Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

chất lượng đội ngũ kiểm sát viên sơ cấp của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.59 KB, 133 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân
ta đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa. Đồng thời, từng bước xây dựng Nhà
nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt Nam của nhõn dõn, do nhõn dõn, vỡ
nhõn dõn. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong những năm qua,
cùng với sự phát triển chung của đất nước, công tác của ngành Kiểm sát nhân
dân đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm để mọi hành vi xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân đều được xử lý theo quy định của phỏp luật.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung,
trong đó có Viện kiểm sát nhân dân còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Đảng ta đã chỉ rõ: "Chất lượng
công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân
dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các
quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [4, tr.1].
Những tồn tại, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, nhưng trước hết là do:


2
Đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp cịn thiếu về số lượng, yếu


về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách
nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề
nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu
lực của bộ máy nhà nước... [6, tr.1].
Trước tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, với tính chất ngày càng tinh
vi, xảo quyệt và hậu quả ngày càng nghiêm trọng; các khiếu kiện hành chính,
các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có
yếu tố nước ngồi có chiều hướng gia tăng về số lượng và tính chất các vụ
việc phức tạp hơn. Trong khi đó, với việc tăng thẩm quyền cho Toà án cấp
huyện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 đã được sửa đổi bổ sung và Luật Tố tụng hành chính thì
phần lớn các vụ án hình sự, các vụ việc dân sự, hành chính xảy ra ở địa
phương đều do các cơ quan tư pháp cấp huyện giải quyết. Thực tế cho thấy,
giải quyết tốt ở cấp cơ sở sẽ nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với các loại
tội phạm và vi phạm phỏp luật. Với vị trí độc lập trong hệ thống các cơ quan
nhà nước ở cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có cơ cấu cơng
chức gồm Viện trưởng, Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên sơ cấp và một số
cán bộ giúp việc. Trong đó, đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp có số lượng đông
đảo nhất, là lực lượng chủ yếu và trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp ở cấp huyện, có vai trị quyết định tới chất lượng,
hiệu quả hoạt động công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Đó cịn là
lực lượng hậu bị, là nguồn nhân sự chính để tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên trung cấp của ngành Kiểm sát nhân dân. Để thực hiện tốt chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại địa phương,
góp phần bảo vệ phỏp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới thì vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm
sát viên, đặc biệt là chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm


3

sát nhân dân (Viện KSND) cấp huyện là đòi hỏi cấp thiết, khách quan trong
giai đoạn hiện nay.
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện,
nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
"Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"; Kết luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị "Về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"; Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ... trong đó xác định
nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là: đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững
mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; đồng thời đề ra
những yêu cầu cụ thể về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp; đổi mới các thủ tục tố tụng tư pháp. Đối với Viện KSND, Đảng ta xác định
rõ: Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm tốt
hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Đồng thời, tiếp tục nghiên
cứu để đổi mới tổ chức Viện KSND phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo
tinh thần cải cách tư pháp, theo đó hệ thống với 4 cấp Viện KSND gồm: Viện
KSND tối cao, Viện KSND cấp cao, Viện KSND cấp tỉnh và Viện KSND khu
vực; như vậy, Viện KSND cấp huyện sau này trở thành Viện KSND khu vực - là
nơi giải quyết hầu hết các loại án (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế …), công
việc nhiều nhưng chủ yếu do đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp giải quyết.
Để nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, bảo đảm xử lý nghiêm minh vi phạm và tội phạm, bảo đảm
không xảy ra oan, không sai, không bỏ lọt tội phạm … nâng cao vị thế của


4
Viện KSND đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, đặc biệt là

chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện. Do đó, tác
giả chọn đề tài “Chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện Kiểm sát
nhân dân cấp huyện ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình tại
Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư
pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện KSND, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu khoa học cũng như chỉ đạo thực tiễn trong và ngoài ngành
Kiểm sát. Liên quan đến nội dung của luận văn này có một số cơng trình sau:
- Viện KSND tối cao (2002): Những giải pháp xây dựng đội ngũ Kiểm
sát viên cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, do Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện.
- Trách nhiệm của Kiểm sát viên Viện KSND trong thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
hiện nay, luận văn thạc sĩ luật của Nguyễn Mạnh Hà, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- Hồn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, luận
văn thạc sĩ luật của Nguyễn Thị Hương, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- Chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên Viện KSND cấp huyện ở tỉnh Thái
Nguyên, Luận văn thạc sỹ luật của Nguyễn Hữu Phương, 2008.
Ngồi ra, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu được cơng bố trên các tạp
chí chun ngành, sách, báo của các nhà khoa học pháp lý có liên quan như:
Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm,


