Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Thực hiện pháp luật về đặc xá ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.55 KB, 94 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đặc xá là chế định pháp lý được ghi nhận trong Hiến pháp của nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có ý nghĩa tổng hợp về mặt chính trị xã hội - pháp lý, được Nhà nước ta áp dụng đối với người bị kết án phạt tù
vào dịp diễn ra những sự kiện quan trọng của đất nước. Đặc xá vừa thể hiện
bản chất nhân văn, nhân đạo xã hội chủ nghĩa và truyền thống của dân tộc
Việt Nam, vừa bảo đảm những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và có
tác động nhiều mặt khơng chỉ đối với bản thân, gia đình người bị kết án phạt
tù mà cả tồn xã hội.
Đặc xá có tác dụng quan trọng trong việc giáo dục, động viên, giúp đỡ
người phạm tội tích cực phấn đấu, học tập, cải tạo để có thể được hưởng đặc
xá, sớm trở về tái hịa nhập cộng đồng, làm cho người phạm tội cũng như gia
đình họ phấn khởi, tin tưởng vào đường lối, chính sách nhân đạo của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng góp phần vào việc đấu tranh phịng,
chống tội phạm.
Công tác đặc xá được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ những
ngày đầu thành lập nước. Từ năm 1945, khi chính quyền cách mạng mới
thành lập, hệ thống pháp luật vẫn cịn sơ khai, cơng tác đặc xá đã được tiến
hành. Kể từ năm 1945 đến nay, Nhà nước ta đã tiến hành hơn 40 lần đặc xá
cho hàng trăm nghìn người phạm tội. Đặc xá được quy định trong Hiến pháp
năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa và sau đó tiếp tục được
khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992.
Hiện nay, trong quá trình phát triển đất nước, Đảng ta chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, vấn đề cải cách tư
pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đã được đặt ra và là một
trong những yêu cầu cấp bách.


2


Luật đặc xá được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 đã
đánh dấu một bước tiến mới trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta.
Luật cụ thể hoá quy định về thẩm quyền đặc xá của Chủ tịch nước trong
Hiến pháp; xác định rõ những nguyên tắc pháp lý cơ bản, trình tự, thủ tục,
đối tượng, tiêu chuẩn của người bị kết án được hưởng đặc xá, thẩm quyền,
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác trong
việc đặc xá.
Triển khai thực hiện Luật đặc xá và các văn bản hướng dẫn thi hành, số
người được đặc xá trong các năm 2009, 2010 và 2011 lần lượt là: 15.120
người, 17.178 người và 10.233 người. Tuy nhiên, cũng qua quá trình tổ chức
thực hiện, đã xuất hiện một số khó khăn, vướng mắc, bất cập nhất định cần
được tháo gỡ, giải quyết. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục xây dựng và
hồn thiện, tìm ra các giải pháp để bảo đảm thực hiện tốt pháp luật về đặc xá
trong thời gian tới.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả lựa chọn đề
tài: “Thực hiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đặc xá là vấn đề được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu. Có thể liệt kê một số sách, bài viết, cơng trình đề cập đến đề
tài đặc xá đã được cơng bố như: các cuốn sách Tìm hiểu pháp luật về đặc xá,
Nxb Cơng an nhân dân, năm 2006, Tìm hiểu Luật đặc xá, Nxb Tư pháp năm
2008, Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb
Tư pháp, năm 2006 của GS, TS Nguyễn Ngọc Anh. Ngoài ba cuốn sách nêu
trên, GS, TS Nguyễn Ngọc Anh cịn có một số bài viết về đề tài đặc xá, chẳng
hạn, bài Xây dựng dự án Luật đặc xá và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Cảnh
sát nhân dân, số 6/2006, bài Khái niệm đặc xá và một số khái niệm có liên
quan, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10, tháng 5/2007, bài Đặc xá theo pháp



3
luật của một số nước, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11, tháng 7/2007, bài Bàn
về khái niệm, vị trí, vai trị của pháp luật đặc xá, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
13, tháng 7/2007, bài Vài nét về sự phát triển của pháp luật Việt Nam về đặc
xá trước năm 1945, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 16, tháng 8/2007, bài Vị trí,
vai trị của pháp luật về đặc xá, Tạp chí Cơng an nhân dân, số 11/2007.
Vụ Pháp chế - Bộ Cơng an có cuốn Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật
đặc xá, Hà Nội, năm 2009. GS, TSKH Lê Cảm có cuốn Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học QGHN, năm 2005,
trong đó dành 01 chương viết về đặc xá và đại xá. Cục quản lý trại giam, cơ
sở giáo dục, trường giáo dưỡng - Bộ Cơng an xuất bản cuốn Hệ thống hóa
các văn bản về đại xá, đặc xá, Nxb Công an nhân dân, năm 2000.
Về luận văn cao học, tác giả Hà Thị Hồng Phượng có cơng trình Q
trình hình thành, phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật đặc xá ở
Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010;
tác giả Nguyễn Dũng Tiến có luận văn Đặc xá, đại xá: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005.
Về các bài viết khác, tác giả Trần Thế Quân có bài Một số vấn đề về
đối tượng áp dụng của Luật đặc xá; tác giả Nguyễn Trọng Nhâm có bài Cơng
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động đặc xá của V26; tác
giả Trần Vi Dân có bài Phân biệt đặc xá nhân sự kiện trọng đại hoặc ngày lễ
lớn của đất nước với đặc xá trong trường hợp đặc biệt; tác giả Phạm Văn
Cơng có bài Phân biệt đặc xá với miễn chấp hành hình phạt, giảm hình phạt
theo quy định của Luật đặc xá. Các bài viết nêu trên được đăng tải trên Tạp
chí Cơng an nhân dân, số chun đề, tháng 7/2008.
Ngồi ra cịn có một số cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả đã được
đăng tải trong các tập san, tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, Tạp chí Luật học, Tạp chí Kiểm sát…



