Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.09 KB, 97 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo trong 25 năm qua "đã đạt được những thành tựu quan trọng", tạo
tiền đề vững chắc đưa nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (CHH, HĐH). Thực tiễn đổi mới đất
nước và thực hiện CNH, HĐH trong những năm qua đã chỉ rõ mối quan hệ
biện chứng giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và bảo đảm công bằng xã hội,
phải được thực hiện ngay từ khâu sản xuất, đến lưu thông và phân phối.
Nguyên lý một nước muốn thực hiện CHN, HĐH từ nền sản xuất nhỏ, nông
nghiệp là chủ yếu, đòi hỏi tất yếu phải trải qua những giai đoạn chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, trong đó có chuyển đổi mục đích sử dụng đất nơng
nghiệp sang sử dụng đất vì các mục đích khác nhau phục vụ mục tiêu chung
là phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Ở nước ta trong thời gian qua thực hiện chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng là tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, cố gắng
phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, giảm số lượng lao động nơng nghiệp từ 85% xuống cịn 50%.
Thực hiện mục tiêu này, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết và
khơng ngừng hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai nhằm thu
hút đầu tư. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đã thu hồi một diện tích khá lớn
đất nông nghiệp vào sử dụng cho các mục đích khác nhau nhằm xây dựng cơ
sở hạ tầng, trường học, bệnh viện, khu vui chơi, giải trí, thể thao, các trung
tâm thương mại, nhà máy, xí nghiệp, các đơ thị lớn…
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu định cư (Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam hàng năm,
diện tích đất nơng nghiệp bị thu hồi cho phát triển công nghiệp là khoảng trên



2
70.000 ha, chưa kể cho phát triển đô thị là khoảng 10.000 ha. Chỉ tính riêng
một số tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sơng Hồng như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc,
Hải Phịng và Ninh Bình, số diện tích đất nơng nghiệp bị thu hồi cho phát
triển công nghiệp trong những năm vừa qua đã lên hàng chục nghìn hecta
(Bắc Ninh: gần 2.000 ha, Hải Phịng: gần 4.000 ha, Bình Dương: trong số 24
KCN đã đưa vào sử dụng với tổng diện tích trên 8.100 ha thì cũng chủ yếu là đất
nơng nghiệp. Ninh Bình là một tỉnh nhỏ, nhưng cũng có tới 735 ha đất cho công
nghiệp được lấy từ nông nghiệp), ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống của hàng
chục nghìn hộ gia đình. Trong quy hoạch từ nay đến năm 2020, một số tỉnh, diện
tích đất nơng nghiệp bị thu hồi có thể tăng lên rất nhanh.
Tác động tích cực của chính sách thu hồi đất nơng nghiệp phục vụ các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội là đời sống của nhân dân nói chung
được nâng lên, các đô thị ngày một phát triển, số lượng lao động nông
nghiệp ngày càng giảm, và đã giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho
người lao động. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực, chính sách và thực
tiễn thực hiện các chính sách, pháp luật liên quan tới thu hồi đất nơng
nghiệp của cá nhân và hộ gia đình trong những năm vừa qua, đã và đang
ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của người dân - những người đã
gắn bó hàng bao đời với mảnh ruộng, vườn cây, ao cá cái nơi chôn rau, cắt
rốn nuôi sống trực tiếp con người.
Một trong những tác động và ảnh hưởng tiêu cực đó là đã đẩy một bộ
phận nơng dân khơng cịn kế sinh nhai, trong khi đó xét về các mặt cả khách
quan và chủ quan đều cho thấy, các chính sách bồi thường, hỗ trợ của nhà
nước có liên quan tới thu hồi đất nơng nghiệp trong thời gian qua đều chưa
thỏa đáng, còn nhiều bất cập. Chẳng hạn như giá bồi thường thấp, hay thay
đổi, thiếu nhất qn…; cịn có sự chênh lệch q lớn giữa giá đất bồi thường
so với giá thị trường hoặc giá nhà đầu tư bán ra. Về mặt chủ quan, cơng tác
quản lý đất đai trên phạm vi tồn quốc, trong đó có thủ đơ Hà Nội cịn có rất