5
Lê Thị Tuyết, Tạp chí Kiểm sát, tháng 10/2001; Kiểm sát viên với việc tranh
tụng tại phiên tịa hình sự, Nguyễn Tiến Đạm, Tạp chí Kiểm sát, tháng

12/2003; Vai trị của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại phiên tịa,
TS. Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát, số 12/2005...
Tuy vậy, chưa có đề tài, cơng trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu về
chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện trong
phạm vi tồn quốc. Từ tình hình trên cho thấy, đề tài luận văn "Chất lượng đội
ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện ở Việt
Nam" khơng trùng lặp với bất kỳ cơng trình nào đã công bố. Tuy nhiên, những
kết quả nghiên cứu nêu trên là nguồn tư liệu phong phú cho tác giả thực hiện
luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội
ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ
cấp của Viện KSND cấp huyện ở Việt Nam trong thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khoảng 5 năm trở lại đây (từ năm 2008
đến tháng 10/2012).
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện, đưa ra tiêu
chí đánh giá chất lượng, trên cơ sở đó đề xuất, luận chứng các giải pháp cơ bản
nhằm bảo đảm chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp
huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.


6
4.2. Nhiệm vụ
Với mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Phân tích vị trí, vai trị của Viện KSND cấp huyện và đội ngũ Kiểm sát
viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện.
- Xây dựng khái niệm chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện
KSND cấp huyện, các tiêu chí đánh giá, điều kiện bảo đảm chất lượng Kiểm
sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện ở Việt nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện
KSND cấp huyện trên phạm vi toàn quốc trong thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, rút ra ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế liên quan đến chất lượng đội ngũ
Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện hiện nay.
- Đề xuất và luận chứng các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm chất
lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện ở Việt Nam
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, về xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức thời kỳ đổi mới, trực tiếp là các quan điểm về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức ngành tư pháp trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, trực tiếp là các phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực
tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngồi
ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, ...


7
6. Những đóng góp mới của luận văn
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn có những điểm mới về mặt khoa học

sau:
Thứ nhất: Làm rõ hơn các tiêu chí đánh giá chất lượng và điều kiện bảo đảm
chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện.
Thứ hai: Phản ánh được thực trạng chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ
cấp của Viện KSND cấp huyện hiện nay, rút ra những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân của những hạn chế liên quan đến chất lượng đội ngũ Kiểm sát
viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện ở Việt Nam.
Thứ ba: Đề xuất và luận chứng các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất
lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giải đáp về mặt lý luận và
thực tiễn vấn đề chất lượng của Kiểm sát viên sơ cấp ở cấp cơ sở trong hệ
thống tổ chức bộ máy của ngành Kiểm sát nhân dân trên trên phạm vi toàn
quốc; luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên
cứu, đào tạo luật về những vấn đề liên quan đến đề tài.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


8


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ KIỂM SÁT VIÊN SƠ CẤP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ ĐỘI

NGŨ KIỂM SÁT VIÊN SƠ CẤP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.1.1. Vị trí, vai trị của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện
1.1.1.1. Vị trí, vai trị của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện trong tổ
chức bộ máy của ngành Kiểm sát nhân dân
Viện KSND là một trong những thiết chế quyền lực, thừa hành quyền
lực Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của nó phụ thuộc vào mơ hình và cách
thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Trên thế giới, mỗi quốc gia có
cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực riêng cho nhà nước của mình. Đối
với hầu hết các Nhà nước tư sản đều tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
theo mơ hình phân quyền. Theo đó, quyền lực nhà nước được phân chia thành
ba nhánh độc lập, giao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau thực hiện, trong
khi thực hiện quyền lực có sự đối trọng và chế ước lẫn nhau. Ở những nước
này khơng có cơ quan Viện KSND, mà chỉ có cơ quan Viện cơng tố và cơ
quan này cũng không phải là một hệ thống độc lập, nó có thể nằm trong tổ
chức của Tịa án hoặc chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp hay của Chính phủ.
Chức năng cơ bản của Viện cơng tố của các nước này là đưa kẻ phạm tội ra
trước Tòa án và thực hiện sự buộc tội đối với hành vi phạm tội của người đó.
Đối với các nước tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo mơ hình
tập quyền, trong đó có các nước xã hội chủ nghĩa, với nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thơng
qua cơ quan đại diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.