4
Qua nghiên cứu các cơng trình nêu trên, có thể thấy rằng, đến nay chưa
có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về thực hiện pháp
luật đặc xá ở Việt nam hiện nay. Chính vì vậy, việc chọn chủ đề nghiên cứu về
thực hiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam hiện nay là có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý luân và
thực tiễn về đặc xá và thực hiện pháp luật về đặc xá, qua đó đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đặc xá ở Việt nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận thực hiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam
hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đặc xá ở Việt nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về đặc xá
ở Việt nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: thực hiện pháp luật về đặc xá ở Việt Nam hiện nay
- Phạm vi nghiên cứu: thực thi pháp luật về đặc xá, thời điểm trước khi
có Luật đặc xá và sau khi Luật đặc xá có hiệu lực thi hành cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
đặc xá.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả sử dụng kết

hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, trên cơ sở


5
thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng gồm:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp chuyên gia,
tổng kết thực tiễn và thống kê so sánh.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Đây là cơng trình chun khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối có hệ thống
những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về đặc xá ở Việt nam hiện nay.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về đặc xá ở Việt
Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đảm bảo thực hiện pháp
luật về đặc xá trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức lý luận về thực hiện pháp
luật về đặc xá ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể là tài liệu khoa học có tính thực tiễn, có giá trị tham
khảo trong các chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn trong
lĩnh vực luật học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẶC XÁ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẶC XÁ VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐẶC XÁ

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đặc xá
Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải
tạo là hai mặt đối lập có quan hệ biện chứng với nhau cùng tồn tại trong chính
sách hình sự của các Nhà nước từ trước đến nay. Các Nhà nước trừng trị, giáo
dục, cải tạo người phạm tội qua việc thiết lập nên cơ chế trách nhiệm hình sự,
dùng hình phạt để răn đe, buộc người phạm tội phải chuyển biến tư tưởng và
hành động theo hướng phục thiện. Hỗ trợ cho quá trình cải tạo, giáo dục
người phạm tội, đồng thời cũng để tạo điều kiện cho người phạm tội có điều
kiện và cơ hội phục thiện nhanh hơn, các Nhà nước đều quy định vấn đề
miễn, giảm hình phạt, miễn chấp hành hình phạt và đặc biệt là quy định về
đặc xá - chế định tha tù trước thời hạn trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Về khái niệm đặc xá, tuy đã xuất hiện từ lâu trong hệ thống pháp luật
của nhiều nước, song cho đến nay, quan niệm như thế nào là đặc xá, đặc xá
khác gì so với ân xá và các hình thức tha, miễn, giảm trách nhiệm khác của
Nhà nước đối với người phạm tội còn hết sức khác nhau. Sự khác nhau này
tồn tại trong các quy định thuộc pháp luật thực định của các nước và trong cả
các tài liệu, sách báo pháp lý được viết nên bởi các nhà khoa học. Trong cuốn
sách chuyên khảo sau đại học Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình
sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005, GS. TSKH Lê
Cảm đã tổng kết có đến 6 quan điểm khác nhau của các nhà luật học Liên xô
(cũ) trước đây và Liên bang Nga về đặc xá hoặc liên quan đến đặc xá. Cụ thể:
- Quan điểm của Nheznamôva Z.A cho rằng: đặc xá là một dạng miễn
trách nhiệm hình sự và hình phạt mang tính chất hỗn hợp.


7
- Quan điểm của Rarog A.I cho rằng: đặc xá là văn bản của người có

chức vụ cao nhất của Nhà nước mà theo đó người bị kết án được miễn hồn
tồn hoặc một phần hình phạt đã được quyết định, hoặc được giảm thời hạn
của hình phạt ấy hay thay thế nó bằng loại hình phạt khác nhẹ hơn hoặc được
xóa án tích.
- Quan điểm của Levađơvxkai M.G cho rằng: đặc xá là việc thể hiện sự
nhân đạo theo trình tự ngồi Tịa án đối với những người bị kết án và nhằm hủy
bỏ một phần hoặc hoàn toàn các hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.
- Quan điểm của Đurmanốp N. Đ cho rằng: các văn bản đặc xá chỉ là
các văn bản luật nhà nước mà khơng liên quan gì đến luật hình sự.
- Quan điểm của Tkatrevxki Iu. M cho rằng: các văn bản đặc xá khơng
mang tính chất quy phạm mà mang tính cá biệt, là văn bản áp dụng pháp luật
đối với một người hoặc những người cụ thể và là căn cứ pháp lý để miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
- Quan điểm của Taganxev N.G phân chia đặc xá thành ba loại: a)
induglentia (khơng áp dụng hình phạt tiếp theo do luật định đối với người mà lỗi
đã được xác định theo trình tự của pháp luật); b) restitutio (chấm dứt hình phạt
đang chấp hành) và c) abolitia (loại trừ sự truy tố về hình sự) [11, tr.840-841].
Ở Việt Nam, các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn cũng đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau cho khái niệm đặc xá. Các định nghĩa này xuất
hiện trong hai loại tài liệu phát hành rộng rãi là các cuốn từ điển (đặc biệt là
từ điển pháp lý) và trong bài viết đăng tạp chí, giáo trình Luật hình sự hay
sách chuyên khảo của các nhà nghiên cứu.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp xuất
bản năm 2006 thì đặc xá được hiểu là:
miễn tồn bộ hoặc một phần hình phạt hoặc giảm nhẹ hình phạt, kể
cả miễn trách nhiệm hình sự hoặc xóa án đối với một hoặc một số
người nhất định hoặc một số đơng người đang chấp hành hình phạt,


