Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của viện kiểm sát nhân dân huyện từ liêm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.75 KB, 100 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác bắt, tạm giữ tạm giam, thời gian qua đã được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước. Nghị quyết số 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị xác định về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, trong đó có nhiệm vụ bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ rõ:
Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ bảo đảm đúng pháp
luật, những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết khơng
phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, phát hiện và xử lý kịp thời các trường
hợp oan sai trong bắt giữ. Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm về những oan
sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát được thể hiện rõ trong Hiến pháp
và được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, trong
đó có nêu:
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan,
đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm việc
tạm giữ, tạm giam theo đúng quy định của pháp luật; tính mạng, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù và các
quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.
Để hoạt động của các cơ quan tư pháp ngày càng tốt hơn, trong đó có hoạt
động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát, Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định mục tiêu chiến lược là:
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
XHCN, từ đó nêu ra nhiệm vụ: Xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp


2
dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người
có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam.


Nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị tạm giữ,
tạm giam và nâng cao trách nhiệm của các cán bộ, công chức trong các cơ quan
tư pháp khi thi hành công vụ Nghị quyết số 388/2003/NQ - UBTVQH 11 ngày
17/03/2003 của ủy ban Thường vụ Quốc hội: Về bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, quy định:
Các trường hợp được bồi thường thiệt hại như người bị tạm giữ mà có
quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ
quyết định tạm giữ vì người đó khơng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó khơng thực hiện
hành vi phạm tội.
Thực tiễn trong những năm qua, công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam tại nhà tạm giữ của Công an huyện Từ Liêm đã phát hiện nhiều sai
phạm trong quá trình quản lý về tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ như tình
trạng khơng bảo đảm diện tích tối thiểu giam giữ 2m 2/người, tạm giữ các đối
tượng trong cùng một vụ án, đối tượng bị tạm giữ và tạm giam trong một
buồng, tình trạng chết trong Nhà tạm giữ, chưa bảo đảm chế độ ăn, chế độ
công trang, vệ sinh dịch tễ… thông qua công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, Viện kiểm sát huyện Từ Liêm đã kịp thời ban hành nhiều kiến nghị,
yêu cầu thực hiện đúng các quy định của pháp luật về chế độ tạm giữ, tạm
giam, yêu cầu trả tự do cho những người bị giam giữ oan sai, góp phần khơi
phục lại trật tự pháp luật, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của những
người bị tạm giữ, tạm giam đồng thời cũng phát hiện những quy định bất
cập, thiếu sót, chồng chéo của một số văn bản trong lĩnh vực này, một số văn
bản quy định chưa tồn diện, cịn chung chung, chưa giải quyết được số


3
vướng mắc bất cập trong thực tiễn, chẳng hạn việc quy định diện tích giam
giữ tối thiểu là 2m2/người nhưng cơ sở vật chất của Nhà tạm giữ chưa được

đầu tư xây dựng đầy đủ do thiếu kinh phí, việc quy định cấp phát khăn mặt
cho người bị tạm giam giữa quy định của Bộ Công an và Quy chế về tạm giữ,
tạm giam còn bất cập, chưa thống nhất… vì vậy, việc nghiên cứu đề tài khoa
học này để làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quản lý
tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ và kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam trên
cơ sở khái quát những kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn, đề ra quan điểm
và giải pháp bảo đảm kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ngày càng đạt chất
lượng và hiệu quả cao, để pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất không để xảy ra oan, sai trong giam giữ cũng như bảo đảm các
quyền và chế độ đối với người bị giam giữ, góp phần hạn chế bồi thường oan,
sai và bảo vệ được cán bộ trong các cơ quan tư pháp, tạo sự đồng thuận trong
xã hội thì cơng tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của ngành kiểm sát có vị
trí, vai trị rất quan trọng vì đó là việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền dân chủ của công dân, các quyền của người phạm tội không bị
pháp luật tước bỏ được tôn trọng, bảo đảm cho việc tuân thủ của cán bộ các
cơ quan tư pháp và thực thi đúng quy định của pháp luật, bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, nhất là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
Thông qua nghiên cứu đề tài này có những đề xuất kiến nghị để loại
bỏ một số quy định không phù hợp về chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm
giam đồng thời góp phần trong q trình sửa đổi, bổ sung các quy định
chuyên ngành, Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến việc tạm giữ, tạm
giam, Luật bồi thường Nhà nước hoặc sửa đổi, bổ sung một số đạo luật như:
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quy chế về tạm giữ, tạm giam…
nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam, bảo
đảm các quyền cơ bản của công dân.