10
Trong bộ máy nhà nước của các quốc gia này tồn tại một hệ thống cơ quan
Viện KSND có vị trí độc lập, trực thuộc Quốc hội. Viện KSND được giao chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Cùng với sự ra đời, phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước, hệ
thống cơ quan Viện KSND cũng không ngừng được củng cố. Ngay từ khi

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến trước khi có Hiến pháp năm
1959, cơ quan Công tố chưa được tổ chức thành một cơ quan độc lập mà đặt
trong hệ thống cơ quan Toà án. Toà án đồng thời làm cả chức năng thực hành
quyền Công tố và “trông nom” việc áp dụng phỏp luật (giám sát việc chấp
hành pháp luật của các hoạt động tư pháp). Chức năng công tố được giao cho
Thẩm phán (gọi là Thẩm phán buộc tội). Trong giai đoạn này có lúc chức
năng cơng tố được giao cho Uỷ viên cơng tố thực hiện. Uỷ viên cơng tố có
nhiệm vụ chỉ đạo điều tra, trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, quyết định
việc truy tố, luận tội trước Toà, kháng nghị các bản án và giám sát việc chấp
hành phỏp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ, cải tạo và thi hành
án, tham gia trong một số loại việc dân sự để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và
xã hội. Đến năm 1958 cơ quan Công tố được tách ra khỏi hệ thống Toà án và
trở thành một hệ thống cơ quan trực thuộc Chính phủ, hệ thống Viện cơng tố
ở các địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực
thuộc, vừa chịu sự lãnh đạo của Viện công tố cấp trên về chuyên môn nghiệp
vụ, đồng thời chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban hành chính cùng cấp. Viện cơng tố
có bốn cấp phù hợp với hệ thống cơ quan Tồ án, gồm Viện cơng tố Trung
ương, Viện công tố phúc thẩm (được tổ chức theo vùng lãnh thổ), Viện công
tố cấp tỉnh, Viện công tố cấp huyện và Viện công tố quân sự các cấp.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Viện KSND năm 1960,
hệ thống cơ quan Viện KSND được thành lập trong bộ máy nhà nước, một mơ
hình bộ máy nhà nước được coi là “kiểu mới” theo tư tưởng của V.I.Lênin


11
nhằm bảo đảm pháp chế thống nhất. Trải qua các thời kỳ cách mạng, sau các lần
sửa đổi Hiến pháp thì Viện KSND lại có những thay đổi về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn nhưng với những kết quả công tác đã đạt được, Viện KSND luôn
khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong bộ máy nhà nước, là công cụ
sắc bén, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân

tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những thay đổi
nhanh chóng và sâu sắc của các điều kiện kinh tế - xã hội, để phù hợp với xu
thế phát triển chung của đất nước, chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND đã
được điều chỉnh. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ
sung tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá X ngày 25/12/2001) và Luật Tổ chức
Viện KSND năm 2002, Viện KSND không thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa mà tập
trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
Theo quy định của Hiến pháp và phỏp luật, hệ thống Viện KSND ở nước
ta hiện nay được tổ chức ở 3 cấp theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Ở Trung
ương là Viện KSND tối cao; ở địa phương là các Viện KSND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, các Viện KSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và VKS quân sự các cấp. Trong đó:
- Viện KSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm cho phỏp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất;
- Các Viện KSND địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi, trách nhiệm
do luật định [32, tr.8].