8

trong trường hợp họ lập công lớn hoặc đã quá già yếu hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo. Quyết định đặc xá thuộc thẩm quyền của Chủ tịch
nước và thường được ban hành nhân dịp Quốc khánh (ngày 2/9
hàng năm), đối với người đang chấp hành hình phạt tù [36, tr.230].
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân xuất bản năm 2000 định nghĩa:
“Đặc xá là miễn toàn bộ hay một phần hình phạt trước thời hạn cho những
phạm nhân có q trình cải tạo tốt, đạt những tiêu chuẩn quy định nhân dịp
những sự kiện chính trị đặc biệt của quốc gia. Người bị kết án tử hình nếu
được đặc xá thì được tha tội chết, giảm thành tù chung thân” [35, tr.218].
Quan điểm của GS. TS Nguyễn Ngọc Anh, trong cuốn sách Tìm hiểu
pháp luật về đặc xá, Nxb Cơng an nhân dân, năm 2008 cho rằng:
Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước
(người đứng đầu Nhà nước) quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị
kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ
lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt [3, tr.16].
Định nghĩa nêu trên của GS. TS Nguyễn Ngọc Anh đã chính thức được
đưa vào luật (khoản 1 Điều 3 Luật đặc xá), trở thành khái niệm pháp lý về đặc
xá ở Việt Nam hiện nay.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 3 Luật đặc xá năm 2007 cũng như thực tiễn
thực hiện pháp luật đặc xá từ trước đến nay, có thể rút ra những đặc điểm cơ
bản của đặc xá với tính chất là một biện pháp tha miễn đặc biệt của Nhà nước
đối với người phạm tội như sau:
- Đặc điểm về bản chất của đặc xá: đặc xá là một hình thức cụ thể thể
hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Do việc thực hiện tội
phạm, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà nước, phải
gánh chịu các chế tài hình sự mà Nhà nước áp dụng với họ, đồng thời cũng có
quyền được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước khi đã cải tạo tốt. Về phía
Nhà nước, xuất phát từ trách nhiệm trước xã hội, Nhà nước có nghĩa vụ quy



9
định và áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự để phòng ngừa, đấu tranh
với tội phạm. Đồng thời, để nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm cũng như để giảm bớt gánh nặng của xã hội, Nhà nước có thể áp
dụng các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự nhất định (trong đó có
đặc xá) đối với người phạm tội đang phải chấp hành án.
- Đặc điểm về chủ thể quyết định đặc xá: đặc xá là biện pháp miễn,
giảm đặc biệt của Nhà nước với người phạm tội. Do đó, chỉ có những chủ thể
đặc biệt mới có quyền đại diện cho Nhà nước quyết định áp dụng biện pháp
này. Trên thực tế, thẩm quyền quyết định áp dụng đặc xá thuộc về người đứng
đầu hoặc cơ quan có thẩm quyền cao nhất của bộ máy Nhà nước.
Việc xác định thẩm quyền quyết định đặc xá thuộc về người đứng đầu
hoặc cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong bộ máy Nhà nước mang một ý
nghĩa biểu trưng, khẳng định địa vi pháp lý đặc biệt của các chủ thể nói trên.
Trong thời kỳ phong kiến, chủ thể có thẩm quyền quyết định đặc xá là vị quân
chủ (Vua, Hoàng đế). Hiện nay, chủ thể có thẩm quyền quyết định đặc xá là
nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước ở Việt Nam, Tổng thống ở nước ngoài).
Cũng cần lưu ý, tùy thuộc vào quy định cụ thể của pháp luật quốc gia
từng thời kỳ mà thẩm quyền quyết định đặc xá có thể có sự thay đổi nhất
định. Chẳng hạn, theo Hiến pháp Việt Nam năm 1946, thẩm quyền quyết định
đặc xá là của Chủ tịch nước. Tuy nhiên, sang Hiến pháp năm 1959, quyền này
lại chuyển sang cho Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đến Hiến pháp 1980, Hội
đồng Nhà nước có thẩm quyền quyết định đặc xá. Hiến pháp hiện hành nước
ta quy định, thẩm quyền đặc xá là của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Đặc điểm đối tượng được hưởng đặc xá: đối tượng được hưởng đặc
xá chỉ có thể là người phạm tội đã bị kết án hiện đang chấp hành hình phạt
tước tự do hoặc đang được hỗn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đang ở
ngồi xã hội.



10
Xuất phát từ bản chất của đặc xá là hình thức cụ thể thể hiện mối quan
hệ giữa Nhà nước và người phạm tội nên đối tượng áp dụng đặc xá chỉ có thể
là người phạm tội - người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và phải
chịu trách nhiệm về hành vi đó trước xã hội và Nhà nước. Tính chất cơ bản
của đặc xá là khoan hồng và tha thứ. Xét đến cùng, khoan hồng và tha thứ
cũng chỉ là một phương thức mà Nhà nước và xã hội sử dụng trong việc giải
quyết vấn đề tội phạm.
Để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm của mỗi loại tội phạm, các hình phạt áp dụng với người
phạm tội thường được Nhà nước quy định khá đa dạng. Trong luật hình sự
Việt Nam, các hình phạt được chia thành hai nhóm là hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Các hình phạt chính được thiết kế theo mức độ nghiêm khắc
tăng dần, từ cảnh cáo đến tử hình. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đặc xá cho
thấy, đối tượng được hưởng đặc xá là những người đã bị kết án và đang phải
gánh chịu hình phạt song khơng phải mọi loại hình phạt. Đối tượng được
hưởng đặc xá chỉ là những người đang phải chấp hành các hình phạt tước tự
do, bao gồm hai loại hình phạt là tù có thời hạn và tù chung thân. Cá biệt,
trong các năm 1946 và năm 1948, đặc xá còn được áp dụng cả đối với người
bị kết án tử hình.
Việc đặc xá khơng được áp dụng đối với người đang chấp hành các
hình phạt khơng tước tự do có thể được giải thích bởi nhiều lý do. Thứ nhất,
bản thân các hình phạt khơng tước tự do đã là những hình phạt tương đối nhẹ.
Áp dụng hình phạt khơng tước tự do đối với người phạm tội đã là một sự
khoan hồng đáng kể, vì vậy khơng cần thiết phải có sự khoan hồng đặc biệt
nữa đối với họ. Thứ hai, một trong những mục đích cơ bản của đặc xá là giảm
bớt gánh nặng đối với xã hội trong việc tổ chức thi hành các hình phạt tù có
thời hạn và tù chung thân. Do đó, đặc xá cũng chỉ nên áp dụng đối với người
bị tuyên các hình phạt này khi họ thỏa mãn những điều kiện nhất định.