4
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật trong kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân huyện Từ Liêm, thành

phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu các cơng trình khoa học đã được cơng bố cho thấy đến nay đã
có một số cơng trình nghiên cứu về hoạt động tạm giữ tạm giam hoặc liên quan
đến hoạt động tạm giữ tạm giam nói chung như: “Một số vấn đề về hoạt động tư
pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Trần Văn
Độ, Tạp chí Luật học, số 02/2004; Luận án tiến sĩ luật học: “Các biện pháp ngăn
chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam thực trạng nguyên
nhân và giải pháp”, của Nguyễn Văn Điệp, 2005 Trường Đại học Luật Hà Nội;
Luận văn: “Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm
tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan cảnh sát điều tra” của Nguyễn Văn
Hoàng, 2006 Luận văn thạc sỹ Luận học, Học viện Cảnh sát nhân dân.
Có nhiều cơng trình nghiên cứu, hoặc tài liệu giảng dạy dưới góc độ
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam nghĩa là các hoạt động trực tiếp của Viện
kiểm sát như: Giáo trình Cơng tác kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam của trường
Cao đẳng kiểm sát (trước đây); Khóa luận tốt nghiệp: “Công tác kiểm sát việc
bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của Phạm Ngọc Vỹ, năm 2002; Luận văn thạc sĩ luật: “Cơ sở lý luận và
thực tiễn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Hịa Bình”, của Qch Đình
Lực, năm 2009 Học viện Cảnh sát nhân dân.
Mặc dù đã có một số bài viết đã được công bố, nhưng cho đến nay chưa
có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu tồn diện, hệ thống về kiểm sát
bắt, tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân huyện Từ Liêm. Các bài
viết mới chỉ dừng lại ở một số nội dung và phân tích những vấn đề chung,
chưa đi vào thẩm quyền và địa phương cụ thể. Luận văn là công trình đầu tiên
nghiên cứu tương đối tồn diện cả về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Từ Liêm.


5

Tuy vây, những cơng trình đã được cơng bố nêu trên là những tài liệu
có tham khảo, có giá trị để nghiên cứu viết luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Từ Liêm. Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng
pháp luật trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân;
Phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân Từ Liêm;
Đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân Từ Liêm hiện nay;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp luật, luận văn nghiên cứu và
phân tích sáng tỏ cơ sở lý luận áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân huyện Từ Liêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Trong giới hạn của luận văn thạc sĩ, luận văn nghiên
cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.


6
Về thời gian: Dẫn chiếu số liệu khảo sát ở huyện Từ Liêm, thành phố

Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và vai trị chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan tư pháp nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở các phương pháp lịch sử cụ
thể, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh. Trong đó, phương pháp phân tích
tổng hợp được sử dụng ở cả 3 chương của luận văn, phương pháp thống kê và so
sánh được dùng chủ yếu ở chương 2 để đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật
trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân.
6. Đóng góp mới của luận văn
Đóng góp khoa học mới của luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên
nghiên cứu tương đối có hệ thống và tồn diện áp dụng pháp luật trong kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân Từ Liêm. Vì vậy, có
một số đóng góp khoa học mới sau:
Phân tích và đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát tạm
giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân;
Chỉ ra được những nguyên nhân kết quả, hạn chế về áp dụng pháp luật
trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân Từ Liêm
hiện nay;
Đề xuất được một số giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong kiểm
sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân;
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


7
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói chung và áp dụng

trong một lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Về thực tiễn: Luận văn được sử dụng là một tài liệu tham khảo cho cán
bộ, kiểm sát viên trực tiếp làm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và
những ai quan tâm lĩnh vực này; đồng thời luận văn còn là tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu giảng dạy chuyên ngành kiểm sát.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÊ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT
VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tạm giữ, tạm giam
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tạm giữ
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy khái niệm tạm giữ được đề
cập dưới các góc độ khác nhau theo quan điểm khác nhau:
Theo quan điểm của những nhà viết từ điển luật học năm 2006 thì tạm
giữ là: Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để cách ly họ với xã hội trong thời gian cần
thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định
sự liên quan của người này đối với tội phạm, khái niệm này dựa vào quy định
của Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Đến Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì khái niệm tạm giữ được hiểu rộng hơn,


8
theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì: Người bị tạm

giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt
theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã
có quyết định tạm giữ, tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã.
Còn theo Quy chế về tạm giữ, tạm giam được ban hành kèm theo Nghị
định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định
số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 của Chính phủ thì khái niệm tạm giữ được
hiểu là: "Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng
hình sự do Cơ quan điều tra áp dụng nhằm buộc những người có lệnh tạm giữ,
cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để ngăn chặn hành vi phạm
tội, hành vi gây khó khăn cho cơng tác điều tra, truy tố, xét xử".
Từ các quan niệm trên có thể rút ra khái niệm tạm giữ là biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự, do cơ quan và người có thẩm quyền theo luận định áp
dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã
nhằm ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện cho việc xử lý tội phạm được chính xác
và kịp thời. Với quan niệm này, tạm giữ có một số đặc điểm sau:
Một là, mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã là ngăn chặn tội phạm, hành vi trốn tránh
pháp luật và hành vi cản trở hoạt động điều tra, bảo đảm cho cơ quan điều tra
có thời gian xác minh, làm rõ nhân thân, những tình tiết liên quan đến tội
phạm, trên cơ sở đó ra các quyết định tố tụng như khởi tố bị can, tạm giam, áp


9
dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người bị tạm giữ nếu
khơng có căn cứ chứng minh họ phạm tội.

