày càng thu hút được

đông đảo công chúng. Công chúng sẽ không phải mất thời gian để nghe tuần
tự các chương trình phát thanh, hay bắt buộc cầm tờ báo trên tay để đọc vào
những buổi sáng sớm. Chỉ cần lướt Web cơng chúng có thể biết được từng
giờ, từng phút qua có những sự kiện gì.
1.2.1.3. Tính tương tác
Tương tác là một trong những đặc trưng quan trọng của báo chí. Ở bất
kì loại hình báo chí nào, tính chất này cũng được những người làm báo lưu
tâm. Đối với báo mạng, nhờ có những đặc trưng nổi trội về cơng nghệ mà
dường như tính tương tác có vẻ cao hơn so với các loại hình cịn lại. Tính
tương tác là một trong những lý do mà các chuyên gia đã đánh giá báo mạng
là phương tiện truyền thông vĩ đại nhất của nhân loại.
Quá trình tương tác trên báo mạng điện tử nhanh chóng và thuận tiện
hơn nhiều so với các loại hình báo chí khác. Ngay sau mỗi tác phẩm báo chí
đăng trên trang báo mạng điện tử đều có mục phản hồi, ngồi ra cịn có rất
nhiều kênh tương tác khác như feedback, vote, email, forum… tiện cho độc
giả dễ dàng đóng góp ý kiến của mình. Điều này khó thấy trên báo hình, phát
thanh hay báo giấy. Nhờ vào khả năng tương tác, báo mạng điện tử thiết lập
các diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu giúp công tác điều tra xã hội
học trở nên đơn giản và thuận tiện hơn.
Chú ý đến đặc điểm tương tác (độc giả có thể phản hồi bằng cách tham
gia đóng góp cho tác phẩm) trên báo mạng điện tử phải được tập trung khai
thác vừa nhằm giữ chân các độc giả trung thành, vừa kéo theo sự quan tâm
của các độc giả mới.
1.2.1.4. Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thơng tin
Khơng bị giới hạn về khn khổ, số trang, không bị phụ thuộc vào
khoảng cách địa lý nên báo mạng điện tử có khả năng truyền tải thơng tin đi
khắp tồn cầu nhanh chóng với số lượng không giới hạn. Các yếu tố như siêu
liên kết, cơng cụ tìm kiếm… trong các trang báo, tờ báo sẽ tạo sự liên kết, di
chuyển bên trong giữa các khối tin tức và tăng khả năng tương tác của tờ báo.



20
Không giống như báo in, muốn đọc lại một bài báo nào, hay tìm hiểu
thơng tin từ các bài báo trước, thì độc giả phải mất cơng sức và thời gian lục
lại trong đống báo tư liệu. Với phát thanh cũng vậy, muốn nghe lại, đều phải
chờ đúng khung giờ phát sóng. Nhưng với báo mạng chỉ cần một thao tác nhỏ
thì độc giả có thể tìm kiếm được hàng loạt bài viết về vấn đề mình quan tâm,
kể cả những bài viết được đăng tải một thời gian khá lâu.
Có thể tìm kiếm thơng tin trên báo mạng điện tử theo một số cách sau:
- Tìm kiếm theo chủ đề, chuyên mục: giúp độc giả có thể dễ dàng tìm
thấy thơng tin theo chun mục bởi sự sắp xếp thông tin khoa học theo các
chủ đề như: thế giới, chính trị, xã hội, văn hóa…
- Tìm kiếm theo từ khóa: độc giả chỉ cần gõ từ khóa vào cơng cụ tìm
kiếm của tờ báo, click chuột vào “Search” hoặc “Tìm kiếm”, từ đó máy tính
sẽ tìm ra danh sách có chứa các kết quả trên.
- Tìm kiếm theo ngày, tháng: cách tìm kiếm này thể hiện ưu điểm đối
với sự kiện, bài báo đã được đăng lâu trước đó. Một bảng dạng lịch sẽ hiện ra
khi độc giả click vào mục tìm kiếm theo ngày tháng.
Với cơng cụ tìm kiếm, độc giả chỉ cần nhập từ khóa, và chờ đợi trong
vài giây, thì trang báo đã cho ra kết quả là hàng loạt các bài báo liên quan về
vấn đề mà độc giả đang quan tâm.
1.2.2. Vai trò của báo mạng điện tử trong việc quảng bá hình ảnh
Việt Nam hiện nay
Quảng bá hình ảnh Việt Nam qua báo mạng điện tử, đó là hệ thống
chuyển tải tin tức, sự kiện, hình ảnh của tất cả các lĩnh vực, các ngành cũng
như đời sống sinh hoạt của một đất nước ra bên ngoài. Trong bối cảnh hiện
nay của nước ta, đây là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm đúng mức,
giúp cho bạn bè thế giới hiểu đúng chúng ta và những thông tin phản hồi từ
họ cũng là cơ sở tham khảo cần thiết để Việt Nam xây dựng chính sách cho
phù hợp, đảm bảo các bước đi, lộ trình hội nhập của Việt Nam, đáp ứng được

