Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh bắc giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.04 KB, 129 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân vì dân đạt được thành cơng thì điều kiện tiên quyết đặt ra là phải kiện
toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước làm
cho các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương thực hiện đúng và đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định Hiến pháp và pháp luật.
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Vì vậy, xây dựng HĐND
các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình là
một u cầu bức thiết hiện nay.
HĐND có hai chức năng chính là: chức năng quyết định và chức năng
giám sát. Hai chức năng này bổ trợ cho nhau, giúp hoạt động của HĐND có
hiệu quả. Chức năng giám sát là chức năng bảo đảm để HĐND thực sự là cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên
tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát
là một trong những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND. Điều này đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng:
"Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
và HĐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các
Ủy ban của Quốc hội và của HĐND các cấp; phân định rõ tính chất, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội
và HĐND với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát...". Trước yêu cầu đổi
mới hoạt động của các cơ quan dân cử tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI
đã ban hành Luật tổ chức HĐND và UBND (năm 2003), trong đó, có riêng


2


một chương quy định về hoạt động giám sát của HĐND. Tiếp theo đó, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02
tháng 4 năm 2005 ban hành Quy chế hoạt động của HĐND với nhiều quy
định hướng dẫn về hoạt động giám sát của HĐND.
Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, trong thời gian qua hoạt động giám sát của HĐND đã từng bước có
những chuyển biến tích cực. Hoạt động giám sát đã đi vào trọng tâm, trọng
điểm, kịp thời phát hiện những thiếu sót, bất cập, vướng mắc và đưa ra những
kiến nghị khả thi. Góp phần không nhỏ vào thành tựu chung của sự nghiệp
đổi mới đất nước, khẳng định được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân,
là chỗ dựa vững chắc để nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động giám sát của
HĐND vẫn còn những hạn chế nhất định, như: cịn mang tính hình thức, giám
sát chưa sâu, nhiều sai phạm chưa được phát hiện, xử lý kịp thời; các kết luận
sau giám sát cịn chung chung; cơng tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các kiến
nghị sau giám sát chưa thường xuyên.
Trong Hệ thống HĐND các cấp thì HĐND cấp tỉnh có một vị trí, vai trị
rất quan trọng là cầu nối giữa Trung ương và địa phương trong việc thực thi
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương và là
nơi trực tiếp quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để xây dựng
và phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng. Đặc biệt từ sau khi
thực hiện Nghị quyết số 725/2009/NQ-UBTVQH về thực hiện thí điểm không
tổ chức HĐND cấp huyện, quận, phường tại một số tỉnh, thành phố. Do vậy,
HĐND cấp tỉnh sẽ đảm đương thêm một số nhiệm vụ trong đó có cơng tác
giám sát cho nên, trách nhiệm giám sát của HĐND cấp tỉnh ở những nơi thực
hiện thí điểm Nghị quyết sẽ nặng lề hơn rất nhiều. Từ cơ sở lý luận và thực
tiễn trên cho thấy, đảm bảo hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh trong giai
đoạn hiện nay là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu cấp thiết có ý nghĩa to lớn cho
việc tiếp tục củng cố và tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân.



3
Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, học viên chọn đề tài "Hiệu quả
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay"
làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề giám sát và hiệu quả giám sát của HĐND nói chung, HĐND cấp
tỉnh nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu một số cơng trình tiêu biểu sau:
- Quyền giám sát của HĐND và kỹ năng giám sát cơ bản, của TS Phạm

Ngọc Kỳ, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2001;
- Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng cao hiệu quả giám sát

việc thực hiện quyền lực nhà nước, của tác giả Võ Khánh Vinh, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2003;
- Hướng dẫn hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực

KHCN bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, của tác giả Hồ Đức Việt,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2003;
- Đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND tỉnh ở

nước ta, của Nguyễn Công Khanh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1997;
- Nâng cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi

mới ở Việt Nam hiện nay, của Vũ Mạnh Thông, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998;
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh (Qua thực tiễn


hoạt động của HĐND tỉnh Khánh Hòa), Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, 2000.
- Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn

hiện nay, của Hồ Thị Hưng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;


4
- Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương đối

với cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai, của Phạm Quang Hưng,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Thanh Hóa, của Nguyễn