Hai là, đối tượng bị tạm giữ gồm có:
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp;
Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang;
Người phạm tội tự thú;
Người phạm tội đầu thú;
Người bị bắt theo quyết định truy nã.
Ba là, về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ
Tại khoản 2 Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định,
những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 và
khoản 2 Điều 86 thì có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, gồm:
- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân
bay, bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.
Như vậy những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ khơng hồn
tồn chỉ là những người có chức danh tư pháp đại diện cho các cơ quan tiến
hành tố tụng mà bao gồm cả những người có thẩm quyền tố tụng của các cơ
quan, đơn vị vũ trang hoặc của các cơ quan nhà nước khác như người chỉ huy
máy bay tầu biển …
Cơ quan được giao nhiệm vụ giam giữ người bị bắt thì thực hiện theo
quy định tại Quy chế về tạm giữ, tạm giam được ban hành kèm theo Nghị
định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị
định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 của Chính phủ và Thông tư số


10
08/2001/TT-BCA của Bộ Công an hướng dẫn về thực hiện một số điều về
Quy chế về tạm giữ, tạm giam thì: Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm

giam có nhiệm vụ, quyền hạn báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền đối với các
trường hợp xét thấy quyết định giam, giữ, trả tự do là trái pháp luật.
Bốn là, về thời hạn tạm giữ, hủy bỏ tạm giữ
Theo quy định tại Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thì thời
hạn tạm giữ khơng được q ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ nhưng khơng được quá ba ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết
định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá
ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp
phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài
liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu cơ quan điều tra không đủ cơ sở để chứng
minh người bị tạm giữ đã thực hiện hành vi phạm tội thì Viện kiểm sát yêu
cầu Cơ quan điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Năm là, về thủ tục tạm giữ
Theo quy định của điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 việc tạm
giữ người phải có quyết định của những người có thẩm quyền. Quyết định
này khơng cần phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước khi thi hành,
nhưng bắt buộc trong thời hạn 24 giờ, quyết định tạm giữ phải gửi cho Viện
kiểm sát cùng cấp. Quyết định tạm giữ yêu cầu phải ghi rõ lý do tạm giữ, giờ,
ngày, tháng, năm tạm giữ và ngày hết thời hạn tạm giữ đồng thời phải giao
cho người bị tạm giữ một bản và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của
người bị tạm giữ, Nếu việc tạm giữ không có quyết định của người có thẩm
quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.


11
Thủ tục đưa người tạm giữ, tạm giam vào Nhà tạm giữ, Trại tạm giam
thực hiện theo quy định tại Quy chế về tạm giữ, tạm giam và Thông tư hướng
dẫn thi hành được thực hiện như sau: Đối với đối tượng mới bị bắt, phải có

lệnh tạm giữ đang còn hiệu lực, biên bản bắt hoặc báo cáo bắt giữ, biên bản
giao nhận người bị bắt hoặc báo cáo bắt giữ, hồ sơ và tư trang, tài sản, tiền đi
theo người bị bắt (nếu có), đối với người bị truy nã phải có thêm lệnh truy nã.
Về thủ tục tạm giữ Bộ luật Tố tụng hình sự quy định chặt chẽ về thẩm
quyền và quy trình ban hành cũng như thời gian thực hiện, còn Quy chế về
tạm giữ, tạm giam và Thơng tư hướng dẫn thi hành thì quy định cụ thể thủ tục
cần thiết để đưa một người có lệnh tạm giữ vào buồng tạm giữ, mà bắt buộc
điều tra viên khi đưa đối tượng tạm giữ đến Nhà tạm giữ, Trại tạm giam phải
chuẩn bị đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật, đồng thời khi nhận
người vào Nhà tạm giữ, Trại tạm giam cũng bắt buộc Trưởng Nhà tạm giữ,
Giám thị Trại tạm giam đều phải kiểm tra xem xét các thủ tục, tuân thủ đúng
quy định mà pháp luật đã đề ra, để bảo đảm cho việc tạm giữ đúng quy định.
Sáu là, về chế độ tạm giữ:
Chế độ tạm giữ được quy định tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự,
thực hiện theo quy định của Chính phủ được cụ thể hóa trong Nghị định số
89/1998/NĐ-CP ban hành kèm theo Quy chế về tạm giữ, tạm giam ngày
07/11/1998 của Chính phủ và Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002
sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm
theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP của Chính phủ, nghị định số 09 /2011/NĐCP ngày 25/1/2011 của Chính Phủ sửa đổi bổ sung chế độ ăn và khám chữa
bệnh đối với người bị tạm giữ tạm giam, cũng như một số Thông tư liên quan
hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam.
Như vậy, Nhà tạm giữ, Trại tạm giam chỉ tiếp nhận giam giữ những
người đã có quyết định tạm giữ và theo yêu cầu phục vụ cho việc điều tra,