12
Là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, Viện
KSND cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước là tập trung dân chủ [31, tr.13]. Đồng thời, xuất phát từ
chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND là cơ quan bảo vệ pháp chế, Viện
KSND còn được tổ chức và hoạt động theo một nguyên tắc đặc thù, đó là
nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất trong ngành. Theo đó, Viện KSND

do Viện trưởng lãnh đạo; Viện trưởng Viện KSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo
của Viện trưởng Viện KSND cấp trên; Viện trưởng Viện KSND các địa
phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện KSND tối cao [32,
tr.40].
Viện KSND tối cao với vai trò là trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn ngành,
ngoài việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền của mình cịn phải
tập trung vào các công việc ở tầm vĩ mô như xác định phương hướng hoạt
động, mục tiêu cơng tác của tồn Ngành trong từng giai đoạn; chỉ đạo, hướng
dẫn, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, chỉ thị cơng tác trong tồn ngành;
sơ kết, tổng kết, hướng dẫn, xây dựng lý luận nghiệp vụ, xây dựng các quy
chế, chế độ công tác; đề xuất và tham gia xây dựng phỏp luật; giải quyết
những vấn đề lớn trong quan hệ phối hợp với các ngành hữu quan.
Viện KSND cấp tỉnh, là cấp vừa trực tiếp thực hiện công tác kiểm sát
theo thẩm quyền cấp mình, mặt khác vừa có nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo trực
tiếp đối với Viện kiểm sát cấp huyện cả về công tác tổ chức cán bộ và chuyên
môn nghiệp vụ.
Viện KSND cấp huyện là cấp cơ sở, cấp trực tiếp thực hiện các nội dung
của công tác kiểm sát theo thẩm quyền, thực hiện các mục tiêu công tác cụ thể
mà Viện kiểm sát cấp trên đề ra. Về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện
phù hợp với thẩm quyền của Tòa án nhân dân cùng cấp, theo quy định tại
Điều 170- BLTTHS năm 2003 thì Tồ án cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ


13
thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng và tội rất nghiêm trọng mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy đến 15 năm tù (BLTTHS năm 1988 chỉ giao cho Toà án cấp huyện xét
xử đến 7 năm tù), trừ một số tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá
hoại hồ bình, chống lồi người theo quy định của phỏp luật.
Theo quy định tại Điều 33- BLTTDS năm 2004, Tồ án cấp huyện có

thẩm quyền giải quyết những tranh chấp và yêu cầu về dân sự, hơn nhân và
gia đình, về kinh doanh, thương mại, lao động và những yêu cầu về dân sự
rộng hơn so với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án lao động năm 1996.
Với việc thực hiện thẩm quyền mới thì phần lớn các vụ án hình sự và
các vụ, việc dân sự đều do Toà án cấp huyện giải quyết, điều đó cũng đồng
nghĩa với khối lượng và tính chất cơng việc của Viện KSND cấp huyện có sự
thay đổi theo, nhất là trong tố tụng hình sự. Qua đó có thể thấy, chất lượng,
hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của ngành Kiểm sát có sự đóng góp rất lớn của các Viện KSND cấp huyện.
Do vậy, Viện KSND cấp huyện cần được tăng cường và tạo điều kiện về mọi
mặt để góp phần tích cực vào việc hồn thành tốt nhiệm vụ chung của tồn
ngành.
1.1.1.2. Vị trí, vai trị của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện trong hệ
thống các cơ quan Nhà nước cấp huyện
Một là, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được giao thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước ở cấp huyện, mỗi cơ quan có
những chức năng, nhiệm vụ riêng, như chức năng xét xử của Tòa án, chức


14
năng điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra... nhưng khi nói đến
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là nói
đến chức năng duy nhất chỉ có của cơ quan Viện KSND.
Từ trước khi có Luật tổ chức Viện KSND được thơng qua cho đến nay
vẫn cịn có nhiều ý kiến đề nghị cần phân định rõ hai chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp để xác định rõ hơn phạm vi

cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND.
Tác giả đồng quan điểm với ý kiến cho rằng, xét cả về mặt lý luận và
thực tiễn, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp ln có quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ với nhau, nếu làm tốt chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ tạo cơ sở, điều kiện thuận lợi cho hoạt
động thực hành quyền công tố và ngược lại.
Mặc dù chưa có một quy phạm pháp luật nào quy định hoặc khái niệm
thế nào là thực hành quyền công tố và thế nào là kiểm sát các hoạt động tư
pháp nhưng có thể hiểu được nội hàm của nó thơng qua Luật tổ chức Viện
KSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện KSND và các văn bản quy phạm pháp
luật khác về tư pháp. Theo đó, những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát
trực tiếp thực hiện để quyết định và liên quan đến việc cáo buộc người phạm
tội thì đó là quyền năng thuộc nội dung chức năng thực hành quyền công tố;
những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát sử dụng để phát hiện và yêu cầu
xử lý các vi phạm pháp luật của các cơ quan và người tiến hành tố tụng, là
những quyền năng thuộc nội dung chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Từ đó có thể hiểu là: “Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung chức năng thực hành
quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong
các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử hình sự" [45, tr.27]. Nội dung thực
hành quyền cơng tố chính là sự buộc tội đối với người đã thực hiện tội phạm.


15
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng Hiến định của Viện
KSND, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp
và các cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động tư pháp trong
quá trình điều tra, xét xử, thi hành án, nhằm bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [15, tr.18].
Chức năng thực hành quyền công tố được thực hiện trong tất cả các giai

đoạn của tố tụng hình sự, từ khi khởi tố, điều tra, truy tố và tại các phiên tòa
xét xử sơ thẩm án hình sự. Viện kiểm sát thực hành quyền cơng tố nhằm bảo
đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không
để người nào bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái
pháp luật.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được Viện kiểm sát thực hiện
trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, dân sự nhằm bảo đảm các hoạt
động điều tra, xét xử, thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tịa án
nhân dân được tn thủ theo đúng quy định của pháp luật. Khi phát hiện các
hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng có vi phạm
pháp luật thì Viện kiểm sát kháng nghị hoặc kiến nghị yêu cầu chấm dứt vi
phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm phạm.
Hai là, Viện KSND có vị trí độc lập với các cơ quan nhà nước ở cấp
huyện. Tuy nhiên, kết quả công tác cũng đều hướng tới phục vụ nhiệm vụ
phát triển chung của địa phương.
Viện KSND cấp huyện là cấp cơ sở trong hệ thống cơ quan Viện KSND,
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Đây là nguyên tắc
đặc thù của ngành Kiểm sát nhân dân, có ý nghĩa hết sức quan trọng để Viện
KSND các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, khơng bị lệ thuộc


16
hay chịu bất cứ sự can thiệp nào từ phía các cơ quan Nhà nước ở địa phương,
góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
đều phải được xử lý theo pháp luật.
Tuy có vị trí độc lập, khơng nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy của chính

quyền địa phương, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động của Cơ quan điều tra, Tòa án,
Thi hành án cùng cấp nhưng theo quy định của pháp luật, Viện KSND cấp
huyện có trách nhiệm báo cáo cơng tác và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân
dân cùng cấp, trả lời chất vấn, kiến nghị của Đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều này khơng ảnh hưởng đến tính độc lập của ngành Kiểm sát mà cịn có ý
nghĩa quan trọng để tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của Viện kiểm sát, tạo điều kiện để cơ quan này thực hiện tốt hơn
chức năng, nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương trong
q trình thực thi nhiệm vụ. Kết quả cơng tác kiểm sát phải bảo đảm nguyên
tắc pháp chế và phục vụ u cầu nhiệm vụ chính trị, góp phần tích cực vào
việc ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện thắng lợi các mục tiêu
phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Về tổ chức bộ máy của Viện KSND cấp huyện được chia làm ba bộ phận
công tác: Bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử
hình sự và kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam; Bộ phận kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và
những việc khác theo quy định của pháp luật; Bộ phận văn phòng tổng hợp,
thống kê tội phạm, xét khiếu tố.
Như vậy, trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở cấp huyện phải có Viện
KSND, khơng thể có cơ quan nào khác làm thay chức năng thực hành quyền