Thanh Nhàn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 2010;
- Chuyên đề: Giải pháp nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh ở tỉnh Bắc Giang do Văn phịng Đồn đại biểu quốc hội và
Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang thực hiện.
Các cơng trình trên đã tiếp cận hoạt động giám sát của HĐND từ nhiều
góc độ, nhiều khía cạnh với những luận giải, đánh giá rất khoa học, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn đối với hoạt động này. Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay
chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, tồn diện,
đầy đủ và có hệ thống về nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND.
Đặc biệt chưa có một đề tài của các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu riêng rẽ
về hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang để tổng kết, đánh
giá những thành tựu, hạn chế, qua đó đưa ra được những giải pháp có giá trị
thực tiễn nhằm nâng cao hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất những quan điểm, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên luận văn có nhiệm vụ làm rõ cơ
sở lý luận về hoạt động giám sát, chất lượng giám sát và yêu cầu hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh, bao gồm: khái niệm, đặc điểm, vai
trò của hoạt động giám sát; khái niệm, mục tiêu, yêu cầu và các điều kiện bảo
đảm hoạt động giám sát của HĐND tỉnh được nâng lên; phân tích thực trạng


5
hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang để tìm ra ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế; trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, giải
pháp để nâng cao hơn nữa hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh và được giới hạn trong thực tiễn hoạt động
giám sát của HDND tỉnh Bắc Giang nhiệm kỳ 2004-2011 và từ khi bầu cử
nhiệm kỳ mới đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa, về tổ chức, hoạt động của HĐND, chức năng giám
sát của HĐND.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin kết hợp
với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế…
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề lý

luận, cũng như đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn
nữa hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang. Phương pháp thống kê, so
sánh, khảo sát thực tế, nhằm đánh giá đúng đắn thực trạng hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh Bắc Giang cả về những kết quả đã đạt được, những hạn chế, yếu
kém trong hoạt động này.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Với việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Bắc Giang, luận văn sẽ có những đóng góp mới như sau:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về hoạt động giám sát, đổi
mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh như khái


6
niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động giám sát; khái niệm, mục tiêu, yêu cầu
và các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát, các điều kiện bảo đảm nâng cao
hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh Bắc Giang nhiệm kỳ 2004-2011 và từ khi bầu cử nhiệm kỳ
mới đến nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao và đảm bảo hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Bắc Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
VÀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1.1. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Cách mạng tháng 10 Nga thành công nhân loại tiến bộ đã thiết lập được
một kiểu nhà nước mới, kiểu Xơ viết, nó tạo khả năng cho quần chúng lao
động bị áp bức có thể tham gia hết sức tích cực và chủ động vào cơng cuộc
xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa đánh dấu sự xuất hiện của cơ quan dân cử, một chế độ đại diện tiến bộ
trong lịch sử. Ở nước ta, sau Cách mạng tháng 8, cơ quan dân cử ở các cấp
chính quyền chính thức được thành lập. Ngày 22/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 63 về tổ chức HĐND và Uỷ ban hành chính. Ngày
6/1/1946 tồn dân Việt Nam đã bỏ phiếu bầu ra Quốc Hội, HĐND các cấp.
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND đã khẳng định được vị
trí, vai trị, trách nhiệm to lớn của mình. HĐND thực sự trở thành diễn đàn để
nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội. Sự hiện diện
của HĐND dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện được tính chất giai cấp sâu
sắc, tính nhân dân thực sự của Nhà nước, tạo nên niềm tin vững chắc cho
nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Điều 119 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 1
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên [49].


