Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Công tác tư tưởng của đảng cộng sản việt nam (1975 1986)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.13 KB, 89 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tư tưởng của Đảng ta là hoạt động có định hướng nhằm xác
lập, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng và
định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học, tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống, tri thức để đảm bảo cho nhân dân có
hành động tích cực, chủ động sáng tạo thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln xác định cơng tác tư tưởng có vai trị hết sức quan trọng, là bộ phận cấu
thành trong toàn bộ hoạt động của Đảng, và là một phần của Lịch sử Đảng,
lĩnh vực mới được chú ý nghiên cứu.
Trong thời kì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1975 - 1986), dưới sự
lãnh đạo của Đảng, công tác tư tưởng đã cố gắng bám sát thực tiễn đất nước
để góp phần hình thành đường lối, chủ trương, chính sách và truyền bá niềm
tin quyết tâm của một dân tộc vừa mới giành chiến thắng sang công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước trong thời bình, đối phó với những âm mưu chống
phá dữ dội của địch, vượt qua khó khăn, thử thách tạo tiền đề cho thời kì phát
triển mới - thời kì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc xây dựng
nền tảng tư tưởng, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong tồn Đảng, tồn
dân, cơng tác tư tưởng cịn góp phần nâng cao tri thức, bồi dưỡng lí luận, xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên và nhân dân, có những đóng
góp đáng kể cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước.
Từ khoảng sau năm 1978 đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
Đây là thời kì Đảng vừa đẩy mạnh việc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm cũ, lại vừa từng bước tìm kiếm con đường đổi mới. Trong công tác tư


2
tưởng cũng diễn ra hai quá trình: một là quá trình biện minh cho cái cũ, cách


làm cũ, đồng thời cũng là quá trình từng bước hình thành tư duy mới cách làm
mới tham gia vào quá trình đổi mới. Chính tính quá độ giữa cái cũ và cái mới
của thực tiễn và của công tác tư tưởng làm thành nét phức tạp nhưng sinh
động, độc đáo của công tác tư tưởng thời kì này. Đây là mảng rất quan trọng
trong lịch sử của Đảng cần được nhận thức rõ. Qua việc tìm hiểu lịch sử cơng
tác tư tưởng thời kì 1975 - 1986 có thể bổ sung cho lịch sử của Đảng trong
thời kì đầy biến động này. Đồng thời qua cuộc đấu tranh và chuyển mình của
cơng tác tư tưởng thời kì này có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu cho
hoạt động tư tưởng giai đoạn sau.
Vì thế, tơi chọn đề tài "Cơng tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1975 - 1986)" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các cơng trình nghiên cứu về những vấn đề chung của công tác tư tưởng
Trong khoảng thời gian sau giải phóng miền Nam, nhất là trong tiến
trình của đổi mới, nhiều vấn đề thực tiễn và lý luận nảy sinh, công tác tư
tưởng được đề cập nghiên cứu nhiều hơn. Có thể kể đến các tác giả, tác phẩm:
- Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về cơng tác tư tưởng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ngô Văn Thạo (2002), Đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hồng Tùng (1986), Cơng tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hữu Thọ (2000), Về công tác tư tưởng văn hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Lương Khắc Hiếu (2008), Ngun lí cơng tác tư tưởng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.


3
Các cuốn sách trên có nội dung chủ yếu là những vấn đề thuộc về
ngun lí của cơng tác tư tưởng như: khái niệm, chức năng, nhiệm vụ, vai trò,

vị trí và tác động của cơng tác tư tưởng trong tiến trình cách mạng; cơ sở lí
luận và thực tiến của việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng; những vấn đề thuộc về nghiệp vụ công tác tư tưởng. Các tác phẩm này
cung cấp kiến thức nền để tác giả có cơ sở nghiên cứu về công tác tư tưởng
của Đảng trong thời kỳ 1975 - 1986.
Các cơng trình nghiên cứu về lịch sử cơng tác tư tưởng của Đảng và
các lĩnh vực cụ thể của công tác tư tưởng
- Hữu Thọ (2000), Sơ thảo lược sử công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (1930 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là
một cơng trình nghiên cứu cơng phu, dày dặn và tiêu biểu về lịch sử công tác
tư tưởng của Đảng từ trước đến nay. Lịch sử công tác tư tưởng của Đảng phân
theo giai đoạn: 1930 - 1945, 1945 - 1954, 1954 - 1975, 1975 đến nay, một số
bài học kinh nghiệm, hoạt động công tác tư tưởng của các ngành, đoàn thể,
lực lượng vũ trang, từ 1930 đến năm 2000. Cuốn sách nghiêng về công tác
tuyên truyền, cổ động, chưa nhắc đến lĩnh vực quan trọng nhất của công tác tư
tưởng là công tác tư tưởng, lí luận.
- Hữu Thọ (2000), 70 năm cơng tác tư tưởng văn hóa của Đảng, truyền
thống vẻ vang, trách nhiệm to lớn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách
là tập hợp các bài viết, bài phát biểu quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các đồng chí tổng bí thư của Đảng nói về cơng tác tư tưởng văn hóa, truyền
thống và trách nhiệm. Các ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Ban tư tưởng văn
hóa Trung ương về cơng tác tư tưởng văn hóa của Đảng.
- Nguyễn Quý (2005), Lịch sử biên niên công tác tư tưởng - văn hóa
của Đảng Cộng sản Việt Nam (1976 - 2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