3
nhiều sơ hở, lỏng lẻo. Nhiều cán bộ, công chức lợi dụng để tham nhũng, tiêu
cực nhưng chưa bị xử lý nghiêm minh; chưa làm tốt công tác tuyên truyền,
vận động thuyết phục, giải thích, bảo đảm hài hịa các loại lợi ích ngay từ cơ
sở; các cấp chính quyền chưa tập trung giải quyết, lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng của người dân ngay từ đầu. Điều này đã gây bất bình, phẫn lộ lớn trong
nhân dân, dẫn tới khiếu kiện, khiếu nại về đất đai ngày càng gia tăng về số vụ
việc và tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Biểu hiện rõ nhất là số đồn đơng
người đến khiếu nại tăng mạnh, thái độ công dân đi khiếu kiện thiếu kiềm
chế, khiếu nại, tố cáo vượt cấp lên Trung ương gia tăng, tình trạng đơn thư gửi
tràn lan mang tính phổ biến. Bên cạnh đó, có hiện tượng những người, nhóm
người khiếu nại “liên kết” với nhau để khiếu nại đơng người. Một số trường
hợp có sự xúi giục, kích động của các thế lực thù địch nhằm lôi kéo những
người đi khiếu nại liên kết đông người có những hành vi q khích, gây rối.
Cá biệt có một số vụ việc trở thành điểm nóng chính trị, người dân chẳng
những không chấp hành quyết định thu hồi đất mà cịn quay lưng tổ chức
chống lại chính quyền (chống lại người thi hành công vụ), gây hậu quả
nghiêm trọng. Điển hình như vụ hộ gia đình ơng Đồn Văn Vươn ở thành phố
Hải Phòng, và một số vụ việc phức tạp khác như ở Văn Giang, tỉnh Hưng yên,
Khu công nghiệp Long Giang, tỉnh Tiền Giang, khiếu nại của các hộ dân
phường Dương Nội, Hà Đông thành phố Hà Nội…
Trước thực trạng đó, một trong những địi hỏi cấp bách hiện nay là cần
hiểu và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về đất đai trong đó cụ
thể là thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bảo
đảm quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân và các hộ gia đình có đất nơng
nghiệp khi nhà nước thu hồi. Để khắc phục tình trạng này, Báo cáo chính trị
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ:
Hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm hài

hòa các loại lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của người


4
giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi
để sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển; khắc
phục tình trạng lãng phí và tham nhũng đất đai [20, tr.110-111].
Theo Báo cáo tình hình, kết quả cơng tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo từ năm 2008 - 2011 của Tổng thanh tra Chính phủ tại Hội nghị trực
tuyến tồn quốc về cơng tác tiếp cơng dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày 2
tháng 5 năm 2012 cho thấy trong số các vụ việc khiếu nại, tố cáo, nội dung
khiếu nại, tố cáo của công dân chủ yếu liên quan đến đất đai (chiếm 70%),
trong đó nhiều nhất là khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội; khiếu nại
đòi đất cũ, tranh chấp đất đai trong nhân dân qua các thời kỳ nhưng chưa
được giải quyết dứt điểm..1.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, bảo đảm hài hịa các loại lợi ích,
trong đó đặc biệt trú trọng lợi ích của người giao lại quyền sử dụng đất có ý
nghĩa quyết định củng cố niềm tin của nhân dân đối với đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước trong việc chỉ đạo việc thu hồi quyền sử dụng đất nơng
nghiệp vào các mục đích sử dụng khác, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế,
xã hội. Chính vì vậy, việc chọn chủ đề: Bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp
trên địa bàn thành phố Hà Nội là có ý nghĩa cả về lý luận, thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ khi thực hiện chính sách thu hồi đất nơng nghiệp của cá nhân và
hộ gia đình nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, CHN, HĐH đất
nước đã có nhiều đề tài, bài viết có liên quan tới bảo đảm thực hiện quyền lợi
của cá nhân và các hộ gia đình có đất bị thu hồi.
Một số cơng trình, bài viết nổi bật phải kể đến là:

1

Nguồn: Tổng Cục Quản lý đất đai, Bộ tại nguyên và Môi trường />option=com_content&task=view&id=1795


5
- Giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất cho các dự án phát
triển công nghiệp, TS Dương Đình Giám, Tạp chí Cơng nghiệp2.
- Cơ chế bồi thường, GPMB, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của
GS. TS Đặng Hùng Võ
- Tạo việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp trong
q trình đơ thị hóa ở Quận Cầu Giấy.
- Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để
xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu cơng cộng và lợi ích quốc gia” đề tài khoa học độc lập cấp
Nhà nước, năm 2005.
- Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông
thôn ngoại thành Hà Nội trong q trình đơ thị hóa gắn với cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội (Đề tài khoa học công nghệ cấp
thành phố, 2005). Kể từ khi thực hiện chính sách thu hồi đất nói chung, đất
nơng nghiệp nói riêng nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội,
CHN, HĐH đất nước đã có nhiều đề tài, bài viết có liên quan tới thực hiện
pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân và các hộ gia đình có đất khi
nhà nước thu hồi.
Một số cơng trình, bài viết nổi bật phải kể đến là:
- GS. TS Đặng Hùng Võ “Cơ chế bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất”.Việt báo ngày 26/4/2004.
- TS.Nguyễn Quang Tuyến, “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm Bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học số 1, năm 2009, tr.35 - 42.