12
truy tố, xét xử, thi hành án mà phân loại giam giữ theo đúng quy định, như
không được để người tạm giữ và người bị tạm giam chung buồng, không giam
giữ nam và nữ chung buồn, không được giam giữ chung buồng những người
trong cùng một vụ án đang điều tra, truy tố, xét xử. Tiêu chuẩn ăn trong một

tháng của một người bị tạm giữ, tạm giam theo nghị định số 89/1998/NĐ-CP
được tính theo định lượng là 15 kg gạo; 0,3 kg thịt và 0.5 kg cá; 0,8 kg muối;
1/2 lít nước chấm; 15 kg rau xanh và 15 kg chất đốt. Ngày Lễ, Tết dương lịch
được ăn thêm gấp 3 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường, ngày Tết Nguyên đán ăn
gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn hàng ngày.
Diện tích tối thiểu nơi giam giữ đối với người bị tạm giữ là 2m 2/người,
khi người bị tạm giữ bị ốm đau, bệnh tật, thương tích được cán bộ y tế của
Nhà tạm giữ, Trại tạm giam khám và điều trị.
Theo nghị định nghị định số 09/2011/NĐ - CP ngày 25/1/2011 của
Chính phủ sửa đổi bổ sung chế độ ăn và khám chữa bệnh đối với người bị tạm
giữ, tạm giam thì tiêu chuẩn ăn trong một tháng của người bị tạm giữ tam
giam là tính theo định lượng là 17 kg gạo; 0,7 kg thịt và 0.8 kg cá; 01 kg muối,
0,5 kg đường loại trung bình ;0,75 lít nước mắm; 0,1 kg bột ngọt ;15 kg rau xanh
và 15 kg chất đốt. Ngày lễ, ngày Tết (theo quy định của nhà nước) người bị
tạm giữ tạm giam được ăn thêm nhưng tiêu chẩn ăn (bao gồm tiêu chẩn ăn
ngày thường và mức ăn thêm) không quá 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tạm giam
Tạm giam theo Từ điển Luật học năm 2006 được hiểu là:
Biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định
nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra,
truy tố, xét xử được thuận lợi, là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân


13
Còn theo Quy chế về tạm giữ, tạm giam được ban hành kèm theo Nghị
định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị
định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 của Chính phủ đã đưa ra khái niệm
tạm giam như sau:

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng
hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng nhằm buộc
những người có lệnh tạm giam, cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất
định để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi gây khó khăn cho cơng tác điều
tra, truy tố, xét xử hoặc đảm bảo thi hành án phạt tù hoặc án tử hình.
Như vậy tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất tạm thời tước bỏ tự
do của bị can, bị cáo trong một thời gian nhất định theo quy định của pháp
luật. Tạm giam khơng phải là hình phạt tù vì mục đích của tạm giam là ngăn
chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng theo
quy định. Cịn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước
do Tòa án áp dụng để trừng phạt người phạm tội cách ly họ ra khỏi đời sống
xã hội một thời gian, nhằm mục đích cải tạo họ thành người có ích cho xã hội.
Từ những nhận định trên có thể hiểu khái niệm tạm giam là: Tạm giam
là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự do
những người có thẩm quyền ở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án
áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù
trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn, có thể tiếp tục
phạm tội hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc để đảm bảo thi
hành án phạt tù, thi hành án tử hình. Từ những quan điểm trên cho ta thấy
tạm giam có những đặc điểm sau:


14
Một là, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam là bị can, bị cáo trong các vụ
án hình sự va một số đối tượng là bị án trong vụ án mà Tịa án tun mức hình
phạt là tù giam và tử hình đang chờ thi hành bản án. Song khơng phải bị can,

bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp này, mà những bị can, bị cáo đó phải
thỏa mãn những quy định của pháp luật.
Các đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam sẽ được đưa đến tạm
giam tại buồng tạm giam của Nhà tạm giữ công an quận, huyện, thành phố
thuộc tỉnh hoặc Trại tạm giam của Công an cấp tỉnh, Thành Phố và của Bộ
công an theo Quy chế về tạm giữ, tạm giam:
Nhà tạm giữ của Công an huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh là
nơi giam giữ những đối tượng thuộc thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp huyện.
Trại tạm giam thuộc Bộ Công an và Trại tạm giam của Công an cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là nơi giam, giữ những người thuộc
thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án, những người bị kết án tù hoặc tử hình đang chờ thi hành án.
Chỉ có Nhà tạm giữ và Trại tạm giam mới có thẩm quyền tạm giam những
đối tượng theo quy định tại điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự tại buồng tạm giam,
ngồi ra không một sơ sở nào được phép tạm giam những đối tượng trên. Đồng
thời trong quá trình giam giữ thì Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm giam
phải thực hiện đúng theo quy chế về tạm giữ tạm giam không được giam chung
người bị tạm giữ với người bị tạm giam trong cùng một buồng, không giam
chung người bị tạm giam trong cùng vụ án, không giam chung: người phạm tội
chưa thành niên với người đã thành niên, những đối tượng có bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm, loại cơn đồ hung hãn, tái phạm nguy hiểm...
Hai là, thẩm quyền ra lệnh tạm giam