4
Cuốn sách ghi lại các sự kiện về hoạt động tư tưởng, văn hóa từ 1976 - 2004.
Chưa phân tích một cách sâu sắc về hoạt động tư tưởng văn hóa thời kỳ này.
- Nguyễn Đức Bình (2005), Một số vấn đề về công tác lý luận, tư

tưởng và văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm gồm các bài
viết phản ánh quan điểm cơ bản và đường lối của Đảng trên các lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa, báo chí, giáo dục lí luận chính trị và nghiên cứu khoa học,
những vấn đề thời sự như toàn cầu hóa, vận mệnh của chủ nghĩa xã hội, vấn
đề xây dựng Đảng.
- Hoàng Tùng (1987), Đổi mới tư duy lý luận và cơng tác xây dựng
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm đề cập tới một số vấn đề đổi
mới tư duy lý luận, đổi mới công tác xây dựng Đảng trong đường lối đổi mới
của Đảng được Đại hội VI đưa ra.
- PGS,TS.Tô Huy Rứa; GS,TS. Hồng Chí Bảo; PGS,TS.Trần Khắc
Việt; PGS,TS. Lê Ngọc Tịng (đồng chủ biên), (2006), Quá trình đổi mới tư
duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác
giả phân tích tác động của tình hình thế giới và trong nước tới cơng cuộc đổi
mới. Hệ thống vai trò của lý luận và tư duy lý luận đối với công cuộc đổi mới.
Đánh giá tổng quát ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm của quá trình đổi mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Báo cáo trình bày quá trình hình thành, phát triển đường lối đổi mới, những
thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm của 20 năm đổi mới, từ đó xác
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- TS.Bùi Kim Đỉnh (2008), Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
con đường đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội (1976 - 1986), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Tác giả đề cập tới quá trình đổi mới nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó rút ra những nhận xét về quá


5
trình nhận thức về chủ nghĩa xã hội của Đảng trong 10 năm (1976 - 1986).
Đây cũng chính là lịch sử tư duy lý luận của Đảng trong thời kỳ này.
- Nguyễn Duy Quý (1998), Những vần đề lý luận về chủ nghĩa xã hội

và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Tác phẩm đề cập tới quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hiện thực hơn 7 thập kỷ qua. Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Việt Nam đổi mới và phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Các luận án, luận văn có liên quan đến đề tài
- Phùng Thị Hiển (2004), Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975, Luận văn Thạc sỹ
lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Phùng Thị Hiển (2009), Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, cổ
động chính trị ở miền Bắc trong những năm 1960 - 1975, Luận án Tiến sỹ lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận án viết về công tác
tuyên truyền, cổ động chính trị ở miền Bắc: quá trình Đảng lãnh đạo, những
đóng góp của cơng tác tun truyền, cổ động và những bài học kinh nghiệm.
- Nguyễn Đức Tài (2003), Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
qua thực tiễn Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học.
- Nguyễn Duy Sinh (1996), Công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong điều kiện Đảng cầm quyền, Luận án phó tiến sỹ khoa học lịch sử.
Luận án đề cập tới vai trị của cơng tác lý luận trong sự nghiệp cách mạng.
Phân tích một số khái niệm lý luận, tư duy lý luận, công tác lý luận, mối quan
hệ giữa lý luận, công tác lý luận với hoạt động lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện Đảng cầm quyền.
Đây là những tài liệu tham khảo có ích cho tơi thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


6
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ lịch sử cơng tác tư tưởng trong thời kì
1975 - 1986 với những ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm nhằm tăng cường
hiệu quả cơng tác tư tưởng.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày bối cảnh lịch sử của nước ta trong những năm 1975 - 1986,
từ đó phân tích những vấn đề đặt ra với công tác tư tưởng trong giai đoạn này.
- Lịch sử cơng tác tư tưởng của Đảng trên hai bình diện:
+ Công tác lý luận, biểu hiện tập trung trong đường lối, chính sách của Đảng.
+ Cơng tác tun truyền, cổ động.
Phân tích những thành cơng, hạn chế, rút ra những kinh nghiệm trong
công tác tư tưởng của Đảng thời kì 1975- 1986.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công tác tư tưởng của Đảng trên ba lĩnh vực:
cơng tác lí luận; cơng tác tun truyền; công tác cổ động với những thành tựu,
hạn chế, kinh nghiệm cơng tác tư tưởng trong thời kì 1975 - 1986.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Công tác tư tưởng của Đảng có phạm vi rất rộng với
những lĩnh vực, đối tượng, mục đích, nội dung và lĩnh vực hoạt động khác nhau.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác tư tưởng của Đảng trên biểu hiện
hiện ở cơng tác tư tưởng, lí luận - thể hiện tập trung trong đường lối, chính sách,
chỉ nghiên cứu ở mức độ nhất định về công tác tuyên truyền, cổ động.
Về không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu công tác tư tưởng
trong giai đoạn 1975 - 1986 trên phạm vi cả nước.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Những nguyên lí của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng và công
tác tư tưởng.