8
Trong q trình xây dựng và kiện tồn bộ máy nhà nước, tính chất đại

diện của HĐND ngày càng thể hiện sâu sắc. Ở địa phương, HĐND là cơ quan
duy nhất do cử tri bầu ra theo nguyên tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp, bỏ
phiếu kín. Đại biểu HĐND là những người tiêu biểu, ưu tú, đại diện cho ý chí
và quyền làm chủ của nhân dân. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình
thức thể hiện rõ nét nhất ở chỗ HĐND có cơ cấu đại biểu thuộc mọi tầng lớp,
mọi thành phần xã hội. Điều đó có nghĩa, HĐND khơng đại diện cho một
đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể nhân dân địa phương; thành
phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết tồn dân. Như vậy, tính chất đại
diện của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc Hội. Quốc Hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại biểu Quốc hội là người đại diện cho
nhân dân cả nước.
Trong bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật, Bác Hồ đã viết: “Nước ta là
nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [41, tr.698]. Điều đó cho thấy nguồn
gốc, bản chất quyền lực nhà nước là quyền lực nhân dân. Đối với HĐND cấp
tỉnh nó thể hiện quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Tính chất quyền lực
của HĐND cấp tỉnh thể hiện trên các mặt sau:
- Căn cứ vào quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức vụ trong tổ chức của mình (thường trực HĐND, các ban
của HĐND);
- Căn cứ vào quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
các chức danh của UBND (là cơ quan chấp hành của mình, là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương);
- Căn cứ vào quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND ban hành các
Nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.
- HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.


9

Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND cấp tỉnh có quan hệ
biện chứng với nhau. Tính đại diện là tiền đề bảo đảm để HĐND cấp tỉnh trở
thành cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Và chỉ có thể là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND cấp tỉnh mới có đủ quyền năng
thực hiện tính chất đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định
những vấn đề quan trọng ở địa phương.
Tuy HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng xét về vị trí
pháp lý, HĐND cấp tỉnh không giống với Quốc hội. Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, còn HĐND cấp tỉnh là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Sự khác biệt ở đây không chỉ ở phạm vi, cấp độ mà còn ở
thẩm quyền. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến, làm luật, sửa
đổi luật. HĐND cấp tỉnh cũng là cơ quan quyền lực nhưng chỉ có quyền ban
hành Nghị quyết trong phạm vi địa phương.
Với vị trí, tính chất được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND cấp tỉnh vừa là một cơ quan trong bộ
máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho nhân dân địa phương.
Chính vị trí, tính chất này đã quyết định chức năng của HĐND cấp tỉnh.
HĐND cấp tỉnh có hai chức năng quan trọng là chức năng quyết định
và chức năng giám sát.
Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thuộc
thẩm quyền của HĐND được quy định rõ đối với từng cấp, từ Mục 1 đến Mục
3, Chương II Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Đối với HĐND cấp
tỉnh, có quyền quyết định trên các lĩnh vực sau:
+ Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11);
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thơng tin, thể
dục, thể thao (Điều 12);
+ Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi
trường (Điều 13);



10
+ Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14);
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo
(Điều 15);
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16);
+Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17)
Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng,
bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định vị trí, vai trị, tầm quan
trọng của HĐND cấp tỉnh. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý tạo
mơi trường thuận lợi để chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm năng,
nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân địa phương, làm tròn mọi nhiệm vụ mà nhân dân giao cho.
Bên cạnh chức năng quyết định, HĐND còn "thực hiện quyền giám
sát đối với hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND
cùng cấp; giám sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức y
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương"
(Điều 1, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Cụ thể, HĐND cấp tỉnh
tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các quyết định của HĐND cấp
tỉnh. Thực hiện tốt chức năng này không chỉ cho phép HĐND cấp tỉnh kiểm
tra, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật, các nghị quyết của HĐND mà còn giúp HĐND cấp tỉnh
phát hiện những điểm không phù hợp, thiếu thực tế trong các nghị quyết của
HĐND để sửa đổi, bổ sung kịp thời. Kết quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND
cấp tỉnh thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ chủ chốt cùng
cấp hoặc sẽ là căn cứ để HĐND cấp tỉnh bãi bỏ những quyết định sai trái của
UBND cùng cấp, những nghị quyết sai trái của HĐND cấp huyện.
Quyết định và giám sát là hai chức năng cơ bản của HĐND. Hai
chức năng này có quan hệ chặt chẽ, tác động trực tiếp đến nhau. Thực hiện