15
Thẩm quyền ra lệnh tạm giam được quy định tại Khoản 3 Điều 88 Bộ
luật Tố tụng hình sự: Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định
tại điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự thì có quyền ra lệnh tạm giam đó là:
- Viện trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm

sát qn sự các cấp;
- Chánh án, Phó chánh án Tịa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tịa, Phó Chánh tịa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử.
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp
này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy ngồi những người được quy định nêu trên thì khơng có ai
khác có quyền ra lệnh tạm giam.
Ba là, thủ tục tạm giam và việc hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì việc tạm giam bị can, bị
cáo phải có lệnh tạm giam lệnh tạm giam phải do những người có thẩm quyền
ký. Lệnh tạm giam của cơ quan điều tra phải được viện trưởng viện kiểm sát
cùng cấp phê chẩn trước khi thi hành, thẩm quyền phê chuẩn này được quy
định tại điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự.
Sau khi ra lệnh tạm giam cơ quan ra lệnh tạm giam cần phải thông báo
ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.
Việc hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam tại khoản 6 Điều 120
BLTTHS quy định về việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam trong khi
tiến hành tố tụng: “trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp
tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ
việc tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”.


16
Vì vậy, Kiểm sát viên phải kiểm tra những trường hợp đang bị tạm
giam nếu người bị tạm giam tại ngoại khơng ảnh hưởng đến q trình điều tra
truy tố, xét xử, thi hành án thì cần đề xuất áp dụng các biện pháp ngăn chặn
khác đã được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự như:
- Người bị tạm giam khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải

- Người bị tạm giam có căn cước, lý lịch rõ ràng, hành vi phạm tội
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
- Người bị tạm giam được người khác bảo lãnh và có đủ điều kiện để
áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác.
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong Tố tụng hình
sự nó khơng chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể quyền tự do và
danh dự của công dân mà cịn ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm của người
bị tạm giam và thân nhân của họ, do đó khi khơng cần thiết phải tạm giam thì
cơ quan tiến hành tố tụng cần phải hủy bỏ biện pháp tạm giam, thay thế bằng
biện pháp ngăn chặn khác phù hợp.
Bốn là, thời hạn tạm giam
Điều 120 BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn tạm giam, thời hạn gia
hạn tạm giam và thẩm quyền gia hạn tạm giam để điều tra… Đối với từng giai
đoạn tố tụng cụ thể lại có thời hạn tạm giam khác nhau như tạm giam để truy
tố, tạm giam để xét xử sơ thẩm, tạm giam sau khi xét xử sơ thẩm, tạm giam để
xét xử phúc thẩm, tạm giam trong trường hợp cấp phúc thẩm hủy án để điều
tra xét xử lại, tạm giam trong trường hợp cấp giám đốc thẩm hủy án để điều
tra xét xử lại, như vậy mỗi giai đoạn tố tụng lại có quy định cụ thể về thời hạn
tạm giam nó đảm bảo cho tiến độ điều tra truy tố xét xử phải theo một thời
gian nhất định việc xử lý tội phạm được kịp thời.
Năm là, chế độ tạm giam


17
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để bảo đảm cho hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng và không để cho người phạm tội tiếp
tục thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, đây không phải là hình phạt đối với người
phạm tội. Đây là đặc điểm để phân biệt “tạm giam” với hình phạt “tù giam”. “tù
giam” là biện pháp chấp hành hình phạt tù, người bị kết án phải cải tạo và sinh
sống trong trại cải tạo một thời hạn bằng thời hạn tù mà Tòa án đã tuyên (được trừ

thời hạn đã bị tạm giam). Do tạm giam khơng phải là hình phạt nên chế độ tạm
giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tù (Điều 89 BLTTHS).
Điều 89 BLTTHS quy định nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt,
nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy
định của Chính phủ, Ngày 07/11/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định
89/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam và sau đó là Nghị
định 98/2002/NĐ-CP ngày 27/11/2002 sửa đổi bổ sung một số điều của Quy
chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định 89/NĐ-CP và nghị
định số 09/2011/NĐ-CP ngày 25/1/2011 của Chính Phủ sửa đổi bổ sung chế
độ ăn và khám chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, tạm giam.
1.1.1.3. Khái niệm, mục đích, vai trũ của kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
- Khái niệm kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là một trong những khâu thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Theo từ
điển Luật học năm 2006 thì:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét theo dõi việc
tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án,
giam giữ cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành vi
phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tại Điều 26, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định:


18
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù nhằm đảm bảo: Việc tạm giữ, tạm giam
phải theo đúng quy định của pháp luật; Chế độ tạm giữ, tạm giam được chấp hành
nghiêm chỉnh; Tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm
giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tơn trọng.