7
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp lô - gic, và sự kết hợp giữa hai phương pháp trên. Ngồi ra, luận
văn cịn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
6. Cái mới của luận văn

Trên cơ sở kế thừa những cơng trình nghiên cứu trước đó cùng viết về
vấn đề này, Luận văn có một số đóng góp mới:
- Cách tiếp cận: gắn với đường lối, chính sách của Đảng nhưng khơng
xi chiều, có cái nhìn thẳng thắn gắn với lịch sử.
- Nêu bật được đặc điểm nổi bật của cơng tác tư tưởng thời kỳ này: tính
chuyển tiếp q độ của thời kỳ này, điều ít người để ý và đề cập. Trong đó,
đây là thời kỳ vừa bảo vệ Đảng, cách nhìn, cách làm cũ, vừa đấu tranh,
chuyển hóa, điều chỉnh trong Đảng, từng bước tiến hành đổi mới trong công
tác tư tưởng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn cho chúng ta thấy được lịch sử công tác tư tưởng của Đảng
trong thời kì 1975 - 1986. Từ đó đánh giá thành tựu, hạn chế và rút ra những
kinh nghiệm lịch sử. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử công tác tư tưởng của Đảng.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


8
Chương 1
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRƯỚC 1975
1.1. Khái niệm, vị trí cơng tác tư tưởng
1.1.1. Tư tưởng
Cho đến nay, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm tư tưởng.
Từ điển triết học định nghĩa: tư tưởng “là phản ánh của hiện thực trong
ý thức, là biểu hiện của sự quan hệ của con người đối với thế giới xung
quanh" [70, tr.734].
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: tư tưởng là những quan điểm, ý nghĩ
chung của con người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội. Chẳng

hạn: tư tưởng tiến bộ, tư tưởng phong kiến.
Mục "Tìm hiểu khái niệm" của Tạp chí Cộng sản (số 1 - 1993) cho
rằng: "Tư tưởng là những suy nghĩ, những ý niệm về các sự vật, hiện tượng
được phản ánh trong ý thức, là biểu hiện các quan hệ của con người đối với
thế giới xung quanh". Tư tưởng do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất
của con người quyết định. Thực chất và nguồn gốc tư tưởng ở trong cơ sở
kinh tế, trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã hội.
Tư tưởng chỉ sự suy nghĩ của con người nhưng phải ở trình độ ít nhiều
khái qt về thế giới, về xã hội, về bản thân con người. Tư tưởng phải được
thể hiện bằng "ngôn ngữ" để lưu truyền trong xã hội. C.Mác cho rằng, ngôn
ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Lẽ dĩ nhiên, trong xã hội có giai cấp, tư tưởng bao giờ cũng mang tính
giai cấp. Trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ănghen viết:
"Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu khơng phải là chứng minh rằng sản
xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị


9
của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị"
[70, tr.625]. Trong đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, đấu tranh tư
tưởng đã góp phần quan trọng vào việc giành chính quyền. Sau khi có chính
quyền, cuộc đấu tranh tư tưởng của giai cấp vô sản vẫn tiếp tục để chống các
tàn dư tư tưởng và các tư tưởng thù địch, phản động.
Như vậy, có thể hiểu: tư tưởng là ý niệm, quan điểm phản ánh tương
đối khái quát hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích, ít nhiều có tính
phổ biến của con người (nhóm người, cộng đồng người, giai cấp, xã hội...).
Xét về mặt văn hóa, tư tưởng là sản phẩm chủ quan của con người, nó
là một hệ giá trị mà mức độ phổ quát của nó tùy thuộc vào việc nó hàm chứa
đến đâu giá trị lịch sử, giá trị giai cấp, giá trị dân tộc và giá trị nhân loại.
1.1.2. Cơng tác tư tưởng

Có rất nhiều cách tiếp cận khái niệm công tác tư tưởng. Mỗi cách tiếp
cận cho chúng ta một cách hiểu về khái niệm công tác tư tưởng. Dưới đây là
một số cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu:
Thứ nhất:
Công tác tư tưởng là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong tồn bộ
hoạt động cách mạng của Đảng, cơng tác tư tưởng cùng với cơng
tác tổ chức góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có
nhiệm vụ: giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhằm
nâng cao tính tự giác, chủ động sáng tạo của họ trong việc thực hiện
những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, đồng thời nó góp
phần vào việc hình thành chủ trương, đường lối của Đảng - một
nhiệm vụ không thể thiếu được của công tác tư tưởng. Công tác tư


10
tưởng của Đảng cịn góp phần quan trọng vào việc xây dựng những
con người mới xã hội chủ nghĩa, vào việc hình thành thượng tầng
kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức [65, tr.8].
Khái niệm trên đây chỉ ra: vị trí, vai trị, nhiệm vụ của cơng tác tư
tưởng của Đảng một cách khá đầy đủ, song chưa đề cập đến nhiệm vụ phát
triển hệ tư tưởng của Đảng.
Thứ hai:
Công tác tư tưởng là hoạt động đa dạng và quan trọng vào bậc nhất
của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm: xây dựng,
xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm
tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan
khoa học cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và
sáng tạo, để thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu xã hội chủ

nghĩa [32, tr.35].
Khái niệm trên đề cập đến: vị trí, vai trị, nhiệm vụ cơng tác tư
tưởng của Đảng, nhưng tiếp cận mới hơn so với khái niệm thứ nhất
ở chỗ, tác giả đã nói tới nhiệm vụ phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa của công tác tư tưởng, song chưa nói tới nhiệm vụ góp phần
hình thành quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng.
Thứ ba:
Công tác tư tưởng, lý luận là hoạt động đa dạng, có định hướng, chủ
đích, có tổ chức, kế hoạch của Đảng nhằm xây dựng, xác lập, phát
triển truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, những tư tưởng tiên
tiến cách mạng và khoa học, biến thành niềm tin, định hướng giá trị
đúng đắn góp phần xây thế giới quan khoa học, năng lực tư duy lý