11
- Về trình tự, thủ tục quyết định đặc xá: có thể thấy rằng đặc xá là một
biện pháp nằm trong hệ thống các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm đối với
người phạm tội mà pháp luật quy định. Việc áp dụng các biện pháp miễn,
giảm trách nhiệm của người phạm tội là những hoạt động mang tính quyền
lực, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Đây là những hoạt
động phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định.
Cần thấy rằng, hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và giải
quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội thuộc thẩm quyền của
ngành quyền lực tư pháp. Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001) khẳng định rõ hình phạt chỉ do một cơ quan duy nhất áp dụng là
Tịa án. Việc miễn, giảm hình phạt, do đó cũng là cơng việc của Tịa án. Theo
logic này, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp miễn giảm hình phạt là trình
tự, thủ tục tư pháp.
Tuy nhiên, trong bộ máy nhà nước, nguyên thủ quốc gia có địa vị pháp
lý đặc biệt. Nguyên thủ quốc gia là biểu tượng của quốc gia, vừa đứng đầu bộ
máy Nhà nước, vừa là người thay mặt cho Nhà nước về mặt đối nội và đối
ngoại. Trong các quan hệ đối nội, nguyên thủ quốc gia có những thẩm quyền
đặc biệt và một trong những thẩm quyền đó là quyết định đặc xá cho người đã
bị kết án và đang phải chấp hành các hình phạt tước tự do. Điều này có nghĩa
rằng, trình tự, thủ tục đặc xá là trình tự, thủ tục ngồi Tịa án - trình tự, thủ tục
đặc biệt cần được quy định riêng.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể rút ra định nghĩa khái quát về đặc xá
như sau:
Đặc xá là biện pháp khơng buộc người bị kết án phạt tù có thời hạn,
người bị kết án phạt tù chung thân đã được giám án xuống phạt tù có thời
hạn phải chấp hành phần hình phạt cịn lại trong trại giam, trại tạm giam do
Nguyên thủ quốc gia hoặc cơ quan khác có thẩm quyền cao nhất của Nhà

nước quyết định theo trình tự, thủ tục ngồi trình tự, thủ tục giảm án thông


12
thường của Tòa án nhân dịp những ngày lễ trọng lại của đất nước hoặc trong
các trường hợp đặc biệt khác.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về đặc xá
Đặc xá là một hoạt động mang tính Nhà nước cần được điều chỉnh về
luật. Toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến
đặc xá của một quốc gia được gọi là pháp luật đặc xá của quốc gia đó.
Cần phân biệt pháp luật về đặc xá và Luật đặc xá. Luật đặc xá là một
đạo luật do Quốc hội ban hành phù hợp với quy định của Hiến pháp “quy định
về thời điểm, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện đặc xá; điều
kiện, quyền và nghĩa vụ của người được đề nghị đặc xá, người được đặc xá”
(Điều 1 Luật đặc xá). Thuật ngữ “pháp luật về đặc xá” rộng hơn Luật đặc xá.
Pháp luật đặc xá được hiểu trên hai phương diện: nội dung và hình thức. Nội
dung của pháp luật đặc xá là toàn bộ các quy phạm pháp luật, trong đó có các
quy phạm pháp luật trong Luật đặc xá điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực đặc xá. Về phương diện hình thức, pháp luật đặc xá tồn tại
trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ Hiến pháp, các luật, nghị định,
thông tư quy định về vấn đề đặc xá.
Pháp luật về đặc xá, cũng như pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực khác, mang đầy đủ những đặc tính của pháp luật nói chung.
Đó là tính quy phạm, tính quyền lực, tính giai cấp và tính xã hội.
Điều quan trọng khi nghiên cứu pháp luật về đặc xá là cần phải làm rõ
các vấn đề sau đây:
- Đối tượng cần điều chỉnh của pháp luật về đặc xá là những quan hệ xã
hội nào?
- Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về đặc xá ra sao? Vấn đề nào cần
đưa vào luật, vấn đề nào không cần đưa vào luật?

- Mối quan hệ của pháp luật về đặc xá với các ngành luật, các quy
phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác?


13
Trước hết, về đối tượng điều chỉnh của pháp luật về đặc xá. Đối tượng
điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội nảy sinh, tồn tại trong xã hội
chịu sự tác động của pháp luật. Từng quy phạm pháp luật, chế định pháp luật,
ngành luật và cả hệ thống pháp luật đều có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ
xã hội cụ thể. Quy phạm pháp luật điều chỉnh một quan hệ xã hội, chế định pháp
luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất cịn ngành luật điều chỉnh
một lĩnh vực quan hệ xã hội. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về đặc xá là
những quan hệ xã hội phát sinh, tồn tại trong quá trình thực hiện đặc xá.
Các quan hệ xã hội cần sự điều chỉnh của pháp luật về đặc xá bao gồm:
Một là, quan hệ xã hội xác định bản chất của đặc xá: đó là quan hệ giữa
Nhà nước và người phạm tội. Quan hệ này phát sinh không phải khi tội phạm
được thực hiện mà là sau khi người phạm tội đã bị kết án bằng một bản án có
hiệu lực của Tịa án và bản thân người bị kết án đã chấp hành hình phạt tước
tự do được một thời gian nhất định. Bản chất của đặc xá là biện pháp tha miễn
một phần trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, do đó nó chỉ xuất hiện khi
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đã được hiện thực hóa một phần.
Đối với những quan hệ xã hội xác định bản chất của đặc xá, pháp luật
về đặc xá cần điều chỉnh những vấn đề sau đây:
- Chủ thể có thẩm quyền đặc xá. Đặc xá là biện pháp mang tính Nhà
nước và chỉ có những cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được quyết định
áp dụng; do vậy, pháp luật về đặc xá phải xác định rõ cơ quan có thẩm quyền
nào được đại diện cho Nhà nước quyết định đặc xá.
- Đối tượng được đặc xá. Pháp luật về đặc xá phải quy định những đối
tượng cụ thể nào sẽ được để nghị xét đặc xá và được đặc xá; đối tượng nào
không được đặc xá; tiêu chuẩn, điều kiện xét đặc xá của đối tượng được đặc xá.

- Nội dung của biện pháp đặc xá và sự phân biệt giữa đặc xá với các
biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự, miễn giảm hình phạt, miễn chấp
hành hình phạt khác.