2


( />

6
- TS. Nguyễn Quang Tuyến, “Vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi thu
hồi đất trong dự thảo Luật đất đai” (sửa đổi, bổ sung), Tạp chí Luật học số
12, năm 2008, tr.42 - 46.
- PGS.TS. Nguyễn Chí Mỳ - TS. Hoàng Xuân Nghĩa, Viện nghiên cứu
phát triển
kinhPhong,
tế - xãMập
hội Hà
Hậu giải
phóng
ở Hà
Nộisố- Vấn
- Tùy
mờ Nội,
quy hoạch,
Thời
báo mặt
Kinhbằng
tế Việt
Nam
9 ra
đề
và 10/01/2007.
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia - 2009.
ngày
- Ph. Dương, Thiếu nhà đất để tái định cư, Thời báo Kinh tế Việt Nam

số 9 ra ngày 10/01/2007.
- Q.Ngân - H.Lan, “Chính sách hỗ trợ, bồi thường mới của TP. Hà
Nội: Bảo đảm tối đa quyền lợi cho người dân”, Xây dựng Việt Nam.vn,
06/11/2009.
- TS Dương Đình Giám “Giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi
đất cho các dự án phát triển cơng nghiệp” Tạp chí Cơng nghiệp
- Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước, (2005), “Thực trạng thu nhập,
đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công
cộng và lợi ích quốc gia”.
- Đề tài khoa học công nghệ cấp thành phố, (2005), “Nghiên cứu đề
xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành
Hà Nội trong q trình đơ thị hóa gắn với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên
địa bàn thành phố Hà Nội”.
- Lê Công Cường, (2008) luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam”.
Nghiên cứu khái quát các đề tài, bài viết nêu trên cho thấy đã đề cập ít
nhiều đến bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung khi nhà nước thu hồi đất
thơng qua các chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Một số bài viết
cũng đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để nhà nước ban hành, sửa đổi, bổ


7
sung các chính sách có liên quan, đặc biệt là chính sách về bồi thường. Các đề
tài, bài viết cũng đề cập đến một số bất cập trong công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chưa có đề tài, bài viết nào đề
cập toàn diện về bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích của người dân khi nhà
nước thu hồi đất nơng nghiệp. Chính vì vậy, việc chọn chủ đề nghiên cứu này
nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các quan điểm và giải pháp
nhằm bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia

đình khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội là
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện nay.
Qua các đề tài, bài viết nên trên, đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu
về bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị
Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp ở nước ta nói chung và trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Chính vì vậy, việc chọn chủ đề nghiên cứu về bảo đảm thực hiện
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị Nhà nước thu hồi đất
nơng nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và các lợi ích
hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Một là: Nghiên cứu cơ sở lý luận bảo đảm thực hiện quyền lợi của cá
nhân và hộ gia đình bị Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp.


8
Hai là: Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm
thực hiện quyền lợi của cá nhân và hộ gia đình bị Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và các
lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu bảo đảm thực hiện quyền và các lợi
ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị Nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp.

- Phạm vi nghiên cứu: địa bàn thành phố Hà Nội. Thời gian nghiên cứu
từ khi có Luật đất đai 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo
đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình bị nhà
nước thu hồi đất nơng nghiệp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận văn, tác giả sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, trên cơ sở
thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng gồm:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp.


9
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp chuyên gia,
tổng kết thực tiễn và thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đây là cơng trình chun khảo đầu tiên, nghiên cứu tương đối có hệ
thống những vấn đề lý luận về bảo đảm thực hiện quyền lợi của cá nhân và hộ
gia đình bị nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp phục vụ nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền
lợi của cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa
bàn thành phố Hà Nội; trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm, thực tiễn tốt
trên lĩnh vực này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; tăng
cường niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; góp phần ổn định chính trị, xã hội trên địa bàn thủ đô.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày 3 chương, 7 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN VÀ HỘ GIA ĐÌNH BỊ NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NƠNG NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN QUYỀN VÀ CÁC LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH BỊ
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NƠNG NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm bảo đảm thực hiện về quyền, nghĩa vụ và việc bảo
đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình khi
nhà nước trong sử dụng thu hồi đất nông nghiệp
Theo quy định của Điều 5 Luật đất đai năm 2003 về sSở hữu đất đai:
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.” Cũng
theo quy định tại khoản 4 của Điều 5 Luật này thì “Nhà nước trao quyền sử
dụng đất cho người sử dụng đất thơng qua hình thức giao đất, cho th đất,
cơng nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất” [30].
Đối với người sử dụng đất, theo quy định của Luật đất đai hiện hành
có các quyền chung sau đây:
- Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất;