tốt nhất quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


21
Báo mạng là một kênh truyền thơng có vai trị quan trọng trong việc
đưa tin tức, hình ảnh, sự kiện đến cho nhiều đối tượng độc giả khác nhau, cả
trong nước và nước ngoài. Với sự phát triển và bùng nổ của Internet và các
thiết bị công nghệ hiện nay, việc sử dụng báo mạng điện tử có thể được xem
là một phương án mang lại nhiều lợi ích, dễ dàng và thuận tiện trong việc
quảng bá hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế giới.
Đảng và Nhà nước ta nhận định, báo mạng điện tử chính là một trong
những công cụ hữu hiệu nhất của công tác quảng bá hình ảnh Việt Nam thời
gian hiện nay. Đất nước ta ngày một đổi mới đi lên, hòa nhịp với sự phát triển
chung của thế giới nên nhu cầu tìm hiểu thế giới cũng như làm cho thế giới
hiểu rõ về đất nước cũng ngày càng tăng lên. Đảng và Nhà nước ta cũng xác
định đối tượng của quảng bá hình ảnh Việt Nam không những là người dân
trong nước mà còn là nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước
láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn, các trung tâm kinh tế chính trị - xã hội lớn và người Việt Nam ở nước ngồi.
Theo kết quả phỏng vấn sâu, phóng viên Ngọc Thành - báo điện tử
VOVNews.vn cho rằng:
Một vài năm trở lại đây, Đảng, Nhà nước và các cơ quan báo chí đã
có những quan tâm đặc biệt đến việc đưa hình ảnh Việt Nam ra với
thế giới. Không chỉ quan tâm, Đảng, Nhà nước và các cơ quan báo
chí cũng đã có những hành động thiết thực trong việc quảng bá
hình ảnh quốc gia bằng nhiều hình thức truyền thơng khác nhau
như báo đài, truyền hình, Internet, triển lãm, lễ hội v.v…
Sự xuất hiện và phổ biến của báo mạng điện tử tại Việt Nam đã và đang
góp phần thu hẹp khoảng cách mà trước đây không chỉ những người Việt Nam
công tác và học tập xa quê hương thường phải đối diện mà còn giúp thế giới hiểu
đúng và đầy đủ về đất nước, con người Việt Nam, đồng thời đáp ứng nhu cầu

tìm hiểu về Việt Nam của nhiều đối tượng khác nhau trên thế giới.


22
Nhiều báo điện tử Việt Nam xuất hiện trong vài năm trở lại đây đã và
đang đáp ứng một phần nào nhu cầu nêu trên. Chẳng hạn đến với
VnExpress.net, Quehuongonline.vn,… độc giả có thể tìm thấy một cấu trúc
rộng về không gian với nhiều mảng khác nhau, mỗi mảng gần như một tờ báo
riêng như xã hội, thế giới, giáo dục, khoa học, thể thao, văn hóa,… Các thơng
tin được cập nhật trong ngày và được đưa ngay lên mạng đáp ứng nhu cầu
thông tin của độc giả. Người đọc có thể cùng một lúc đọc nhiều tin ở các tờ
báo điện tử khác nhau, từ đó có thể so sánh, đối chiếu thơng tin mà mình vừa
tiếp nhận được.
Có thể nói báo điện tử chính là một kênh trực tiếp tham gia vào việc
thơng tin quảng bá hình ảnh Việt Nam. Phương tiện này khơng tốn kém chi
phí vận chuyển, phát hành. Trong khi đó muốn đưa một tờ báo in ra nước
ngoài phải mất vài ngày, giá thành lên đến hơn 3 USD; Thông tin cập nhật
không bị hạn chế bởi khơng gian và thời gian, thích hợp cho người nước
ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài. Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng - Phó Chủ
nhiệm Văn phịng Quốc hội cho rằng: “Báo điện tử là kênh thông tin đối
ngoại ưu việt nhất” [28]. Theo kết quả phỏng vấn sâu, một số nhà báo cũng
đánh giá:
Phóng viên Ngọc Trâm - báo VnExpress.net trả lời phỏng vấn:
Báo mạng điện tử là hình thức quảng bá hiện đại, mang lại nhiều hiệu
ứng cũng như hiệu quả tích cực trong việc truyền thơng, tun truyền
hình ảnh Việt Nam. Việc quảng bá hình ảnh quốc gia trên báo mạng
điện tử giúp đưa hình ảnh, con người, đất nước đến gần với nhiều bạn
bè thế giới hơn. Đây cũng là hình thức quảng bá đơn giản, phong phú
mà khơng lãng phí trong khi hiệu quả mang lại cao.
Theo như ý kiến của phóng viên Thu Thủy - báo VOVNews.vn thì:

Báo mạng là một kênh truyền thơng có vai trị quan
trọng trong việc đưa tin tức, hình ảnh, sự kiện đến cho
nhiều đối tượng độc giả khác nhau, cả trong nước và


23
nước ngoài. Với sự phát triển và bùng nổ của Internet và
các thiết bị công nghệ hiện nay, việc sử dụng báo mạng
điện tử có thể được xem là một phương án mang lại
nhiều lợi ích, dễ dàng và thuận tiện trong việc quảng bá
hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế giới.
Dù quy mô và phạm vi ảnh hưởng của các loại hình báo mạng điện tử
khác nhau song nó đóng vai trị quan trọng và ngày càng to lớn trong việc
chuyển tải thông tin đến các tầng lớp nhân dân trong - ngoài nước cùng với
bạn bè quốc tế.
1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thơng tin
quảng bá hình ảnh Việt Nam trên báo chí hiện nay
Việc quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới được tiến hành từ nhiều
năm nay, bằng nhiều con đường, do nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân thực
hiện và đã có một số kết quả khả quan. Báo mạng điện tử với hoạt động thông
tin quảng bá hình ảnh đất nước tại từng quốc gia với các nội dung hướng tới
đối tượng cụ thể được coi như kênh quảng bá không kém phần hiệu quả. Điều
này đặt ra những nhiệm vụ mới đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức
năng. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy các chủ trương, chính sách về thơng
tin quảng bá hình ảnh Việt Nam trên báo mạng điện tử không đứng độc lập
mà chủ yếu nằm trong các văn bản về báo chí, thơng tin đối ngoại nói chung
hoặc về Internet.
Từ Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra phương hướng, mục tiêu
phấn đấu của hệ thống thông tin đại chúng trong những năm trước mắt là:
… Sử dụng Internet đẩy mạnh thông tin đối ngoại, đồng thời hạn

chế, ngăn chặn những hoạt động tiêu cực qua mạng. Khắc phục
khuynh hướng “thương mại hóa'' trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, ý thức trách nhiệm, trình độ
văn hóa và nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ báo chí,
xuất bản… [3].


24
Chỉ thị 22-CT/TW, ngày 17/10/1997 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) về việc “tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý công tác báo chí” là một chỉ thị rất quan trọng về lý luận và thực
tiễn, định hướng cho sự phát triển của báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong thời kỳ đổi mới. Chỉ thị quy định rõ:
… Làm tốt công tác thông tin đối ngoại, giúp cho cộng đồng quốc
tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có thơng tin kịp thời,
đúng đắn về tình hình đất nước, tranh thủ sự đồng tình của nhân
dân thế giới đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta… [50, tr.56].
Chương trình phối hợp cơng tác giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
với Bộ Thông tin và Truyền thông về hoạt động thơng tin đối ngoại và quảng
bá hình ảnh Việt Nam giai đoạn 2012 - 2015 chỉ rõ:
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ chủ động trao đổi thông tin với
Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ đạo các cơ quan của Bộ phối hợp
với các đơn vị chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông trong
việc thống nhất tuyên truyền và định hướng thông tin. Bộ Thông tin
và Truyền thông sẽ cung cấp thông tin về những hoạt động mang
tính chất quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Đồng thời
chỉ đạo các cơ quan báo chí thơng tin về các hoạt động, sự kiện tới
cộng đồng quốc tế, chủ động tìm kiếm phương thức truyền thông
hiệu quả để quảng bá, xúc tiến hình ảnh quốc gia [26].

Chính phủ ra Quyết định số 79/2010/QĐ-TTg và ban hành Quy chế
quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại. Quy chế đã quy định nguyên tắc và
nội dung quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại. Một trong số những nội
dung hoạt động thông tin đối ngoại theo quy chế là: “Giới thiệu, quảng bá
hình ảnh đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, tiềm năng hợp tác và phát
triển của Việt Nam” [26, 24/11/2011].


25
Tháng 1/2011, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2011 2020, đánh dấu một thời kỳ mới trong sự phát triển của đất nước. Đại hội
cũng đặt ra yêu cầu:
Đổi mới tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học,
nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, xuất bản. Xây dựng một
số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch
thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngồi [8, tr.226].
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng ta đã xác định:
Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam
với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giái trị nhân văn, khoa học tiến
bộ của nước ngoài. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa
phản động, đồi trụy. Giúp đỡ cộng đồng người nước ngồi ở Việt
Nam hiểu biết về tình hình nước nhà, thu nhận tư tưởng và sản
phẩm văn hóa từ trong nước, nêu cao lòng yêu nước… [11].
Hoạt động ngoại giao văn hóa dựa trên các quan điểm được nêu rõ tại
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam (bổ sung, sửa đổi năm 2011):
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển

toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,


×