14
Thứ hai, quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đặc xá. Quyết định
đặc xá là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn, nhiều khâu cụ thể với các
trình tự, thủ tục khác nhau. Pháp luật về đặc xá phải quy định các trình tự, thủ
tục đó.
Đối với quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đặc xá, pháp luật về
đặc xá cần sự điều chỉnh những vấn đề như:
- Trình tự, thủ tục và các chủ thể có thẩm quyền soạn thảo và ban hành
quyết định về đặc xá.
- Trình tự, thủ tục lập hồ sơ, danh sách người được đề nghị đặc xá.
- Trình tự, thủ tục xét, duyệt hồ sơ, danh sách người được đề nghị đặc xá.
- Trình tự, thủ tục thẩm định hồ sơ, danh sách người được đề nghị đặc xá.
- Trình tự, thủ tục ban hành quyết định và cơng bố quyết định đặc xá.
- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo về đặc xá.
- Vấn đề thơng tin, tun truyền về đặc xá, trong đó bao gồm cả thông
tin, tuyên truyền phục vụ công tác đối ngoại.
Thứ ba, về các quan hệ xã hội phát sinh sau đặc xá. Sau đặc xá, quan hệ
giữa Nhà nước và người phạm tội được đặc xá chưa phải đã kết thúc bởi vẫn
cịn vấn đề thi hành các hình phạt bổ sung và án tích chưa được xóa. Mặt
khác, người bị kết án dù đã được đặc xá vẫn là người có tiền án, và do vậy, là
đối tượng chịu sự quản lý về an ninh, trật tự của chính quyền địa phương cơ
sở. Do vậy, sau khi được đặc xá, một loạt các vấn đề phát sinh cần được điều
chỉnh của pháp luật đặc xá như:
- Vấn đề tạo điều kiện để người được đặc xá về có thể tìm kiếm việc
làm, làm ăn chính đáng, tái hịa nhập với cộng đồng xã hội nơi họ cư trú.

- Vấn đề quản lý con người để họ không tái phạm tội.
- Vấn đề phát huy vai trò của cộng đồng dân cư cùng giúp đỡ người
được đặc xá…


15
Từ phân tích nêu trên, có thể thấy rằng các quan hệ xã hội là đối tượng
điều chỉnh của pháp luật về đặc xá khá đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực
pháp luật, từ việc tổ chức bộ máy các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền
giải quyết việc đặc xá, mối quan hệ giữa các cơ quan đó, trình tự, thủ tục đặc
xá, quản lý hành chính của chính quyền cấp cơ sở với đối tượng được đặc xá,
mối liên hệ cơng tác giữa chính quyền với các tổ chức xã hội trong việc giúp
đỡ người được đặc xá tái hịa nhập cộng đồng, thơng tin đối ngoại về đặc xá,
bảo đảm an ninh, trật tự, không làm mất ổn định xã hội sau đặc xá.v.v… Với
phạm vi điều chỉnh rộng như vậy, cần xác định mức độ điều chỉnh của pháp
luật về đặc xá cho phù hợp.
Có thể hiểu mức độ điều chỉnh của pháp luật đặc xá trên hai phương
diện: phương diện mức độ can thiệp của pháp luật vào hoạt động đặc xá và
phương diện hình thức pháp luật ghi nhận sự can thiệp đó.
Như đã trình bày ở trên, có 3 nhóm quan hệ xã hội liên quan đến đặc
xá là: quan hệ xã hội xác định bản chất của đặc xá, quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình đặc xá và quan hệ xã hội phát sinh sau đặc xá. Trong ba nhóm
quan hệ xã hội này, nhóm quan hệ thứ nhất và thứ hai địi hỏi phải có sự điều
chỉnh pháp luật chi tiết và cụ thể bởi đây là những nội dung chính của pháp
luật về đặc xá. Tính nghiêm minh, công bằng, nhân đạo và minh bạch của
pháp luật về đặc xá được phản ánh một cách cơ bản và nổi bật trong những
nội dung này. Về nhóm quan hệ xã hội thứ ba - các quan hệ phát sinh sau đặc
xá như quan hệ giữa chính quyền cơ sở với người được đặc xá khi họ trở về
địa phương, giữa các tổ chức xã hội ở cơ sở với người này…, pháp luật cũng
cần phải điều chỉnh nhưng mức độ điều chỉnh có hạn chế hơn. Cần nhận thức

rằng pháp luật tuy có vai trị quan trọng trong đời sống xã hội song không
phải là phương tiện có khả năng giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Cần
phát huy các cơ chế điều chỉnh xã hội khác trong việc điều chỉnh nhóm quan
hệ xã hội này.


16
Do đặc xá là biện pháp tha miễn một phần trách nhiệm hình sự đặc biệt
thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước nên hình thức quy định thẩm quyền này
phải là Hiến pháp. Những vấn đề khác như trình tự, thủ tục đặc xá, điều kiện,
tiêu chuẩn của người được đặc xá, chính sách của Nhà nước về đặc xá.v.v…
cũng là những vấn đề quan trọng, cần được quy định trong đạo luật về đặc xá.
Cần hạn chế các văn bản dưới luật như Nghị định hay Thông tư quy định vấn
đề này.
Liên quan đến pháp luật về đặc xá, có một vấn đề khơng thể khơng
được làm rõ, đó là vị trí của pháp luật đặc xá trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Về mặt lý luận, hệ thống pháp luật của một quốc gia bao gồm nhiều
ngành luật cụ thể phân biệt với nhau bởi hai tiêu chí cơ bản đối tượng điều
chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Xét trên hai tiêu chí này, pháp luật về đặc
xá liệu có phải là một ngành luật độc lập hay không?
Từ trước đến nay, trong các tài liệu, sách báo pháp lý ở Việt Nam
cũng như nước ngoài, chưa thấy xuất hiện quan niệm cho rằng pháp luật về
đặc xá là một ngành luật độc lập. Quan điểm của GS. TS Nguyễn Ngọc
Anh cho rằng:
Pháp luật về đặc xá là một bộ phận của hệ thống pháp luật Nhà nước
ta, bao gồm các quy phạm pháp luật của luật hiến pháp và pháp luật
về trình tự, thủ tục hành chính - tư pháp. Trong đó, hành chính - tư
pháp được hiểu theo nghĩa rộng vì các quy phạm này giải quyết thủ
tục đặc biệt miễn chấp hành hình phạt cho người bị kết án phạt tù
khi họ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đặc xá theo luật định [3, tr.41].