17
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương, góp phần bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
Vốn quý nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là đội ngũ cán bộ.
Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công

hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. V.I. Lênin đã từng chỉ rõ: “trong lịch sử
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những người lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Và khi đã
nắm được chính quyền, tiến hành cơng cuộc xây dựng CNXH, V.I. Lênin tiếp
tục khẳng định “nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh, hiện
nay đó là then chốt, nếu khơng thể thì tất cả mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là
mớ giấy lộn” [19, tr.449].
Cùng với quan điểm trên, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [22, tr.273].
Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó, như đối với cơ quan Tịa án thì
người giữ vai trị trung tâm để thực hiện chức năng xét xử là Thẩm phán, hay
đối với Cơ quan điều tra, người giữ vai trò trung tâm để thực hiện chức năng
điều tra các vụ án hình sự là Điều tra viên. Tại cơ quan Viện KSND cấp huyện
có nhiều cán bộ, cơng chức nhưng người chuyên làm công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có thẩm quyền ra các quyết
định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của phỏp luật chỉ có Kiểm
sát viên. Kiểm sát viên ở Viện KSND cấp huyện hiện nay bao gồm các
ngạch: Kiểm sát viên trung cấp và Kiểm sát viên sơ cấp. Trong đó, Kiểm sát


18
viên trung cấp chỉ có từ 01 đến 02 người giữ chức vụ Viện trưởng hoặc Phó
Viện trưởng Viện KSND cấp huyện, đồng thời họ thường phải tham gia các
công việc của cấp ủy và chính quyền địa phương với vai trò là Ủy viên Ban
Chấp hành Đảng bộ cấp huyện hoặc là Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
huyện. Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện chiếm đa số, khoảng
70% biên chế cấp huyện, là những người trực tiếp thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp; là nguồn tuyển chọn, bổ nhiệm chức
danh Kiểm sát viên trung cấp.
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện KSND năm 2002
thì: “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [39,
tr.1]. Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên
Viện KSND năm 2002, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011 thì Kiểm sát viên
Viện KSND ở nước ta gồm có: Kiểm sát viên Viện KSND tối cao; Kiểm sát viên
trung cấp được bố trí cơng tác chủ yếu ở Viện KSND cấp tỉnh, Viện kiểm sát
quân sự cấp quân khu và tương đương; Kiểm sát viên sơ cấp được bố trí cơng tác
chủ yếu ở Viện KSND cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Một người muốn được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên phải đáp ứng được
những tiêu chuẩn mà của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện KSND quy định, đó
là: Cơng dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình
độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên
quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có sức khoẻ bảo đảm hồn thành nhiệm vụ
được giao, thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên [39, tr.2].
Điều 18 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát
viên Viện KSND quy định: Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của
Pháp lệnh này, có thời gian làm cơng tác pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng


19
lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm
quyền của Viện KSND cấp huyện...thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Kiểm sát viên sơ cấp.
Điều 19 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát
viên Viện KSND quy định:
1. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh này và đã là

Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất là năm năm, có năng lực thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện KSND cấp
tỉnh, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với cấp dưới, thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp.
Điều 20 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát
viên Viện KSND quy định:
1. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh này và đã là
Kiểm sát viên trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực thực hành quyền
cơng tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện KSND
tối cao, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với cấp dưới, thì có
thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện KSND tối cao.
Như vậy, có thể hiểu: Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện
là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc
thẩm quyền cấp huyện, chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng và sự hướng dẫn
về nghiệp vụ của Kiểm sát viên trung cấp.
Theo quy định của Pháp lệnh về tiêu chuẩn các ngạch Kiểm sát viên, ta
có thể phân biệt sự khác biệt giữa Kiểm sát viên sơ cấp với Kiểm sát viên
trung cấp (hoặc Kiểm sát viên cao cấp khi có 4 ngạch Kiểm sát viên theo cải
cách tư pháp) của Viện KSND cấp huyện ở một số điểm sau đây:


20
Một là, Kiểm sát viên sơ cấp có thời gian tối thiểu làm cơng tác pháp luật
là 4 năm, cịn thời gian làm công tác pháp luật tối thiểu để có thể bổ nhiệm
làm Kiểm sát viên trung cấp là 10 năm hoặc đã giữ ngạch Kiểm sát viên sơ
cấp ít nhất 5 năm (với Kiểm sát viên cao cấp thì tiêu chuẩn về thời gian làm
cơng tác pháp luật cịn cao hơn nữa).
Hai là, về số lượng thì Kiểm sát viên trung cấp (hoặc Kiểm sát viên cao
cấp) chỉ có khoảng 10-15% so với biên chế của một đơn vị Viện KSND cấp