11
tốt chức năng giám sát là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho các
quyết định của HĐND được thực hiện nghiêm túc. Đồng thời giám sát là cơ
sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định trên thực tiễn, giúp phát
hiện những điểm chưa phù hợp với với tình hình thực tế để kịp thời sửa chữa,
bổ sung. Ngược lại, các quyết định của HĐND là cơ sở cho hoạt động giám
sát được tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động giám sát tập
trung vào các vấn đề cấp bách của địa phương.
Có thể nói HĐND cấp tỉnh có vị trí, tính chất, chức năng rất quan trọng
trong bộ máy nhà nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước,
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân thì trước hết cần đề cao tính hiệu quả
trong hoạt động của cơ quan dân cử và phải có nhận thức đúng đắn về vị trí,
vai trị, chức năng của cơ quan dân cử.
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Giám sát vừa là hình thức hoạt động thực thi quyền lực, vừa là phương
thức đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng với phạm vi
quyền hạn mà pháp luật đã quy định cho mỗi thiết chế quyền lực. Trong quản
lý nhà nước, giám sát có vai trị đặc biệt quan trọng. Ở nước ta, ngay từ thời
phong kiến, các vương triều luôn quan tâm đến cơ chế giám sát, ln đề cao
vai trị và hiệu quả của cơ quan chuyên trách giám sát. Thời kỳ này giám sát
việc thực hiện quyền lực nhà nước được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ và
khá tồn diện. Trong đó tập trung vào hai lĩnh vực hành chính - hành pháp và
tư pháp - xét xử. Đối tượng giám sát là toàn bộ đội ngũ quan lại, hệ thống cơ
quan, chính quyền các cấp từ trung ương xuống địa phương. Trong việc giám
sát thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, ngoài sự giám sát của Ngự sử
đài - đô sát viện, của lục khoa, của cấp trên đối với cấp dưới thì các chuyến đi
tuần thú của nhà vua về các địa phương, chế độ kinh lược sứ (chế độ thanh tra
đặc biệt đối với địa phương), các kỳ sát hạch… là những phương thức giám



12
sát rất được coi trọng. Như vậy, trong xã hội phong kiến đã hình thành cơ chế
giám sát. Trong đó thể hiện rõ chủ thể giám sát, đối tượng chịu sự giám sát,
các hình thức giám sát và phương pháp giám sát. Cơ chế giám sát đó khơng
chỉ bảo vệ qn quyền, mà cịn góp phần quan trọng tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của quyền lực nhà nước và để lại khơng ít những kinh nghiệm hay cho
đời sau.
Có thể khẳng định rằng, ở đâu có quyền lực nhà nước thì ở đó có giám
sát. Để đạt được mục tiêu mà quyền lực nhà nước ta đang phụng sự thì nhất
thiết phải duy trì giám sát và phải có cơ chế giám sát hữu hiệu.
Đối với HĐND cấp tỉnh thì giám sát là một trong hai chức năng cơ bản,
quan trọng. Để nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung và phương thức hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh trước hết cần làm rõ khái niệm “giám sát”.
- Có quan niệm cho rằng "giám sát" là: “Sự theo dõi, xem xét, làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định.
- Quan niệm khác coi "giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định khơng".
- Có ý kiến chỉ coi "giám sát là một nhóm hoặc là một tổ chức để theo
dõi người, việc nào đấy”.
- Dưới góc độ giám sát là chức năng của quản lý xã hội, một bộ phận
hợp thành quyền lực nhà nước, giám sát được quan niệm: Là một hệ thống có
phân chia các thiết chế (định chế) nhà nước và xã hội được tổ chức và hoạt
động theo một cơ chế nhất định. Để biểu thị cho tổng thể các cơ chế xã hội tác
động đến hành vi của con người với mục đích khắc phục các sai lệch khỏi các
quy phạm mà xã hội tiếp nhận.
- Với cách tiếp cận mang tính hệ thống, tính khoa học pháp lý, có ý kiến
lại cho rằng: Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động,
thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để

buộc và hướng hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,


13
quy chế nhằm đạt được những mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm
cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh.
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ "giám sát" có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát
là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó trong một cơng
việc, lĩnh vực cụ thể đã thực hiện đúng hay chưa những điều đã quy định;
từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với những hành vi sai lệch,
nhằm đạt được mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho các quy
định được thực hiện đúng và đầy đủ.
Với quan niệm trên giám sát có những đặc trưng sau:
- Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định. Tức là phải trả lời
được câu hỏi cá nhân hoặc tổ chức nào có quyền theo dõi, xem xét, đánh giá
một việc đã được thực hiện là đúng hay sai những điều đã quy định.
- Giám sát luôn luôn gắn với một đối tượng nhất định. Tức là phải trả
lời được câu hỏi giám sát ai và giám sát việc gì?
- Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào
hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và
nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy
định. Bởi đó chính là cơ sở, chuẩn mực để chủ thể có quyền thực hiện việc
giám sát đưa ra những nhận định chính xác về hoạt động của đối tượng chịu
sự giám sát.
- Giám sát là hoạt động có mục đích. Mục đích của giám sát là đưa ra
được những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát. Từ đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm sai trái,
nhằm bảo đảm những quy định pháp luật được thực hiện nghiêm túc.