11
luận cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng
tạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cao đẹp do Đảng đề ra
[32, tr.70].
Trong quan niệm này, tác giả đã đề cập đến: chủ thể, đối tượng, mục
đích, nhiệm vụ cơng tác tư tưởng của Đảng. Tuy nhiên, quan niệm này chưa
nói tới vị trí, vai trị của cơng tác tư tưởng, cũng như tính chất hoạt động của
nó; chưa nói tới nhiệm vụ phát triển hệ tư tưởng; nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn góp phần xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước.
Bốn là:
Cơng tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích
của Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ
tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động

viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa [41, tr.10].
Quan niệm này chỉ ra một cách khái quát chủ thể, mục đích, nhiệm vụ
cơng tác tư tưởng của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, khái niệm chưa chỉ ra vị trí, vai trị, tính chất công tác tư tưởng; chưa
nêu một cách đầy đủ những nhiệm vụ mà công tác tư tưởng đảm nhiệm.
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về công tác
tư tưởng. Công tác tư tưởng là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của
Đảng trong việc: phát triển hệ tư tưởng của Đảng; nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, góp phần hình thành quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng; truyền bá giáo dục hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của nhà nước nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp


12
nhận thức khoa học cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự
thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận tư tưởng giữa Đảng với nhân
dân; cổ vũ động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của nhân dân thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đấu tranh chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng; góp phần
xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình
ảnh tươi đẹp của đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ra cộng đồng quốc tế.
Đây là một khái niệm khá dài, có kế thừa một số nội dung trong định
nghĩa về công tác tư tưởng của các nhà nghiên cứu nói trên. Nhìn khái qt,
các định nghĩa về cơng tác tư tưởng của Đảng đều khá dài, phản ánh một thực
tế là công tác tư tưởng của Đảng ta hết sức rộng lớn, hết sức phức tạp, nhất là
trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước.
1.1.3. Công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động.

Là một quá trình liên tục gồm nhiều khâu, nhiều bộ phận kế tiếp
nhau, công tác tư tưởng gồm ba quá trình cơ bản: quá trình sáng tạo hệ tư
tưởng, và vận dụng hệ tư tưởng đề ra đường lối, chính sách; q trình
truyền bá hệ tư tưởng và đường lối, chính sách; q trình biến hệ tư tưởng,
đường lối, chính sách thành hiện thực. Tương ứng với ba q trình đó là ba
bộ phận cấu thành cơng tác tư tưởng là công tác lý luận, công tác tuyên
truyền và công tác cổ động.
Công tác lý luận là một bộ phận của công tác tư tưởng, hướng vào việc
nghiên cứu lý luận nhằm xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng của giai
cấp. Trên cơ sở đó, đề ra đường lối chiến lược và sách lược của cuộc đấu
tranh giai cấp và xây dựng xã hội mới. Đối với các Đảng Mác - Lênin, đó là


13
sự đi sâu nghiên cứu để ngày càng nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn bản
chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, để vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn đất nước, đề ra đường lối lãnh đạo xã hội, làm cơ sở giáo dục hệ
tư tưởng và đường lối đó trong nhân dân.
Bởi vậy, cơng tác nghiên cứu lý luận là cơ sở quan trọng của tồn bộ
cơng tác tư tưởng. V.I.Lênin viết, khơng có lý luận cách mạng thì sẽ khơng
có phong trào cách mạng, và theo Người, nếu không phát triển được công
tác lý luận “.....thì sẽ khơng tiến lên được một bước nào cả trong công tác
cổ động...".
Thứ hai, công tác tuyên truyền là một bộ phận của cơng tác tư tưởng
có nhiệm vụ truyền bá sâu rộng cho quần chúng nhân dân lý luận Mác Lênin và đường lối của Đảng, trang bị cho họ những tri thức về các quy luật
phát triển của xã hội, trên cơ sở đó, xây dựng niềm tin vào lý tưởng cộng sản
và nâng cao tính tích cực, sáng tạo của quần chúng trong cuộc đấu tranh xây
dựng xã hội mới.
Công tác tuyên truyền là hoạt động phổ biến nhất để lý luận thâm nhập
vào quần chúng, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động, làm nên sức mạnh

của cách mạng. C.Mác đã chỉ ra: "Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [34, tr.580].
Muốn tuyên truyền mang lại hiệu quả phải đi sâu vào bản chất của vấn
đề, đưa ra các luận cứ về vấn đề cần tuyên truyền một cách logic, chân thực
mới có sức thuyết phục. Niềm tin vững chắc chỉ có thể được xây dựng trên cơ
sở tri thức thực sự khoa học. Theo Hồ Chí Minh: "Tuyên truyền là đem một
việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm" [37, tr.162].
Nhìn chung, trong tun truyền, nhóm phương pháp dùng lời nói
thường chiếm ưu thế để giúp đối tượng hiểu được bản chất vấn đề cần tuyên
truyền, nhất là các vấn đề lý luận có tính trừu tượng, khái quát cao.