Quan điểm của GS, TS Nguyễn Ngọc Anh nêu trên là hợp lý, phù hợp
với tình hình pháp luật về đặc xá của Việt Nam hiện nay cũng như lý luận
Nhà nước và pháp luật truyền thống ở nước ta. Thực tiễn vận động của khoa
học pháp lý ở trong và ngoài nước những năm qua cho thấy, trong hệ thống
pháp luật ln xuất hiện những ngành luật mới và có những quy định pháp


17
luật thuộc về nhiều ngành luật khác nhau. Pháp luật về đặc xá thuộc loại
những quy định pháp luật này.
1.2. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC VÀ VAI TRỊ CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẶC XÁ

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về đặc xá
Trong tư duy khoa học, cần phân biệt rõ ba khái niệm: “đặc xá”, “pháp
luật về đặc xá” và “thực hiện pháp luật về đặc xá”. Đặc xá là biện pháp tha
miễn một phần trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bị kết án phạt tù
(tù có thời hạn hoặc tù chung thân được giảm án xuống tù có thời hạn) khi
thỏa mãn những điều kiện nhất định vào những dịp lễ trọng đại của đất nước
hoặc trong trường hợp đặc biệt khác. Đây đồng thời cũng là quyền hạn của
Chủ tịch nước và các cơ quan tư vấn giúp việc. Pháp luật về đặc xá là hệ
thống các quy phạm pháp luật tạo thành cơ sở pháp lý cho hoạt động đặc xá.
Pháp luật về đặc xá là hình thức ghi nhận về mặt Nhà nước biện pháp đặc xá
nói trên. Để pháp luật đặc xá đi vào cuộc sống, cần có hoạt động thực hiện
pháp luật về đặc xá.
Lý luận về Nhà nước và pháp luật ở nước ta: “Thực hiện pháp luật là
quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật khác khi gặp phải tình
huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của
mình chuyển hóa một cách sáng tạo quy tắc xử sự chung mà Nhà nước đã quy
định vào tình huống cụ thể đó thơng qua hành vi thực tế hợp pháp của mình”.

Với quan niệm như trên, có thể hiểu khái niệm thực hiện pháp luật về
đặc xá như sau:
Thực hiện pháp luật về đặc xá là q trình các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, tổ chức xã hội và đối tượng trong diện được xét đề nghị đặc xá,
căn cứ vào các pháp luật về đặc xá, thực hiện các quyền chủ thể và nghĩa vụ
pháp lý của mình đã được pháp luật về đặc xá quy định nhằm hiện thực hóa
các quy định đó trên thực tế.


18
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của thực hiện pháp
luật về đặc xá như sau:
Một là, thực hiện pháp luật về đặc xá là một bộ phận cấu thành và đồng
thời cũng là một giai đoạn cụ thể của cơ chế điều chỉnh pháp luật về đặc xá.
Tiếp cận từ góc độ hệ thống, không thể tách rời thực hiện pháp luật về đặc xá
với pháp luật đặc xá và các yếu tố khác có liên quan tới hoạt động điểu chỉnh
pháp luật trong lĩnh vực đặc xá của Nhà nước.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật về đặc xá là thuật ngữ chung nhất chỉ tồn
bộ q trình điều chỉnh hoạt động đặc xá bằng pháp luật. Bản chất của cơ chế
điều chỉnh pháp luật về đặc xá là hệ thống thống nhất các phương tiện, quy
trình pháp lý có liên quan mật thiết với nhau, thơng qua đó thực hiện sự tác
động của pháp luật (về đặc xá) lên các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh
của pháp luật (về đặc xá) nhằm thực hiện những nhiệm vụ và mục đích mà
Nhà nước đặt ra.
Cơ chế điều chỉnh pháp luật về đặc xá được hợp thành bởi nhiều yếu tố
như quy phạm pháp luật về đặc xá, quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, quan
hệ pháp luật phát sinh, hình thành giữa các chủ thể khi thực hiện pháp luật về
đặc xá, chủ thể pháp luật (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ
chức xã hội có liên quan và đối tượng được đặc xá), ý thức pháp luật của các
chủ thể pháp luật về đặc xá, pháp chế, trách nhiệm pháp lý đối với người vi

phạm pháp luật trong lĩnh vực đặc xá.v.v… Các yếu tố nói trên tồn tại trong
mối quan hệ khăng khít, tác động biện chứng lên nhau, yếu tố này là tiền đề,
cơ sở và bổ sung cho yếu tố khác để tạo ra sự vận hành đồng bộ của cả cơ chế
nhằm thực hiện sự tác động của pháp luật về đặc xá lên các quan hệ xã hội
cần điều chỉnh.
Cơ chế điều chỉnh của pháp luật về đặc xá phát triển qua nhiều giai
đoạn. Lý luận Nhà nước và pháp luật phân chia 4 giai đoạn chủ yếu là: 1) Xác
định nhiệm vụ, mục đích của điều chỉnh pháp luật về đặc xá để lập chương


19
trình điều chỉnh pháp luật; 2) Ban hành pháp luật về đặc xá; 3) Tổ chức thực
hiện các quy định pháp luật về đặc xá (hay nói một cách ngắn gọn là thực
hiện pháp luật về đặc xá) và 4) Kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả tác động
của pháp luật về đặc xá.
Như vậy, thực hiện pháp luật về đặc xá là một giai đoạn và mắt khâu
quan trọng trong cơ chế điều chỉnh của pháp luật về đặc xá nói chung. Giai
đoạn này có vai trị quyết định trong việc hiện thực hóa pháp luật về đặc xá,
làm cho pháp luật về đặc xá trở thành các quyền và nghĩa vụ thực tế của các
chủ thể pháp luật có liên quan.
Hai là, thực hiện pháp luật về đặc xá là hoạt động ý chí có mục đích
của các chủ thể pháp luật. Nếu như đứng ở góc độ cơ chế điều chỉnh pháp
luật, thực hiện pháp luât về đặc xá là một giai đoạn nằm trong quá trình điều
chỉnh pháp luật thì từ phương diện chủ thể pháp luật, đây lại là những hoạt
động cụ thể của con người. Trên thực tế, các hoạt động này chủ yếu do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Pháp luật quy định cho mỗi cơ quan
trong bộ máy nhà nước một chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể xác định.
Thực hiện pháp luật nói chung ln là hoạt động có mục đích xác định.
Mục đích của thực hiện pháp luật về đặc xá là:
- Khuyến khích, động viên người phạm tội bị kết án phạt tù có thời hạn,

tù chung thân tích cực tự cải tạo, giáo dục để sớm được trở về với gia đình và
người thân.
- Giảm nhẹ gánh nặng ngân sách và áp lực của công tác cải tạo, giáo
dục người phạm tội trong các trại giam, trại tạm giam.
- Phục vụ các yêu cầu chính trị, đối ngoại khi cần thiết.
- Nâng cao uy tín của Nhà nước trước cộng đồng xã hội.
- Các mục đích khác.
Tính ý chí là một trong những đặc điểm của thực hiện pháp luật về đặc
xá. Theo quy định của pháp luật về đặc xá, người phạm tội bị kết án phạt tù