- Hưởng các lợi ích do cơng trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo
đất nông nghiệp;
- Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất
nông nghiệp.
- Được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử
dụng đất hợp pháp của mình;


11
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử
dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về
đất đai; .
- Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho quyền sử dụng đất; Quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền
sử dụng đất; Quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
- Người sử dụng đất được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất theo quy
định của pháp luật; .
- Quyền lựa chọn hình thức giao đất, thuê đất.
Đối với
2. các hHộ gia đình, cá nhân sử dụng đất khơng phải là đất thuê có các
quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường,
thị trấn với hộ gia đình, cá nhân khác; Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trừ
trường hợp chuyển nhượng có điều kiện theo quy định của Chính phủ; Cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt
Nam thuê quyền sử dụng đất; Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất
của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật; Hộ gia đình được Nhà nước giao đất,
nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để
thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh

tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh; Góp vốn bằng quyền sử dụng
đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để
hợp tác sản xuất, kinh doanh.
Và như vậy, vấn đề đặt ra đối với người sử dụng đất nơng nghiệp (cá
nhân, hộ gia đình) là khi nhà nước thu hồi đất vào sử dụng các mục đích khác,
thì các quyền của người sử dụng đất sẽ bị thay đổi; Cá nhân, hộ gia đình sẽ


12
được nhà nước bảo đảm bằng các quyền và các lợi ích hợp pháp khác theo
quy định của pháp luật.
Nghị định Số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 08 năm 2009 của Chính
phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đã quy định cụ thể về các quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân và hộ gia đình sẽ được Nhà nước bảo đảm như sau:
- Bảo đảm quyền được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng;
nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền tính theo giá
đất cùng mục đích sử dụng;
- Quyền được hỗ trợ: Nhà nước sẽ hỗ trợ nhằm ổn định đời sống và sản
xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu
hồi đất nông nghiệp; Hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp trong khu dân cư; đất
vườn, ao không được công nhận là đất ở; Hỗ trợ di chuyển; Hỗ trợ tái định cư;
Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất cho người bị thu hồi đất. Đối với
hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nơng nghiệp có nguồn sống chính từ
sản xuất nơng nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đang sử dụng
mà không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 8 Nghị định
số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và Điều 44, 45 và 46
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung về cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,

trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xem
xét hỗ trợ phù hợp với thực tế của từng địa phương.
- Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về đất đai; về bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất khi nhà nước thu hồi.
Như vậy, bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và
hộ gia đình khi bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, được bảo đảm bằng hệ


13
thống các quy phạm pháp luật, xác lập các quyền pháp lý của cá nhân và hộ
gia đình, dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể và nghĩa vụ
của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc bảo đảm thực hiện, nhằm
đáp ứng các nhu cầu và lợi ích chính đáng của người dân. Trên cơ sở các
quyền và lợi ích được pháp luật xác lập và bảo đảm thực hiện, cá nhân và hộ
gia đình có thể tự mình bảo vệ hoặc thông qua cơ quan công quyền yêu cầu
bảo vệ mỗi khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
- Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp chuyển nhượng có
điều kiện theo quy định của Chính phủ;
- Cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đầu tư tại Việt Nam thuê quyền sử dụng đất;
- Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di
chúc hoặc theo pháp luật.
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết
thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật.
- Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được
phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản
xuất, kinh doanh;

- Góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hợp tác sản xuất, kinh doanh.
3. Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất có các quyền và
nghĩa vụ sau đây:
- Bán, để thừa kế, tặng cho tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với
đất thuê; người mua, người nhận thừa kế, người được tặng cho tài sản được
Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định;
- Thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với
đất th tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh;


14
- Góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê
trong thời hạn thuê đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài để hợp tác sản xuất, kinh doanh.

- Khái niệm quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân và hộ gia đình
- Khái niệm cá nhân và hộ gia đình
- Khái niệm đất nơng nghiệp
- Khái niệm thực hiện pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân
và hộ gia đình có đất nông nghiệp khi nhà nước thu hồi
1.1.2. Đặc điểm bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Xác định đối tượng được bồi thường, là những chủ thể sử dụng đất nông
nghiệp bao gồm các hộ gia đình (HGĐ), và cá nhân khi thỏa mãn các điều kiện
theo quy định của pháp luật đất đai.
Về phạm vi bồi thường, chỉ khi nhà nước tiến hành thu hồi đất (NNTHĐ)
để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và phát triển kinh tế, người SDĐ mới được bồi thường. Bên cạnh đó, tùy

từng trường hợp Nhà nước sẽ thực hiện các chính sách hỗ trợ (HT) và thực
hiện tái định cư (TĐC) cho người bị thu hồi đất (THĐ).
Về giá đất bồi thường, Nhà nước chủ động trong việc xác định giá đất
bồi thường dựa trên các căn cứ khoa học và tôn trọng giá đất trên thị trường
trong điều kiện bình thường của thửa đất.
Các phương pháp tiến hành, kết hợp phương pháp hành chính và
phương pháp thỏa thuận. Ngồi ra, có thể được sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp như: phương pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và
phương pháp kinh tế…