Như vậy, thuật ngữ "giám sát" nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung thì phạm
vi áp dụng của nó rất rộng. Muốn có một cách hiểu cụ thể thì hoạt động giám sát


14
bao giờ cũng phải gắn với một chủ thể xác định như giám sát của Đảng, giám sát
của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân, giám sát của Mặt trận Tổ quốc…
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983 đã chính thức sử dụng thuật
ngữ "giám sát" để qui định chức năng giám sát của HĐND. Đến Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1994, chức năng này một lần nữa được qui định cụ thể
hơn. Đặc biệt với sự ra đời của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đã
đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát của HĐND, góp phần
nâng cao vị thế, vai trò của HĐND. Tuy nhiên, Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 vẫn chưa có điều luật nào giải thích cụ thể, rõ ràng thuật ngữ này.
Nếu căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào
những quy định của Hiến Pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và
các văn bản pháp luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu
như sau:
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là tổng thể các
hoạt động của HĐND, của Thường trực HĐND, các Ban HĐND, đại biểu
HĐND cấp tỉnh nhằm xem xét, theo dõi, đánh giá hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc chấp hành Hiến pháp,
luật, pháp lệnh, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các Nghị
quyết của HĐND cấp tỉnh; từ đó đưa ra các kết luận và phương án xử lý
phù hợp để khắc phục những hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phịng an ninh; khơng
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương,
làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, quyền giám sát việc thực

hiện pháp luật thuộc về nhiều cơ quan, tổ chức: Quốc hội, Chủ tịch nước,
VKSND, TAND, HĐND, Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên...
Trong đó, giám sát của HĐND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát


15
triển của địa phương. Xuất phát từ vị trí, vai trị của HĐND và tính phong phú
trong hoạt động giám sát, giám sát của HĐND có các đặc điểm sau:
1.1.2.1. Đặc điểm về chủ thể giám sát
Theo Điều 57 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường trực
HĐND, giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Như vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND bao gồm:
- HĐND.
- Thường trực HĐND.
- Các Ban của HĐND.
- Đại biểu HĐND.
Chế định pháp luật về Thường trực HĐND được quy định từ khi ban
hành Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989, tuy nhiên chức năng giám sát
của Thường trực HĐND mới chỉ được quy định lần đầu tiên trong Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 2003. Như vậy, từ năm 2003, Thường trực
HĐND cấp tỉnh mới được coi là chủ thể có năng lực pháp lý thực hiện quyền
giám sát. Với việc quy định rõ về chủ thể giám sát đã góp phần quan trọng
nâng cao vị thế của HĐND cấp tỉnh trong hoạt động giám sát.
1.1.2.2. Đặc điểm về đối tượng giám sát
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đối tượng giám sát của
HĐND cấp tỉnh bao gồm:
+ Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp (Khoản 1,
Điều 58).
+ Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND các thành viên khác của UBND,

Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh
án TAND cùng cấp (Khoản 2, Điều 58)
+ Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân ở địa phương (Điều 1, Điều 41, Điều 42, Điều 55).


16
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND
cấp tỉnh rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước,
đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở
địa phương.
Quy định như trên vừa thể hiện được vị trí của HĐND cấp tỉnh là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa đảm bảo cho Hiến pháp, pháp
luật, các nghị quyết của HĐND được tuân thủ nghiêm minh. Đây là nội
dung có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho HĐND thực hiện có hiệu
quả những nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên thực tế.
1.1.2.3. Đặc điểm về hình thức giám sát
Hình thức ở đây được hiểu là cách thức mà HĐND cấp tỉnh áp dụng để
giám sát các đối tượng theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ tính đa dạng
trong sự biểu hiện bản chất thống nhất của giám sát làm cho các hình thức
giám sát cũng trở nên đa dạng. Việc lựa chọn hình thức giám sát này hay hình
thức giám sát khác phụ thuộc vào mục đích giám sát, tính chất hoạt động của
khách thể bị giám sát, thành phần của những người giám sát và các nguyên
nhân khác.
Để phát huy vai trò của hoạt động giám sát, Điều 58 Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 và Quy chế hoạt động của HĐND các cấp năm 2005 đã
quy định HĐND cấp tỉnh giám sát dựa trên những hình thức như sau:
* Thứ nhất: Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp
Đây là hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND cấp tỉnh.