huyện, đồng thời giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và thường phải tham gia các
công việc khác theo sự phân công của cấp ủy địa phương. Số lượng Kiểm sát
viên sơ cấp chiếm (đa số) khoảng 60 - 75%, cịn lại là các ngạch cơng chức
khác. Vì vậy, các hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền Viện KSND cấp huyện chủ yếu do
Kiểm sát viên sơ cấp đảm nhiệm.
Với chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao, Kiểm sát viên sơ cấp của
Viện KSND cấp huyện có vị trí, vai trị rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp
luật và pháp chế XHCN, được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, Kiểm sát viên sơ cấp ở mỗi Viện KSND cấp huyện là lực
lượng chủ yếu và trực tiếp giải quyết các công việc theo chức năng, nhiệm
vụ và thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Viện KSND cấp huyện.
Trong khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Kiểm sát viên sơ cấp được trực tiếp sử dụng quyền:
- Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm;
- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ
của Cơ quan điều tra;
- Đề ra yêu cầu điều tra;


21
- Triệu tập hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án;
- Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
- Tham gia phiên tòa; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên
quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận
tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của

những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án;
- Kiểm sát việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án;
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát [30, tr.9]...
Để nhằm đảm bảo:
- Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự
và nhân phẩm một cách trái phỏp luật;
- Việc điều tra, xét xử, thi hành án... phải khách quan, tồn diện, đầy đủ,
chính xác, đúng pháp luật. Những vi phạm phỏp luật trong hoạt động điều tra,
xét xử, thi hành án phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm
minh; kiến nghị với các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì
khởi tố về hình sự...
Thứ hai, Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện có vị trí mang
tính độc lập cả về nhiệm vụ và quyền hạn trong khi thực hành quyền công tố


22
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghĩa là khơng có một sự can thiệp từ bên
ngồi nào có thể buộc Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một
cách trái pháp luật, trừ Kiểm sát viên cố tình vi phạm. Điều đó được thể hiện ở
việc Kiểm sát viên phải:
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật;
- Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại thì Viện kiểm sát

có Kiểm sát viên cơng tác phải có trách nhiệm bồi thường và người đã gây
thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn theo quy định của pháp luật;
- Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho
rằng việc đó là trái pháp luật; nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát
viên phải chấp hành, nhưng Viện trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định
của mình; trong trường hợp này, Kiểm sát viên có quyền báo cáo lên Viện
trưởng cấp trên trực tiếp và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc
thi hành quyết định đó [39, tr.4].
Thứ ba, Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện là một nhân tố
quan trọng, chủ thể chính của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần tạo dựng lên uy tín của cơ quan Viện KSND.
Một đơn vị Viện KSND cấp huyện có nhiều ngạch công chức như Kiểm
sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm tra viên, chuyên viên, cán sự...
nhưng chỉ có Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp là những người
có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
những người cịn lại chỉ thực hiện những cơng việc mang tính chất giúp việc,
phục vụ cho hoạt động của Kiểm sát viên trong cơng tác. Trong đó, các Kiểm
sát viên sơ cấp chiếm tỷ lệ đa số trong cơ cấu công chức của Viện KSND cấp


23
huyện và là những người trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở cấp huyện. Do vậy, Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND
cấp huyện có vai trị đặc biệt quan trọng trong cơ quan Viện KSND cấp
huyện, hoạt động của họ có ý nghĩa quyết định đến kết quả cơng tác của đơn
vị. Cơ quan Viện kiểm sát mạnh hay yếu, hoạt động có hiệu quả hay khơng,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của nhân dân đến mức độ nào
phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của đội ngũ Kiểm sát viên này.
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của Kiểm sát viên nói chung và của Kiểm sát viên sơ cấp nói riêng có hiệu