Theo đó kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là một hoạt động thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo
đảm việc tạm giữ tạm giam được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
- Mục đích của cơng tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam.
Mục đích của kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là nhằm bảo đảm việc
tạm giữ, tạm giam có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật, phát hiện
nhanh chóng, kịp thời, chính xác, khách quan những vi phạm pháp luật trong
công tác quản lý tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ, Trại tạm giam. Đó là
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đối với những đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam có quyết định và lệnh của cơ quan và
người có thẩm quyền ký hay khơng. Các lệnh, quyết định đó có đúng theo quy
định khơng có hiệu lực hay hết hiệu lực, người bị tạm giữ, tạm giam có được
ký vào lệnh, quyết định bắt giữ hay khơng, họ được giải thích tại sao mình bị
bắt và bắt về tội gì, họ có bị nhục hình bức cung khơng, họ bị giam giữ có
đúng buồng theo quy định khơng, các chế độ ăn uống, nhận quà của người
tạm giữ tạm giam được hưởng có đầy đủ hay khơng, đây là các mục đích mà
công tác kiểm sát việc tạm giữ tạm giam phải thực hiện trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ của mình.
- Vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam.
Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là một cơng tác mà luật pháp quy định
chỉ có Viện kiểm sát mới có chức năng này mà khơng cịn có cơ quan nào
khác, thậm chí bộ phận này còn kiểm sát các hoạt động sử dụng các biện pháp


19
ngăn chặn phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát. Chính vì
vậy, việc bảo đảm thực hiện tốt cơng tác này là góp phần thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ của Viện kiểm sát, cơng tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
của Viện kiểm sát có vị trí vai trị rất quan trọng nhằm bảo đảm cho việc tạm
giữ, tạm giam thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; tính mạng, tài sản

danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của
họ không bị pháp luật tước bỏ mà được thực hiện đầy đủ.
Việc kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân nhằm
phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong việc tạm giữ, tạm
giam, yêu cầu trả tự do cho những người bị tạm giữ, tạm giam oan sai, khơng
có căn cứ và trái pháp luật.
Trong q trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam khi phát hiện dấu hiệu
tội phạm trong việc tạm giữ, tạm giam thì yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố về
hình sự, hoặc báo cáo với Cục điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao những
trường hợp pháp luật quy định cho Viện kiểm sát khởi tố điều tra theo quy
định của pháp luật.
1.1.2. Khỏi niệm ỏp dụng phỏp luật và đặc điểm của áp dụng pháp luật
trong kiểm sỏt việc tạm giữ tạm giam của Viện kiểm sỏt nhõn dõn
1.1.2.1. Khỏi niệm ỏp dụng phỏp luật trong kiểm sỏt việc tạm giữ tạm
giam của Viện kiểm sỏt nhõn dõn
Về phương diện lý luận ỏp dụng phỏp luật là một trong những hỡnh
thức quan trọng của thực hiện pháp luật. Đó chính là hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, nhân viên nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện phỏp
luật, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện được
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỡnh theo quy định của pháp luật. Thông qua
hoạt động áp dụng pháp luật đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng, thi hành
nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực hiện và được bảo


20
vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm được xử lý nghiờm
minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xó hội được pháp luật bảo vệ trên các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xó hội. Cú thể núi, ỏp dụng phỏp luật là hoạt động
diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.

Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước của áp dụng pháp
luật thể hiện ở chỗ hoạt động này chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
nhân viên nhà nước có thẩm quyền tiến hành, khụng theo ý chớ của cỏc chủ
thể mà là theo quy định của pháp luật. Quyết định áp dụng quy phạm pháp
luật có hiệu lực pháp lý thi hành và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Chính
vỡ vậy, ỏp dụng phỏp luật cũn là một hỡnh thức thực hiện quyền lực nhà nước
trong các lĩnh vực của đời sống xó hội.
Từ những phõn tớch nờu trờn, chỳng ta cú thể hiểu: Áp dụng phỏp luật
là một hỡnh thức thực hiện phỏp luật, trong đó Nhà nước thơng qua các cơ
quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật
thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mỡnh căn cứ vào quy định
của pháp luật ra các quyết định áp dụng trong những trường hợp cụ thể của
đời sống xó hội.
Theo đó ADPL trong kiểm sỏt việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sỏt
nhõn dõn hỡnh thức thực hiện phỏp luật của Viện kiểm sỏt nhõn dõn trong việc tạm
giữ tạm giam.
1.1.2.2. Đặc điểm của ỏp dụng phỏp luật trong kiểm sỏt việc tạm giữ
tạm giam của Viện kiểm sỏt nhõn dõn
Một là: ADPL là hoạt động mang tính tổ chức thực hiện quyền lực Nhà
nước. Hoạt động ADPL chỉ do những cơ quan Nhà nước hay nhà chức trách
có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định mỗi cơ quan Nhà nước hay nhà
chức trách khác nhau có thẩm quyền ADPL khác nhau, như Thẩm phán có
quyền xét xử ra bản án, Kiểm sát viên có quyền thực hành quyền cơng tố, đề