20
trong diện được xét đặc xá phải có đơn xin được đặc xá. Đây là hành động thể
hiện ý chí của đối tượng trong diện được đặc xá. Tuy nhiên, nhìn một cách
tổng thể, yếu tố ý chí trong q trình thực hiện pháp luật về đặc xá chủ yếu là
ý chí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật về đặc xá quy định rõ
những trường hợp không được đặc xá và dù cho không thuộc những người
hợp này, người bị kết án phạt tù muốn được đặc xá cũng phải trải qua quy
trình xét đặc xá. Điều 4 Luật đặc xá năm 2007 quy định rõ, chỉ xét đặc xá cho
một người khi việc đặc xá không làm ảnh hưởng đến các yêu cầu về đối nội,
đối ngoại, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, kết quả của thực hiện pháp luật về đặc xá là hành vi hợp pháp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật. Nội dung
cơ bản của pháp luật về đặc xá là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật
hình thành trong quá trình đặc xá. Thực hiện pháp luật về đặc xá, xét về bản
chất, là việc các chủ thể pháp luật thực hiện trên thực tế các quyền và nghĩa
vụ này. Đây là những hành vi hợp pháp, phù hợp với quy định của pháp luật.
Có hai dạng hành vi hợp pháp cơ bản là hành vi thực hiện quyền và
hành vi thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ pháp lý là “cách xử sự mà chủ thể buộc
phải thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện

quyền của chủ thể khác”. Quyền chủ thể là “khả năng của chủ thể được xử sự
theo những cách thức nhất định mà pháp luật cho phép”. Sự khác biệt cơ bản
nhất giữa quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý là ở hậu quả của việc không thực
hiện các hành vi hợp pháp mà pháp luật quy định. Việc không thực hiện nghĩa
vụ pháp lý luôn để lại hậu quả là vấn đề trách nhiệm pháp lý, tức là khả năng
áp dụng các chế tài đã được dự liệu trước của quy phạm pháp luật.
Đối với thực hiện pháp luật về đặc xá, do quyết định đặc xá là quyền
của Nhà nước và nó gắn với chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan nhà
nước nhất định nên đây vừa là quyền nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ pháp
lý của những cơ quan này. Pháp luật đặc xá Việt Nam cấm hành vi “lợi dụng,


21
lạm dụng chức vụ, quyền hạn để đề nghị đặc xá cho người không đủ điều kiện
được đặc xá” và cả các hành vi “không đề nghị đặc xá cho người đủ điều kiện
được đặc xá”, hành vi “cản trở người bị kết án phạt tù thực hiện quyền được
đề nghị đặc xá”; cấm hành vi “cố ý cấp giấy tờ, tài liệu liên quan đến người
được đề nghị đặc xá trái với quy định của pháp luật” và cũng cấm cả hành vi
“từ chối cấp giấy tờ, tài liệu mà theo quy định của pháp luật người được đề
nghị đặc xá phải được cấp” (Điều 7 Luật đặc xá).
Bốn là, thực hiện pháp luật về đặc xá có nhiều hình thức biểu hiện cụ
thể. Pháp luật về đặc xá là một lĩnh vực pháp luật điều chỉnh hành vi của một
nhóm chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau. Các chủ thể pháp luật khác nhau
thường có các hình thức thực hiện pháp luật khác nhau.
Lý luận Nhà nước và pháp luật xác định có bốn hình thức thực hiện
pháp luật cơ bản là: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và
áp dụng pháp luật. Hiểu theo nghĩa rộng, cả bốn hình thức thực hiện pháp luật
này đều xuất hiện trong quá trình pháp luật về đặc xá. Theo nghĩa hep, thực hiện
pháp luật về đặc xá chủ yếu thể hiện qua hình thức áp dụng pháp luật.
1.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về đặc xá

Như đã đề cập ở phần trên, thực hiện pháp luật về đặc xá có bốn hình
thức cụ thể là tuân thủ pháp luật về đặc xá, thi hành pháp luật về đặc xá, sử
dụng pháp luật về đặc xá và áp dụng pháp luật về đặc xá.
Tuân thủ pháp luật về đặc xá là hình thức thực hiện pháp luật đặc xá,
trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà
pháp luật đặc xá cấm. Cụ thể, các chủ thể pháp luật đặc xá không được thực
hiện một trong những hành vi sau đây:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đề nghị đặc xá cho người không đủ
điều kiện được đặc xá.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để đề nghị đặc xá cho người không đủ
điều kiện được đặc xá.


22
- Không đề nghị đặc xá cho người đủ điều kiện được đặc xá.
- Cản trở người bị kết án phạt tù thực hiện quyền được đề nghị đặc xá.
- Nhận hối lộ trong việc thực hiện đặc xá.
- Sách nhiễu trong việc thực hiện đặc xá.
- Cố ý cấp các giấy tờ, tài liệu liên quan đến người được đề nghị đặc xá
trái với quy định của pháp luật.
- Từ chối cấp giấy tờ, tài liệu mà theo quy định của pháp luật người
được đề nghị đặc xá phải được cấp.
Chủ thể phải kiềm chế, không thực hiện những hành vi bị cấm nêu trên
là những người có thẩm quyền cơng tác trong các cơ quan có chức năng xét,
đề nghị danh sách và hồ sơ của người bị kết án phạt tù trong diện được xét
đặc xá.
Hình thức thực hiện pháp luật về đặc xá thứ hai là thi hành pháp luật về
đặc xá. Đây là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng các hành động tích cực.
Chủ thể của hình thức thực hiện pháp luật “thi hành pháp luật về đặc

xá” được chia thành hai loại:
Một là, người có trách nhiệm trong các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có chức năng, nhiệm vụ thực hiện pháp luật về đặc xá. Những người
này có thể là Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Bộ trưởng Bộ Công
an, Bộ trưởng Bộ Quộc phòng. Điều 15 Luật đặc xá quy định rõ:
“Căn cứ vào Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước và hướng dẫn của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị đặc xá
được thực hiện như sau:
1. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Cơng an, Bộ
Quốc phịng có trách nhiệm rà sốt, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp
hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật,
thông báo, niêm yết công khai danh sách người được đề nghị đặc xá tại trại