15
- Tính chất của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Tính phức tạp, đất đai thực sự đóng vai trò rất quan trọng trong đời
sống kinh tế - xã hội.
Đất nông nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn và là tư liệu
sản xuất không thể thiếu được trong sản xuất nơng nghiệp.
Tính đa dạng, khi NNTHĐ để giao cho các dự án đầu tư có nhu cầu SDĐ
được diễn ra trên các khu vực hành chính với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và
trình độ dân trí khác nhau và mục đích SDĐ sau bồi thường cũng rất khác nhau.
1.1.3. Mục đích, Ýý nghĩa bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân và hộ gia đình bị nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp
Thu hồi đất nói chung, trong đó đặc biệt là đất nơng nghiệp khơng chỉ
làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai (làm chấm dứt quyền sử dụng đất của
hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà cịn “đụng chạm” đến lợi ích hợp
pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của người bị thu hồi đất; Lợi ích của
Nhà nước, của xã hội; Lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu hồi đất (các
nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân …). Do vậy trên thực tế
việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là phải xử lý hài hịa
các loại lợi ích kinh tế giữa các bên). Điều này là vấn đề thường gặp rất khó

khăn, phức tạp trên thực tế. Việc giải quyết tốt vấn đề bảo đảm quyền và các
lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang
lại ý nghĩa to lớn trên nhiều góc độ khác nhau:
Dưới góc độ chính trị: Cho đến nay Việt Nam vẫn là một nước nông
nghiệp với khoảng trên 70% dân số là nông dân, vấn đề đất đai ở Việt Nam có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và nhạy cảm. Các chính sách, pháp luật về đất đai
có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về chính trị. Điều này có nghĩa là nếu
chủ trương, chính sách pháp luật đất đai đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và
được thực thi nghiêm túc sẽ góp phần vào việc duy trì và củng cố sự ổn định
chính trị. Ngược lại, sẽ làm phát sinh những điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ gây


16
mất ổn định về chính trị. Một trong các chính sách, pháp luật về đất đai được
xã hội đặc biệt quan tâm đó là chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền và các
lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất; Bởi lẽ
mảng chính sách, pháp luật này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị thu hồi đất. Trong trường hợp bị thu hồi đất nói chung và
thu hồi đất ở nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trực
tiếp bị xâm hại. Họ không chỉ mất quyền sử dụng đất mà còn buộc phải di
chuyển chỗ ở. Hậu quả là cuộc sống thường nhật của họ bị đảo lộn. Với quan
niệm truyền thống của người Việt Nam “có an cư mới lạc nghiệp” thì việc bị
mất đất đai, nhà cửa thực sự là một “cú sốc” đối với người bị thu hồi đất. Do
vậy, họ phản ứng rất gay gắt, quyết liệt thông qua việc khiếu kiện đông
người, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài nếu không được bồi thường, tái định cư
thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất đai nói chung và khiếu kiện về bảo đảm
quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi
đất nói riêng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị và dễ phát sinh thành
các “điểm nóng”; cho nên việc giải quyết tốt vấn đề bảo đảm quyền và các
lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình là thực hiện tốt chính sách an dân

để phát triển kinh tế , xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố sự ổn định về
chính trị.
Về mặt kinh tế - xã hội : Thực tiễn cho thấy bồi thường, giải phóng
mặt bằng ln là cơng việc khó khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai
thực hiện theo tiến độ đề ra có ngun nhân do cơng tác bồi thường, giải
phóng mặt bằng khơng nhận được sự đồng thuận từ phía người dân. Xét
dưới góc độ kinh tế, dự án chậm triển khai thực hiện ngày nào là chủ đầu
tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về lợi ích kinh tế do máy móc, vật
tư, thiết bị bị “đắp chiếu”, người lao động khơng có việc làm trong khi
doanh nghiệp vẫn phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường
xuyên và trả lãi suất vay vốn cho Ngân hàng…Vì vậy, thực hiện tốt cơng


17
tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là điều kiện
để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu tư góp phần vào
việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao tính hấp dẫn của mơi
trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Hơn nữa, duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội, góp phần vào cơng cuộc “xóa đói, giảm nghèo” và tạo tiền đề cho
các bước phát triển tiếp theo .
Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt bồi thường, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất sẽ giúp cho họ và các thành viên khác trong gia đình
nhanh chóng ổn định cuộc sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện
và nâng cao mức sống. Hơn nữa điều này còn giúp củng cố niềm tin của
người bị thu hồi đất vào đường lối, chủ trương, chính sách; Pháp luật của
Đảng và Nhà nước; Đồng thời loại trừ cơ hội để kẻ xấu lợi dụng, tuyên
truyền, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện, đối đầu với chính
quyền nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an tồn xã hội và làm đình
trệ sản xuất .