quả sẽ dư luận xã hội đồng tình, nâng cao uy tín của cơ quan Viện KSND mà
cao hơn là sự tin tưởng của quần chúng nhân dân vào tính nghiêm minh, cơng
bằng của pháp luật, và ngược lại.
Thứ tư, hoạt động của Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện
góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN.
Trong tất cả các giai đoạn của tố tụng, Kiểm sát viên phải dựa trên các tài
liệu, chứng cứ khách quan, đối chiếu với các quy định của pháp luật để đưa ra
các quyết định, kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu một cách chính xác, kịp thời
với mục đích khơng để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vơ tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân... kịp thời loại trừ các vi phạm pháp luật trong các hoạt động tư pháp.
Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm sát viên sơ cấp sẽ góp
phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, nâng cao uy
tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật và của chính cơ quan Viện KSND.
Như vậy, Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện có vị trí, vai
trị rất quan trọng trong đội ngũ cơng chức Nhà nước nói chung và ở cấp
huyện nói riêng. Chính vì thế, trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước và
ngành Kiểm sát nhân dân đã rất chú trọng đến đội ngũ công chức này, đã tăng


24
cường cả về số lượng và chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, theo báo
cáo của cơ quan có thẩm quyền, cơng tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp ở cấp huyện hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, vẫn còn để xảy ra oan, sai và lọt tội phạm. Điều này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là đội ngũ
Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp huyện chưa được bảo đảm về số
lượng và chất lượng, một bộ phận cịn yếu về năng lực, trình độ, vi phạm
pháp luật và kỷ luật của ngành KSND phải bị xử lý. Bởi vậy, trong tiến trình

cải cách tư pháp, vấn đề bảo đảm chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của
Viện KSND cấp huyện là yêu cầu cấp bách đang đặt ra.
1.2. KHÁI NIỆM, CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
KIỂM SÁT VIÊN SƠ CẤP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.2.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện
Kiểm sát nhân dân cấp huyện
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “chất lượng” được hiểu theo nghĩa
chung nhất là “cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự
việc” [27, tr.44].
Với cách hiểu như trên, chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của
Viện KSND cấp huyện được xem xét dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp
huyện được xác định trong mối tương quan với vị trí, vai trị và nhiệm vụ
được giao. Chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên trong thời kỳ mới địi hỏi phải
có một số lượng, cơ cấu hợp lý so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Tính hợp lý
được biểu hiện ở sự gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, trong đó mỗi cá nhân
được phát huy hết năng lực, sở trường của mình, có thể đảm đương tốt công
việc được giao, đảm bảo cho bộ máy vận hành thông suốt và đạt hiệu quả cao
nhất.


25
Tính hợp lý về số lượng biểu hiện ở sự cân đối và phù hợp giữa số lượng
Kiểm sát viên với khối lượng công việc phải giải quyết, bảo đảm việc đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, phù hợp với đặc điểm, tình hình kinh tế, xã hội
ở từng địa phương. Bên cạnh đó, cịn được thể hiện ở một cơ cấu hợp lý, đó là
sự cân đối giữa các thế hệ, giới tính, dân tộc... Sự hợp lý trong cơ cấu Kiểm
sát viên sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ, tạo ra sự năng động,
phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động thực tiễn.

Thứ hai, chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ cấp của Viện KSND cấp
huyện là tổng hợp chất lượng của từng cá nhân Kiểm sát viên sơ cấp và có thể
đánh giá qua các góc độ như:
Có lập trường chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp
luật và pháp chế XHCN; có phẩm chất đạo đức tốt; ý thức trách nhiệm cao
trước công việc, không vi phạm pháp luật và kỷ luật nghiệp vụ của ngành
Kiểm sát nhân dân.
Có năng lực, trình độ bao gồm: Năng lực tư duy lý luận, năng lực hoạt
động thực tiễn; trình độ chun mơn, lý luận chính trị, kỹ năng nghề nghiệp,
kinh nghiệm công tác, sự am hiểu về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, có khả năng hồn thành tốt nhiệm vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền cấp
huyện, cùng với các yếu tố khác như: sức khỏe, thành phần dân tộc, giới
tính...
Với cách tiếp cận trên, khái niệm chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sơ
cấp của Viện KSND cấp huyện được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ biện
chứng giữa chất lượng của từng Kiểm sát viên sơ cấp với chất lượng của cả
đội ngũ. Chất lượng của từng Kiểm sát viên sơ cấp là yếu tố quyết định tạo
nên chất lượng của cả đội ngũ. Chất lượng của cả đội ngũ thể hiện qua việc
đội ngũ đó có tỷ lệ cân đối, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, được tổ chức


×