14
Thứ ba, công tác cổ động là một bộ phận của công tác tư tưởng, nhằm
tác động trực tiếp vào tâm lý và tình cảm quần chúng bằng việc thơng tin, giải
thích cho quần chúng hiểu biết kịp thời những sự kiện đang diễn ra trong đời
sống, có liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, động
viên, cổ vũ họ tham gia hành động cách mạng cụ thể.
Phương pháp cổ động cũng có thể là dùng lời (bài nói ngắn gọn súc
tích, lời kêu gọi); cũng có thể là dùng phương tiện trực quan (pa - nơ, áp
phích, khẩu hiệu, biểu ngữ, loa phóng thanh, video, phim ảnh); có thể dùng
phương pháp nêu gương. Cơng tác cổ động có vai trị như là "chất kích thích"
trong việc biến tư tưởng cách mạng thành hành động cách mạng cụ thể. Sở
dĩ như vậy vì nó có nhiệm vụ thơng tin có định hướng trực tiếp các tin tức,
sự kiện, hiện tượng cụ thể trong đời sống hàng ngày của quần chúng, đồng
thời hiệu triệu, động viên quần chúng, thúc đẩy họ tham gia tích cực vào
những nhiệm vụ cách mạng cụ thể, trước mắt. V.I.Lênin đã từng đánh giá
cao vị trí, vai trị cơng tác cổ động trong giải quyết các nhiệm vụ khác nhau
phụ thuộc vào việc quần chúng hiểu và nắm được chúng đến mức độ nào. Vì
vậy, mỗi cán bộ cổ động cần phải cố gắng "ảnh hưởng một cách tốt nhất đến

một thính giả nhất định, làm cho một chân lý nào đó đối với họ trở nên có
sức thuyết phục mạnh nhất, dễ hiểu nhất, để lại những ấn tượng rõ ràng
nhất, sâu sắc nhất".
Ba bộ phận của công tác tư tưởng tuy có khác nhau về mục tiêu và
phương thức tiến hành, song có quan hệ gắn bó với nhau, cùng tác động đến
nhận thức tư tưởng, tâm lý, tình cảm quần chúng, tạo ra sự thống nhất ý chí và
hành động, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Muốn có tri thức cách mạng đúng, cần đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận, không ngừng bảo vệ, phát triển hệ tư tưởng vô sản, làm cho tri


15
thức đó ln phản ánh đúng sự vận động của quy luật khách quan. Nhận
thức đúng là tiền đề quan trọng cho hành động đúng. Tri thức cách mạng
không thể có sức mạnh tự thân nếu khơng được biến thành tình cảm và
hành động cách mạng. Nhờ có cơng tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi, tri
thức được thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và quần chúng, làm cho họ
nhận thức đúng đắn, có niềm tin vững chắc vào đường lối cách mạng, hâm
nóng nhiệt huyết cách mạng, từ đó, tăng thêm quyết tâm phấn đấu vì lợi ích
cách mạng. Tình cảm cách mạng sẽ trở thành hành động cách mạng đúng
đắn tích cực khi có điều kiện, đặc biệt, khi có thêm "chất kích thích" nhờ
tác động của cơng tác cổ động. Hồ Chí Minh viết: "Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy" [36, tr.268]. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Bởi
vậy, không chỉ trong Đảng thấm nhuần tri thức cách mạng là đủ, mà phải
làm cho toàn xã hội thấm nhuần, cùng hướng đến mục đích chung của cách
mạng. Người cịn dạy rằng:
Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước hết ai cũng hiểu
rõ vì sao phải làm, vì sao mà khơng làm khơng được, vì sao mà ai
ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay khơng nên người

này ngồi chờ người khác. Có như thế mục đích mới đồng: mục
đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã
đồng, lại phải biết cách làm thì mới chóng [36, tr.261].
1.1.4. Vị trí, vai trị của cơng tác tư tưởng
Trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, cơng tác tư tưởng có vai
trị hết sức quan trọng: góp phần xây dựng Cương lĩnh, đường lối cách mạng
đúng đắn của Đảng; góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; mang lại nhân tố tự giác cho quần chúng tham gia sự


16
nghiệp cách mạng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa X của Đảng Cộng sản Việt
Nam chỉ rõ:
Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực trọng yếu để
xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo
dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng, khẳng định và nâng cao vai trị tiên phong của Đảng về
chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức; thể hiện vai trò đi
trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng; làm cho hệ tư tưởng của Đảng, những giá trị tốt đẹp truyền
thống, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội [25, tr.41].
Theo C.Mác: "Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng" [34, tr.580]. Đường lối của Đảng ta chính là kết quả
của sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết
một cách khoa học, sáng tạo thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Công tác tư tưởng có vai trị bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng và cách
mạng Việt Nam, vạch trần các thủ đoạn mà chúng thường sử dụng như: xuyên
tác và bôi đen lịch sử cách mạng, lịch sử các lãnh tụ của Đảng và nhà nước;
đồng nhất những sai lầm khiếm khuyết của chủ nghĩa xã hội hiện thực với bản
chất chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng nhất chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với chế độ
chun quyền độc đốn. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ rõ công tác tư tưởng hiện nay:


17
Đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn
hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội [25, tr.41-42].
Cơng tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, đồn
kết xã hội . Công tác tư tưởng làm cho nhân dân thấm nhuần quan điểm của
Đảng về đại đoàn kết dân tộc là đồn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người
trong nước và người định cư ở nước ngoài, dựa trên nền tảng giai cấp cơng
nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức làm nịng cốt. Đại đoàn kết chủ yếu lấy
mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm khác
nhau, khơng trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến,
mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, tất cả vì độc lập của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân
dân.
Công tác tư tưởng góp phần quan trọng thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
- xã hội thông qua tổng kết thực tiễn, bổ sung hồn thiện các chủ trương,

chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, quán
triệt sâu sắc các quan điểm đó trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân,
làm cho họ vừa nghiêm túc chấp hành, vừa thực hiện một cách sáng tạo. Trên
lĩnh vực xã hội, công tác tư tưởng góp phần xác lập những quan điểm mới về
cơng bằng, dân chủ đồng thời xây dựng các quan hệ xã hội nhân ái, văn minh.
Công tác tuyên truyền, cổ động làm cho xã hội chăm lo đến đời sống của các
đối tượng chính sách, trước hết thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với


18
những người có cơng với cách mạng, các đồng chí cán bộ lão thành, các gia
đình thương binh, liệt sĩ, mặt khác kịp thời động viên, khuyến khích mọi tổ
chức và cá nhân tham gia vào cơng tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho đồng bào dân tộc, đặc biệt đối với các vùng đồng
bào dân tộc ít người. Cơng tác tư tưởng tích cực tham gia cuộc đấu tranh
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.
Vai trị cơng tác tư tưởng được thực hiện trước hết là nhờ sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản và chủ yếu là nhờ hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công
tác tư tưởng. Bằng nhiều hình thức, phương pháp và phương tiện khác nhau.
Những cán bộ này cùng gia sức góp phần xây dựng và chuyển tải tri thức cách
mạng ở những mức độ và khía cạnh nhất định, tạo nên sự đồng tâm, nhất trí
trong tồn Đảng và trong nhân dân, thúc đẩy tồn xã hội hành động vì sự
nghiệp cách mạng.
1.2. Cơng tác tư tưởng của Đảng thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Trong các thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ln
quan tâm lãnh đạo cơng tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập
và rèn luyện Đảng ta đã tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Người chỉ rõ nền tảng tư tưởng của Đảng là
vấn đề quan trọng hàng đầu đối với một đảng cách mạng. Người khẳng định:

"Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như
người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam" [36, tr.268].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng là vấn đề cốt lõi trong đời sống
tinh thần của con người, tư tưởng ln giữ vững vai trị chủ đạo chi phối suy
nghĩ, hành động của con người. Người cho rằng, công tác tư tưởng là sự tác


19
động lên trạng thái tư tưởng, tình cảm, tinh thần của những đối tượng khác
nhau nhằm thúc đẩy cách mạng tiến lên. Tư tưởng đúng đắn, thông suốt, lập
trường giai cấp vững vàng, luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên
lịng quyết tâm, ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng; là tiền đề, là
cơ sở để hành động thống nhất, mạnh mẽ và có hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, điểm quan trọng nhất trong cơng tác tư
tưởng là lịng tin vào con người, tin vào những gì tốt đẹp và cao thượng của
con người. Người chỉ rõ: Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lịng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu dần bị mất đi, đó là thái độ của người cách mạng.
Chính lịng tin đó là cơ sở đưa đến những quan niệm cách mạng và khoa học
của Người về công tác tư tưởng.
Trong cơng tác tư tưởng, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng cơng tác lý
luận: "Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới
phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình". Tuy nhiên,
Người nhấn mạnh, lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đơi với hành, nói đi
đơi với làm, tuyệt đối tránh tình trạng "lý luận sng", "nói sng" trong cán
bộ, đảng viên, nhất là trong các cán bộ lãnh đạo.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam có
những nhận thức và hành động đúng đắn với công tác tư tưởng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tư tưởng đã có

những đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi,
nhân dân ta đã bắt tay ngay vào cuộc chiến đấu mới ở cả hai miền Nam Bắc. Đặc điểm lớn nhất của nước ta ở thời kỳ này là đất nước tạm chia cắt
làm hai miền với hai chế độ khác nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam cùng một


20
lúc phải lãnh đạo hai chiến lược khác nhau: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đó là một
thử thách to lớn không chỉ với dân tộc, với Đảng và nhân dân ta. Để giành
được thắng lợi, chúng ta phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc cho
cuộc kháng chiến.
Vì vậy, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng chỉ rõ,
nhiệm vụ của cơng tác tư tưởng là: "Làm cho tồn Đảng, tồn qn và tồn
dân ta trong mọi tình thế đều tin tưởng vững chắc vào đường lối, chủ trương
đối nội và đối ngoại của Đảng; có ý chí quyết chiến, quyết thắng đế quốc Mỹ
xâm lược; ra sức làm tốt nhất mọi công tác trong sản xuất và trong chiến
đấu" [10, tr.128].
Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng:
Tồn bộ cơng tác tư tưởng trước mắt phải hướng vào việc phát
huy cao độ vai trò của cán bộ, đảng viên và các lực lượng nòng
cốt trong quần chúng, tăng cường sự nhất trí trong Đảng, sự đồn
kết trong các tầng lớp nhân, và sự gắn bó giữa quân và dân, tạo ra
một cao trào cách mạng sôi nổi và liên tục trong sản xuất và
chiến đấu [10, tr.130].
Về phương pháp, Đảng chỉ rõ: "Công tác tư tưởng phải kết hợp chặt
chẽ ba mặt: tuyên truyền giáo dục về tình hình, nhiệm vụ và đường lối, chủ
trương của Đảng trong hồn cảnh mới; nâng cao trình độ hiểu biết về quản
lý kinh tế và kỹ thuật, về chiến tranh nhân dân và quốc phịng tồn dân; bồi
dưỡng phẩm chất và đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản".