1.2. NGUYÊN TẮC VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
VÀ CÁC LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, HỘ GIA ĐÌNH KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NƠNG NGHIỆP

1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm
Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm các
quyền và lợi ích của cá nhân và hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy
việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được thực hiện dựa trên các nguyên tắc
cơ bản sau đây [14]:
- Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy
định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 Điều 8 Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường,


18
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi là Nghị định số
197/2004/NĐ-CP) và các Điều 44, 45 và 46 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP) thì
được bồi thường; trường hợp khơng đủ điều kiện được bồi thường thì Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ.
- Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì
được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu
khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng
đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất; trường hợp bồi
thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất ở tái định cư hoặc nhà ở tái
định cư, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thanh
tốn bằng tiền theo quy định sau: a) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn

hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tại khu tái định cư thì người tái
định cư được nhận phần chênh lệch; b) Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ
nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà ở tái định cư thì người tái
định cư phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 19 Nghị định này.
- Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo
quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
- Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích
sử dụng đất để thực hiện các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi quy
định tại Điều 17 Nghị định này.


19

1.2.2. Cơ sở pháp lý bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và
hộ gia đìnhNội dung bảo đảm khi Nhà nước thu hồi đất
Các quy định về bảo đảm quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân,
hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa trên những cơ sở lý
luận và thực tiễn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bảo đảm quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia
đình khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa trên cơ sở quyền sở hữu về tài
sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận và
bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản: “Quyền sở hữu về tài sản của công
dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Quyền này tiếp tục được khẳng định
trong Hiến pháp năm 1992: “Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài
sản khác trong doanh nghiệp…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân” (Điều 58) [29, tr.1]. Hơn nữa, Hiến pháp năm

1992 còn ghi nhận: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc
hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh và vì
lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản
của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường…” (Điều 23) [29, tr.1].
Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ
chức đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Khi Nhà nước thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng
cộng thì tồn bộ tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thu hồi do người sử
dụng đất tạo ra được xác định là tài sản hợp pháp của cá nhân và phải được
bồi thường theo giá thị trường. Đối với trường hợp người sử dụng đất bị
thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở, Nhà nước thực hiện chính sách tái định
cư cho các đối tượng này.


20
Thứ hai, xét về bản chất, Nhà nước ta do nhân dân lao động thiết lập
nên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước theo
đuổi sứ mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn là phục vụ và chăm lo cho lợi
ích, sự phồn vinh của nhân dân. Đặt trong ý nghĩa đó, khi Nhà nước thu hồi
đất ở của người dân để sử dụng bất kì vào mục đích gì (cho dù sử dụng vào
mục đích quốc phịng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát
triển kinh tế) mà họ phải di chuyển chỗ ở thì Nhà nước phải có bổn phận và
nghĩa vụ bồi thường và thực hiện việc tái định cư nhằm làm cho người sử
dụng đất sớm ổn định cuộc sống.
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người sử
dụng đất là hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước
gây ra. Hơn nữa trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, mọi chủ thể trong xã
hội bao gồm Nhà nước, công dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội…
đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng
một xã hội văn minh và hiện đại nơi mà ở đó quyền lợi hợp pháp của mọi

thành viên trong xã hội phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Với cách
hiểu như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất nói chung, trong đó có đất nơng
nghiệp mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất thì
Nhà nước khơng những có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà cịn phải thực
hiện các chính sách hỗ trợ cho họ.
Thứ tư, nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) hướng
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”
trong điều kiện chịu rất nhiều thách thức do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đem lại. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của xu thế tồn cầu hóa về
kinh tế, chúng ta phải biết phát huy nội lực, tinh thần đoàn kết dân tộc và khơi
dậy lịng u nước, tính năng động, sáng tạo của mỗi người dân đóng góp vào
sự nghiệp chấn hưng đất nước. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà


21
nước biết tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người dân. Đây
cũng là một lý do dẫn đến việc ra đời các quy định về bảo đảm thực hiện
quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi
đất nói chung, đất nơng nghiệp nói riêng.
Thứ năm, vấn đề bảo đảm thực hiện quyền và các lợi ích hợp pháp của
cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài.
Nhìn lại thành tựu hơn 25 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới đất nước
có thể nhận thấy rằng những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi mới tư
duy mà hạt nhân cơ bản là đổi mới tư duy về sở hữu tài sản. Để giải phóng
mọi năng lực sản xuất của người lao động, tạo ra một động lực mới cho sản
xuất nông nghiệp, Đảng ta đã rất sáng suốt khi lựa chọn và thực hiện việc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế trong nơng nghiệp làm khâu đột phá cho tồn bộ

q trình cải cách kinh tế với việc từng bước xác lập địa vị làm chủ của hộ gia
đình, cá nhân đối với đất đai thông qua việc giao đất cho họ sử dụng ổn định,
lâu dài và mở rộng các quyền năng cho người sử dụng đất. Như vậy, “kể từ
đây quyền sử dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất
đai chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền
về tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất” hay nói cách khác “Quyền sở
hữu đất đai thuộc về tồn dân do Nhà nước đại diện, cịn quyền sử dụng đất
thuộc quyền sở hữu của người sử dụng đất”. Chính nhờ việc tìm ra cách thức
giao quyền sử dụng đất cho người lao động trên cơ sở vẫn giữ nguyên chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai nhằm duy trì sự ổn định về chính trị - xã hội tạo
tiền đề cho việc phát triển kinh tế mà Việt Nam và Trung Quốc “gặp nhau” ở
điểm chung này và hai nước đã thực hiện thành công cuộc cải cách kinh tế mà
không gặp thất bại như Liên xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trước đây.


22
Như vậy, bằng việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền của người sử
dụng đất thì dường như người sử dụng đất ở nước ta là người “sở hữu” một
loại quyền về tài sản đó là “quyền sử dụng đất”. Bởi lẽ, người sử dụng đất
được pháp luật trao cho các quyền năng liên quan đến quyền sử dụng đất:
quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho,
thừa kế quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử
dụng đất. Một khi pháp luật đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại quyền
về tài sản của người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất nói chung (có
nghĩa là người sử dụng đất bị mất quyền sử dụng đất do hành vi thu hồi đất
của Nhà nước gây ra) và thu hồi đất nơng nghiệp nói riêng, Nhà nước phải
bảo đảm quyền và các lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất là cá nhân và
các hộ gia đình.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRONG
KHU VỰC VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN VÀ CÁC LỢI ÍCH CỦA CÁ

NHÂN VÀ HỘ GIA ĐÌNH KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về chính trị,
kinh tế, văn hóa với Việt Nam. Pháp luật đất đai của Trung Quốc cũng có
nhiều điểm tương đồng với pháp luật đất đai của Việt Nam. Theo số liệu
GDP tính theo PPP của IMF năm 2011, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ
hai thế giới (sau Hoa Kỳ), với tổng GDP tính theo PPP năm 2011 là 7.043 tỷ
USD, trong đó, đóng góp của khu vực dịch vụ trong GDP là 39.5%, đóng
góp của ngành công nghiệp trong GDP là 49.5% và của nông nghiệp trong
GDP là 11%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này trong thời gian qua
cũng đạt mức rất cao, trên dưới 10%/năm.
Có được thành tựu to lớn này khơng thể khơng kể đến những đóng góp
của pháp luật đất đai nói chung và các quy định về bảo đảm quyền và các lợi


23
ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Vì
vậy tìm hiểu, học tập kinh nghiệm về thực tiễn pháp lý về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư của Trung Quốc là rất cần thiết đối với Việt Nam.
Về thẩm quyền thu hồi đất
Theo pháp luật đất đai của Trung Quốc thì chỉ có Chính phủ và chính
quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mới có thẩm quyền thu hồi
đất. Quốc vụ viện (Chính phủ) có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp từ 35
ha trở lên và 70 ha trở lên đối với các loại đất khác. Dưới hạn mức đất này,
chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định thu hồi.
Đất nông nghiệp sau khi thu hồi sẽ chuyển từ đất thuộc sở hữu tập thể thành
đất thuộc sở hữu nhà nước.
Về trách nhiệm bồi thường
Pháp luật Trung Quốc quy định người nào sử dụng đất thì người đó có

trách nhiệm bồi thường. Phần lớn tiền bồi thường do người sử dụng đất trả.
Tiền bồi thường này bao gồm: Lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và
các khoản tiền trả cho người có đất bị thu hồi.
- Lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước: Theo quy định của pháp
luật, 70% mức lệ phí này được giữ lại ở ngân sách cấp tỉnh và 30% còn lại
nộp về ngân sách trung ương;
- Các khoản đền bù cho người có đất bị thu hồi: Theo quy định, khi
thu hồi đất phải trả cho người bị thu hồi các loại tiền sau đây: Tiền bồi thường
đất đai; tiền trợ cấp về tái định cư; tiền trợ cấp bồi thường hoa màu trên đất.
Theo đó, cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ
theo giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đây nhân với một hệ
số do Nhà nước quy định. Đối với tiền bồi thường hoa màu và tài sản trên đất
thì xác định theo giá thị trường tại thời điểm thu hồi đất. Ví dụ: ở Bắc Kinh,
khoản tiền bồi thường hoa màu này được tính bằng 6 - 10 lần sản lượng trung