23
giam, trại tạm giam và làm văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Cơng an, Bộ trưởng
Bộ Quốc phịng xem xét.
2. Giám thị trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, Giám thị trại tạm
giam thuộc quân khu và tương đương có trách nhiệm rà sốt, lập danh sách và
hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo
quy định của pháp luật, báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân
khu và tương đương. Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương
đương xét duyệt danh sách, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ
Quốc phịng xem xét. Giám thị trại tạm giam thơng báo, niêm yết công khai
danh sách này tại trại tạm giam.
3. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phịng có trách nhiệm
xem xét hồ sơ đề nghị đặc xá được lập theo quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này và lập danh sách người đủ điều kiện và danh sách người không đủ
điều kiện đề nghị đặc xá để trình Hội đồng tư vấn đặc xá xem xét”.
Hai là, người được đề nghị đặc xá và người được đặc xá. Theo quy

định của Điều 13 Luật đặc xá, người được đề nghị đặc xá phải thực hiện các
quy định của pháp luật sau đây bằng hình thức thi hành pháp luật:
- Nộp đơn xin đặc xá theo quy định của Luật này.
- Khai báo đầy đủ, trung thực thông tin về cá nhân liên quan đến việc
đề nghị đặc xá.
- Chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại,
án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc xá.
Đối với người được đặc xá, theo quy định của Điều 20 Luật đặc xá,
phải thi hành pháp luật về đặc xá các nghĩa vụ:
- Xuất trình Giấy chứng nhận đặc xá với Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi
người đó cư trú;
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết.


24
Hình thức thực hiện pháp luật về đặc xá thứ ba là sử dụng pháp luật.
“Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình”.
Hình thức sử dụng pháp luật về đặc xá điển hình cho loại chủ thể là
người được đề nghị đặc xá và người được đặc xá. Người được đề nghị đặc xá
sử dụng pháp luật về đặc xá để: 1) Được thơng báo về chính sách, pháp luật
về đặc xá, Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, văn bản hướng dẫn của cơ
quan có thẩm quyền về điều kiện của người được đề nghị đặc xá và thông tin
khác về đặc xá liên quan đến người được đề nghị đặc xá; 2) Liên hệ với thân
nhân, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu thập, cung cấp giấy tờ, tài
liệu cần thiết để hoàn thiện hồ sơ đề nghị đặc xá; 3) Khiếu nại việc lập danh
sách người được đề nghị đặc xá; 4) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong
việc thực hiện đặc xá.
Người được đặc xá sử dụng pháp luật về đặc xá để thực hiện các quyền
sau đây:

- Được cấp Giấy chứng nhận đặc xá;
- Được chính quyền địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan tạo
điều kiện, giúp đỡ để hồ nhập với gia đình và cộng đồng;
- Được hưởng các quyền khác như đối với người đã chấp hành xong
hình phạt tù theo quy định của pháp luật.
Như đã trình bày ở phần trên, trong các hình thức thực hiện pháp luật
về đặc xá, áp dụng pháp luật về đặc xá là hình thức thực hiện pháp luật về
đặc xá quan trọng nhất. Hình thức thực hiện pháp luật đặc xá này thể hiện
bản chất của đặc xá. Chủ thể của hình thức thực hiện pháp luật về đặc xá là
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đặc xá.
Về mặt lý luận, áp dụng pháp luật về đặc xá được hiểu là hình thức
thực hiện pháp luật về đặc xá, trong đó Nhà nước, thơng qua các cơ quan nhà
nước hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những


25
quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để
ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ
pháp luật cụ thể.
Tiếp cấn vấn đề ở góc độ trên, có thể thấy rằng hình thức áp dụng pháp
luật có phần trùng với hình thức thi hành pháp luật trong trường hợp chủ thể
thực hiện pháp luật là các cơ quan hoặc người có thẩm quyền về đặc xá. Việc
thực hiện pháp luật đối với các chủ thể loại này vừa là thẩm quyền nhưng
đồng thời cũng là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc.
Trong các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật về đặc xá, chủ thể
quan trọng nhất là Chủ tịch nước. Chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền quyết
định đặc xá cho người bị kết án phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân được
giảm án thành tù có thời hạn. Đây là quyền hiến định được ghi nhận trong
Hiến pháp mà khơng một chủ thể nào khác có được. Hoạt động áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước như trại giam, trại tạm giam, Hội đồng tư vấn

đặc xá, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, chính quyền địa phương các cấp.v.v…
xét đến cùng cũng chỉ nhằm phục vụ cho việc thực hiện quyền quyết định đặc
xá của Chủ tịch nước mà Hiến pháp và pháp luật đã ghi nhận.
1.2.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về đặc xá
Đặc xá được áp dụng từ lâu trong lịch sử nước ta, việc áp dụng các quy
định và quyết định của người có thẩm quyền để đặc xá có ý nghĩa chính trị
pháp lý và xã hội rất lớn. Ý nghĩa và sự tác động của thực hiện pháp luật về
đặc xá đối với xã hội được thể hiện qua một số phương diện dưới đây:
- Đặc xá biểu hiện một truyền thống vị tha tốt đẹp của con người Việt
nam “Đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại”, xuất phát từ bản chất nhà
nước ta, Nhà nước nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Thực hiện pháp luật về đặc xá mang tính nhân văn, nhân đạo trong
chính sách hình sự, bên cạnh tính nghiêm khắc đặc biệt của pháp luật hình sự
áp dụng với người phạm tội. Việc tha miễn cho người phạm tội thông qua


×