Bên cạnh đó, Đảng nhấn mạnh, trong q trình tiến hành công tác tư
tưởng phải tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại, nhằm tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là


21
của Liên Xô và Trung Quốc, và của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc của nhân dân ta.
Tại thời điểm gay go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến (1965 - 1975)
khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến, Đảng ta xác định: Điều quan trọng nhất đối
với dân tộc ta là vấn đề tư tưởng. Quân và dân miền Nam nói riêng, cả nước
nói chung phải xác định được lập trường kiên định, đó là cái gốc của mọi vấn
đề, là chiếc chìa khóa mở ra những thắng lợi huy hồng từ đó về sau.
Cơng tác tư tưởng đã làm cho tư tưởng tiến công chiến lược và quán
triệt tư tưởng tiến công trên mặt trận tư tưởng thấu suốt trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, tạo sự thống nhất về tư tưởng hành động trong xã hội. Đồng
thời phát hiện và uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, sai lầm đi ngược lại với
đường lối, chính sách của Đảng. Từ đó xây dựng sự vững vàng về tư tưởng
chính trị trong nội bộ, giáo dục cảnh giác, chống chiến tranh tâm lý của địch.
Trong thời điểm này, bằng nhiều hoạt động phong phú, công tác tư
tưởng của Đảng đã tiến hành động viên chính trị sâu rộng, mạnh mẽ, liên tục
trong Đảng và trong nhân dân, làm cho toàn Đảng, toàn dân tin tưởng vào
đường lối cách mạng của Đảng, phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Trong 21 năm chống Mỹ, cứu nước và đưa miền Bắc quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, với quan điểm "có vũ khí tư tưởng sắc bén mới có vũ khí bằng
sắt thép sắc bén để chiến thắng quân thù", cơng tác tư tưởng đã góp phần
quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ đó, qua mỗi bước chuyển của cuộc
chiến tranh, công tác tư tưởng đã tiến hành động viên chính trị sâu rộng, mạnh

mẽ, liên tục trong Đảng và trong nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhất trí sâu sắc với đường lối cách mạng của Đảng và quyết tâm với


22
chiến lược của Trung ương. Từ đó mà biến quyết tâm và niềm tin thành những
hành động cụ thể trong thực tế để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của
cuộc kháng chiến.
Đảng đã huy động các cơ quan tuyên truyền và văn hóa của Đảng, Nhà
nước, các ngành, các giới, các lực lượng phối hợp tiến hành động viên chính
trị, giáo dục tư tưởng, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, những người có
trách nhiệm đi đầu, vận động và tổ chức phong trào quần chúng. Đặc biệt,
trước những bước ngoặt, khi tình hình trong nước và quốc tế có những biến
động phức tạp, khi địch dùng những thủ đoạn quyết liệt để chống phá, khi
cách mạng thắng lợi cũng như khi gặp khó khăn, tổn thất, công tác tư tưởng
đã căn cứ vào các nghị quyết của Đảng tạo sự thống nhất về nhận thức, khắc
phục những lệch lạc, định hướng đúng cho hành động của toàn Đảng, toàn
dân. Trong cuộc chiến đấu trường kỳ, quyết liệt và phức tạp đó, cơng tác tư
tưởng đã thường xuyên xây dựng, vun đắp và củng cố niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của dân tộc, dám đánh Mỹ, sáng tạo
nhiều cách đánh Mỹ, kiên quyết đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tư tưởng "Khơng có gì
q hơn độc lập, tự do","u nước và yêu chủ nghĩa xã hội là một", là những
chủ đề xuyên suốt trong hoạt động tư tưởng. Những tấm gương anh hùng,
dũng sĩ diệt Mỹ, những "người tốt, việc tốt", những cái hay, cái đẹp nảy sinh
trong sản xuất, chiến đấu và cơng tác được nêu cao, góp phần xây dựng đạo
đức mới, nếp sống mới của con người Việt Nam, đồng thời đấu tranh bảo vệ v
ăn hóa dân tộc, chống văn hóa nơ dịch và đồi trụy của Mỹ - ngụy.
Công tác tư tưởng đã kết hợp tốt với công tác tổ chức, tập hợp rộng rãi
tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước

của tồn dân, với khí thế sôi nổi, hào hùng, thu hút mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi


23
tư miền xuôi đến miền ngược, từ tiền tuyến đến hậu phương, trên mọi lĩnh
vực sản xuất, chiến đấu và cơng tác. Với trí thơng minh, sự sáng tạo của quần
chúng, tất cả các giai cấp, tầng lớp từ nông dân, cơng nhân đến bộ đội, du
kích và nhà khoa học đều có những hành động thiết thực tạo nên sức mạnh
tổng hợp vì mục tiêu cao cả: "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Mỗi
phong trào cách mạng của các ngành, các giới đều mang đậm khí phách của
dân tộc đem lại kết quả to lớn cho công việc, cho tổ chức, cho con người; là
một thành công lớn và kinh nghiệm quý báu trong công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng của Đảng.
Trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
Đảng chỉ rõ: Khi nhân dân lao động đã được giải phóng thì yếu tố tinh thần
có tác dụng vơ cùng to lớn trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới. Đảng
khẳng định: tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật là những vũ khí sắc bén mà
chính đảng của giai cấp cơng nhân phải nắm lấy để thúc đẩy tồn bộ sự
nghiệp cách mạng tiến lên, thúc đẩy công cuộc xây dựng xã hội mới: "Tư
tưởng, văn hóa, kỹ thuật là ba mặt có liên hệ chặt chẽ với nhau và thúc đẩy
nhau phát triển, nhưng tư tưởng vẫn là cơ sở. Cách mạng văn hóa và kỹ
thuật khơng thể giành được thắng lợi, nếu không dựa vững trên những
thành quả của cách mạng tư tưởng" [9, tr.550]. Dù bị địch đánh phá rất các
liệt nhưng nhân dân miền Bắc vẫn vượt qua những khó khăn, thử thách
gian nan để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm nghĩa vụ hậu
phương lớn với tiền tuyến lớn miền Nam.
Trong điều kiện đất nước bị đánh phá ác liệt ở cả hai miền, đội ngũ cán
bộ làm công tác tư tưởng đã vượt qua bom đạn của kẻ thù, chịu đựng hi sinh
gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.



24
Công tác tư tưởng là hoạt động trọng yếu của Đảng. Nó bao gồm ba bộ
phận: cơng tác lý luận gồm bản thân hoạt động lý luận biểu hiện tập trung ở
việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng; công tác tuyên truyền, cổ
động nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối, chính sách của Đảng vào quần
chúng, biến thành phong trào cách mạng nhằm hiện thực hoá lý luận và
đường lối, chính sách. Trong hoạt động tư tưởng, cơng tác lý luận có tầm
quan trọng bậc nhất vì nó quyết định đến hoạt động tun truyền, cổ động.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, công tác tư tưởng của Đảng được
tiến hành trong điều kiện đặc biệt, đất nước chia làm hai miền, mỗi miền thực
hiện một chiến lược cách mạng khác nhau, tuân thủ những quy luật khác
nhau: quy luật xây dựng và quy luật chiến tranh. Đây chính là điểm khó khăn
nhưng độc đáo nhất trong tác tư tưởng thời kỳ này. Công tác tư tưởng đã có
những trưởng thành và có những đóng góp nổi bật góp phần giải quyết nhiều
vấn đề lý luận nan giải trong công cuộc xây dựng, bảo vệ miền Bắc, trong
cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ; góp phần hình thành đường lối độc
lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng và truyền ý chí, quyết tâm của Đảng
đến toàn quân, toàn dân tạo nên cao trào cách mạng sôi sục cả hai miền Nam Bắc góp phần vào cuộc đại thắng.
Nhưng trong hồn cảnh có chiến tranh do sự chi phối của trật tự hai cực
Ianta, do những hạn chế chung trong hệ thống xã hội chủ nghĩa - sự chậm trễ,
chủ quan, lạc hậu trong lý luận mà cơng tác tư tưởng cũng có những nhược
điểm: chủ quan, đơn giản, một chiều. Những khuyết điểm này có tính lịch sử,
nếu được phát hiện và điều chỉnh, nó sẽ phù hợp khi đất nước chuyển sang
hồ bình và thực tiễn quốc tế biến đổi.


25
Chương 2
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

THỜI KỲ 1975 - 1986
2.1. Đặc điểm tình hình và yêu cầu đặt ra với cơng tác tư tưởng
2.1.1. Đặc điểm tình hình
Cơng tác tư tưởng của Đảng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong
nước có nhiều biến động phức tạp.
2.1.1.1. Tình hình quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật lần thứ hai (hay còn gọi là cuộc
cách mạng khoa học công nghệ) tiếp tục phát triển tạo ra những thay đổi to
lớn đối với đời sống của nhân loại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra khối lượng vật chất vô cùng to
lớn, tạo ra bước phát triển mới cho các quốc gia. Nó đưa lồi người bước sang
nền văn minh thứ ba - nền văn minh tri thức.
Cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 70, dẫn đến hậu quả các nước
tư bản đều suy yếu. Với sự năng động và nhạy bén, các nước tư bản đã điều
chỉnh chiến lược trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, giáo dục, an
ninh quốc phịng; đặc biệt với việc áp dụng các thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, đã giúp các nước tư bản khôi phục lại sự phát
triển và vươn lên mạnh mẽ. Đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX, xuất
hiện hai trung tâm kinh tế thế giới lớn là: Nhật Bản và Tây Âu, tạo ra sức
ép với Mỹ.
Sau thất bại ở chiến tranh Việt Nam, uy tín và ảnh hưởng của Mỹ trên
trương quốc tế đã giảm so với thời kỳ trước đó. Nhưng với âm mưu làm bá
chủ thế giới, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chạy đua vũ trang, phát
động chiến tranh lạnh để lấy lại vị thế của cường quốc số một trên thế giới.


×