21
ra yêu cầu điều tra hoặc tự mỡnh tiến hành một số hoạt động điều tra trực
tiếp…. Trong trường hợp đặc biệt một số tổ chức xó hội được nhà nước ủy
quyền cũng được ADPL được xem là sự tiếp tục thực hiện ý chớ của Nhà
nước được thể hiện trong phỏp luật. Nhưng Áp dụng phỏp luật trong kiểm sỏt

việc tạm giữ tạm giam là một dạng ADPL chỉ do VKS tiến hành .
Hai là: Hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm sỏt việc tạm giữ tạm
giam của Viện kiểm sỏt phải được tiến hành theo các thủ tục phỏp lý chặt chẽ.
Do tầm quan trọng và tính chất phức tạo của ADPL, chủ thể bị áp dụng pháp luật
có thể được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc chịu những hậu quả bất lợi nghiêm
trọng, nên pháp luật luôn xác định rừ ràng cơ sở, điều kiện, trỡnh tự, thủ tục,
quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quỏ trỡnh ADPL. Bởi vậy mà cỏc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và các biên có liên quan trong quá trỡnh ADPL phải
tuõn thủ nghiờm chỉnh cỏc quy định có tính thủ tục đó.
Ba là: Áp dụng phỏp luật trong kiểm sỏt việc tạm giữ tạm giam là hoạt
động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với những quan hệ xó hội nhất định. Đối
tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ xó hội cần đến sự điều chỉnh cá
biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt
động ADPL những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa vào trong
những trường hợp cụ thể của đời sống.
Bốn là: Áp dụng phỏp luật trong kiểm sỏt việc tạm giữ tạm giam là hoạt
động mang tính sáng tạo. Bởi lẽ tỡnh huống dữ liệu quy định trong các quy
phạm pháp luật chỉ là những dấu hiệu chung nhất, có tính khái quát cao, trong
khi đó những tỡnh huống, sự kiện phỏp lý diễn ra trong thực tế lại hết sức
phong phú, đa dạng nên hoạt động ADPL có tính thực tiễn cao và đũi hỏi tớnh
sỏng tạo. Cỏc trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rừ thỡ
cú thể vận dụng sỏng tạo bằng cỏch ADPL tương tự để giải quyết, việc vận
dụng phải phù hợp với quy định chung của pháp luật. Để làm được điều đó


22
người ADPL khơng thể máy móc, rập khn và đũi hỏi phải cú ý thức phỏp
luật cao, cú kiến thức tổng hợp, cú kinh nghiệm cuộc sống phong phỳ.
Hỡnh thức thể hiện của ADPL: Hỡnh thức thể hiện chớnh thức và chủ
yếu của hoạt động ADPL là văn bản ADPL. Văn bản ADPL trong kiểm sỏt

việc tạm giữ tạm giam được thể hiện trong những hỡnh thức xỏc định như:
quyết định kiểm tra, kháng nghị, kiến nghị. Căn cứ vào nội dung nhiệm vụ
của văn bản ADPL, có thể chia thành hai loại: Văn bản xác định quyền, nghĩa
vụ và văn bản bảo vệ pháp luật chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng
chế Nhà nước đối với cỏ nhõn, tổ chức vi phạm phỏp luật.
Văn bản ADPL là văn bản pháp lý cỏ biệt mang tớnh quyền lực do cỏc
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trỏch hoặc tổ chức xó hội được
nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật, nhằm
xác định cỏc quyền và nghĩa vụ phỏp lý cụ thể của cỏ nhõn, tổ chức hoặc xỏc
định các biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
1.2. QUY TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT VIỆC TẠM
GIỮ TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Áp dụng pháp luật là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn khác
nhau được pháp luật quy định chặt chẽ. Thường thì các giai đoạn áp dụng
pháp luật diễn ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó giai đoạn trước là
tiền đề cơ sở của giai đoạn sau. Để áp dụng pháp luật chính xác và đạt hiệu
quả cao, theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì ADPL là một hình
thức thực hiện pháp luận phải tiến hành theo các bước như: Phân tích đánh giá
đúng, chính xác mọi tình tiết, hồn cảnh điều kiện của sự việc thực tế đã xảy
ra; Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm rõ nội dung, ý
nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng; ra văn bản áp
dụng pháp luật; tổ chức thực hiện văn bản áp dụng đã ban hành. Áp dụng
pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt, ln có đối tượng xác định. Tùy
thuộc vào tính chất của vụ việc được xem xét, pháp luật quy định trình tự thủ


23
tục áp dụng rất đơn giản, như thủ tục xử phạt hành chính tại chỗ, nhưng cũng
có những vụ việc trình tự, thủ tục áp dụng rất chặt chẽ, được thực hiện bởi

một hệ thống các cơ quan có thẩm quyền khác nhau, chẳng hạn như việc áp
dụng pháp luật để xử lý các vi phạm trong tạm giữ tạm giam. Kết quả của
hoạt động áp dụng pháp luật là việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật
nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức hoặc xác
định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật. Bởi thế, tuân thủ nghiêm các quy định về trình tự, thủ tục là một
trong những yếu tố đảm bảo hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được trao quyền áp dụng
pháp luật.
Như vậy, quy trình áp dụng pháp luật là trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định, buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tuân thủ trong quá
trình áp dụng pháp luật.
Quy trình áp dụng pháp luật trong kiểm sát tạm giữ tạm giam của Viện
kiểm sát là một hệ thống các quy định về trình tự, thủ tục cho mỗi hoạt động
khác nhau mà Viện kiểm sát phải tuân thủ nhằm đảm bảo cho việc tạm giữ,
tạm giam phải theo đúng quy định của pháp luật; Chế độ tạm giữ, tạm giam
được chấp hành nghiêm chỉnh; Tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước
bỏ được tôn trọng.
Các giai đoạn của quy trình ADPL trong kiểm sát việc tạm giữ tạm
giam của viện kiểm sát nhân dân như sau:
1.2.1. Giai đoạn thứ nhất
Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân
được thực hiện qua việc:


24
- Kiểm sát sổ quản lý tạm giữ, tạm giam gồm: Sổ quản lý người bị tạm
giữ, tạm giam; Sổ quản lý việc trích xuất; Việc kỷ luật; Việc thăm gặp, sổ
nhận quà,… Yêu cầu sổ phải được ghi chép đầy đủ, kịp thời đúng các cột mục

theo quy định của Bộ Cơng an phát hành thống nhất trên tồn quốc để quản lý
người bị tạm giữ, tạm giam.
- Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam: Phát sinh khi tiếp nhận người vào
tạm giữ, tạm giam do trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam lập ra nhằm
lưu giữ những văn bản tài liệu về công tác quản lý từng người bị tạm giữ, tạm
giam như: Quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết định truy nã (nếu bị can
bị bắt theo quyết định truy nã), biên bản bắt, biên bản giao nhận hồ sơ và
người bị bắt, xác định tình trạng sức khỏe, biên bản giao nhận tư trang, tài sản
của người bị bắt (nếu có), lệnh trích xuất … nhằm đảm bảo việc tạm giữ được
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; Hồ sơ phát sinh trong quá trình tạm
giữ, tạm giam: Các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát, đơn xin thăm gặp…
Hồ sơ cho người bị tạm giữ, tạm giam ra khỏi nơi tạm giữ, tạm giam: Quyết đinh
hủy bỏ việc tạm giữ, tạm giam trả tự do cho người bị tạm giữ, tạm giam… Lệnh
trích xuất, quyết định điều chuyển, quyết định đưa đi khám chữa bệnh…
- Kiểm sát việc quản lý tạm giữ, tạm giam: Theo quy định tại Điều 15
Quy chế về tạm giữ, tạm giam được ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998
và Nghị định số 98/2002 của Chính phủ thì việc giam, giữ bố trí theo khu vực
và phân loại như sau: Phụ nữ; Người chưa thành niên; Người nước ngồi; Người
có bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; Loại côn đồ hung hãn, giết người, cướp tài
sản, tái phạm nguy hiểm; Người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia; Người bị
Tòa án tuyên phạt tử hình; Người có án phạt tù chờ chuyển trại giam.
Theo Điều 18 Quy chế về tạm giữ, tạm giam thì Nhà tạm giữ, trại tạm
giam phải được bảo vệ nghiêm ngặt, phải bố trí cán bộ trực 24/24 giờ trong


25
ngày để quản lý, tuần tra, canh gác… Không được sử dụng người bị tạm giữ,
tạm giam làm các việc trái quy định của pháp luật.
- Kiểm sát việc thi hành kỷ luật đối với người bị tạm giữ, tạm giam:
Người bị tạm giữ, tạm giam vi phạm quy chế, nội quy của nhà tạm giữ, trại

tạm giam thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý như: Cảnh cáo
hoặc phạt giam riêng ở buồng kỷ luật từ 3 đến 7 ngày và có thể bị gia hạn đến
12 ngày, người bị phạt giam ở buồng kỷ luật có thể bị cùm một chân. Khơng
áp dụng hình thức cùm chân đối với người chưa thành niên và phụ nữ.
Kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam:
- Về chế độ ăn: Theo quy định tại Điều 26 Quy chế về tạm giữ, tạm
giam thì tiêu chuẩn ăn trong một tháng của một người bị tạm giữ, tạm giam
được tính theo định lượng. Trong các ngày Lễ, Tết dương lịch được ăn thêm
gấp ba lần tiêu chuẩn ăn ngày thường, trong các ngày Tết nguyên đán được ăn
thêm gấp năm lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Theo nghị định nghị định số 09/2011/NĐ-CP ngày 25/1/2011 của
Chính Phủ sửa đổi bổ sung chế độ ăn và khám chữa bệnh đối với người bị tạm
giữ, tạm giam thì tiêu chuẩn ăn trong một tháng của người bị tạm giữ tam
giam là tính theo định lượng là 17 kg gạo; 0,7 kg thịt và 0.8 kg cá; 01 kg muối,
0,5 kg đường loại trung bình ;0,75 lít nước mắm; 0,1 kg bột ngọt ;15 kg rau xanh
và 15 kg chất đốt. Ngày Lễ, ngày Tết ( theo quy định của nhà nước ) người bị
tạm giư tạm giam được ăn thêm nhưng tiêu chẩn ăn ( bao gồm tiêu chẩn ăn
ngày thường và mức ăn thêm ) không quá 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
- Về chế độ ở: Theo quy định tại Điều 26 Quy chế về tạm giữ, tạm giam
thì bình quân diện tích tối thiểu nơi giữ, nơi giam đối với người bị tạm giữ,
tạm giam là 2 m2/1 người, có bệ nằm bằng xi măng hoặc gạch men và có
chiếu trải để nằm.
- Về chế độ mặc và cấp phát khác: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 26
Quy chế về tạm giữ, tạm giam thì trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam người


×