24
bình của 3 năm trước đó. Tuy nhiên, tổng 2 khoản tiền này không được vượt
quá 30 lần sản lượng trung bình của 3 năm trước của thửa đất đó.
Về nguyên tắc bồi thường
Pháp luật Trung Quốc quy định khoản tiền bồi thường cho GPMB phải
đảm bảo cho người bị thu hồi đất ở có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở
cũ. Thực tế ở Bắc Kinh cho thấy, phần lớn các gia đình dùng số tiền bồi
thường đó cộng với khoản tiền tiết kiệm, họ có thể mua được căn hộ mới. Còn
đối với người dân thuộc khu vực nơng thơn có thể dùng khoản tiền đó mua
được 2 căn hộ ở cùng một nơi. Tuy nhiên, ở thành thị, cá biệt cũng có một số
gia đình sau khi được đền bù cũng khơng mua nổi một căn hộ để ở. Những
đối tượng trong diện GPMB được hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà
nước, song trên thực tế họ thường mua nhà bên ngoài thị trường.
Về thời điểm bồi thường

Thời điểm xác định bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi đất
được tính theo ngày cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cơ quan quản lý giải tỏa mặt bằng
Cục Quản lý tài nguyên đất đai tại các địa phương thực hiện việc quản
lý giải tỏa mặt bằng. Người nhận khu đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng
giải tỏa mặt bằng khu đất đó (thơng thường là các đơn vị chịu trách nhiệm thi
cơng cơng trình trên khu đất giải tỏa).
Về đối tượng được đền bù khi giải tỏa mặt bằng
Trường hợp phá nhà ở, nhà riêng của người dân nào thì người đó được
bồi thường thiệt hại. Đối với nhà tập thể, nhà khơng có người ở, nhà ở của
thôn, xã nhưng không thuộc sở hữu của cá nhân thì số tiền bồi thường được
sử dụng để xây dựng xí nghiệp hương, trấn (thơn). Khoản tiền này được xác
định là phần vốn góp cổ phần thơn trong xí nghiệp. Người đầu tư xây dựng xí
nghiệp trên mảnh đất giải tỏa nhà phải trả tiền bồi thường cho thôn có mảnh
đất đó.
1.3.2. Kinh nghiệm của một số nước khác


25
Ở Thái Lan, cũng giống như ở nhiều nước khác trong khu vực châu Á,
q trình đơ thị hố diễn ra nhanh chóng, mọi giao dịch về đất đai đều do cơ
chế thị trường điều tiết. Tuy nhiên, với những dự án do Chính phủ quản lý,
việc đền bù được tiến hành theo trình tự: tổ chức nghe ý kiến người dân; định
giá đền bù.
Giá đền bù phụ thuộc vào từng khu vực, từng dự án. Nếu một dự án
mang tính chiến lược quốc gia thì nhà nước đền bù với giá rất cao so với giá
thị trường. Nhìn chung, khi tiến hành lấy đất của dân, nhà nước hoặc cá nhân
đầu tư đều đền bù với mức cao hơn giá thị trường [16].
Ở Hàn Quốc, vào những năm 70 của thế kỷ trước, trước tình trạng di
dân ồ ạt từ các vùng nông thôn vào đô thị, thủ đô Xơ-un đã phải đối mặt với

tình trạng thiếu đất định cư trầm trọng trong thành phố. Để giải quyết nhà ở
cho dân nhập cư, chính quyền thành phố phải tiến hành thu hồi đất của nông
dân vùng phụ cận. Việc đền bù được thực hiện thông qua các công cụ chính
sách như hỗ trợ tài chính, cho quyền mua căn hộ do thành phố quản lý và
chính sách tái định cư.
Các hộ bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận căn hộ do thành phố
quản lý, được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách Xơ-un khoảng 5
km. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, khi thị trường bất động sản bùng nổ,
hầu hết các hộ có quyền mua căn hộ có thể bán lại quyền mua căn hộ của
mình với giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Thơng qua việc tìm hiểu pháp luật Trung Quốc, Thái Lan và Hàn Quốc
về bảo đảm quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà
nước thu hồi đất, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam
trong quá trình xây dựng và hồn thiện các quy định về bảo đảm quyền và các
lợi ích hợp pháp của cá nhân, hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất như sau:


×