Theo Điều 60 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Tại kỳ họp cuối
năm, HĐND xem xét, thảo luận báo công tác hàng năm của Thường trực
HĐND, UBND, các Ban của HĐND, TAND, VKSND cùng cấp. Tại kỳ họp
giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến đại biểu HĐND; khi cần
thiết, HĐND có thể xem xét, thảo luận. Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, HĐND


17
xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của HĐND, Thường trực
HĐND, UBND, các Ban của HĐND, TAND, VKSND cùng cấp. HĐND có
thể yêu cầu báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết. Riêng đối
với báo cáo của UBND, VKSND, TAND phải được các Ban của HĐND thẩm
tra theo sự phân công của Thường trực HĐND.
Theo Khoản 3 Điều 60 Luật tổ chức HĐND và UBND thì HĐND xem
xét, thảo luận các báo cáo phải đảm bảo trình tự: Người đứng đầu các cơ quan
bị giám sát trình bày báo cáo; Trưởng ban HĐND tỉnh trình bày báo cáo thẩm
tra; HĐND tỉnh thảo luận; người đứng đầu cơ quan trình báo cáo có thể trình
bày thêm những vấn đề có liên quan mà HĐND quan tâm; HĐND ra nghị
quyết về báo cáo công tác khi xét thấy cần thiết.
Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về cơng
việc của mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó HĐND có
thể kiểm sốt tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản pháp luật
cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiễn đời sống xã hội, tăng cường
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu UBND và các ban ngành về công tác của
họ trước HĐND.
* Thứ hai: Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp
Chất vấn là hoạt động giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện quyền lực của
cơ quan dân cử ở địa phương. Tại kỳ họp, chất vấn là nội dung thu hút được sự

quan tâm của đông đảo nhân dân. Thông qua chất vấn, các đại biểu thể hiện trách
nhiệm của mình đối với cử tri. Đồng thời, qua việc trả lời chất vấn, xác định rõ
trách nhiệm của các cơ quan chức năng.
Theo quy định tại Điều 61 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì
tại kỳ họp việc chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện như sau:
+ Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào
phiếu ghi chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND. Thường trực HĐND


18
chuyển chất vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu
HĐND để báo cáo HĐND.
+ Thường trực HĐND dự kiến danh sách những người có trách nhiệm
trả lời chất vấn và báo cáo HĐND quyết định.
+ Việc trả lời chất vấn tại phiên họp tồn thể của HĐND được thực hiện
theo trình tự: Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà
đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục.
Đại biểu HĐND có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn. Sau
khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu HĐND không đồng ý với nội dung trả
lời thì có quyền đề nghị HĐND tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó hoặc đưa
ra thảo luận tại phiên họp khác hoặc kiến nghị HĐND xem xét trách nhiệm
của người bị chất vấn. HĐND ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách
nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Thực chất hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND tỉnh đưa ra các
câu hỏi chất vấn cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung của câu hỏi này
thường xoay quanh các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm
thuộc lĩnh vực quản lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn.
* Thứ ba: Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp,
nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban

thường vụ Quốc hội, văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp
Đây là hình thức HĐND cấp tỉnh giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của
các văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND
cấp huyện. Nếu HĐND cấp tỉnh phát hiện thấy những văn bản này có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND tỉnh thì HĐND cấp tỉnh sẽ xem
xét, quyết định việc bãi bỏ văn bản đó.


19
Việc quy định thẩm quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND như hiện nay, một mặt giảm được bớt gánh nặng công việc cho Quốc
Hội, mặt khác góp phần bảo đảm tính thống nhất cao của pháp luật. HĐND
tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nắm vững tình hình của địa
phương về mọi mặt, đảm nhiệm công việc này sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
Việc xem xét phải đảm bảo trình tự sau:
+ Đại diện Thường trực HĐND trình văn bản quy phạm pháp luật có
dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên;
+ HĐND thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan
đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn
đề có liên quan;
+ HĐND ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái
với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên; quyết định bãi bỏ một phần hoặc tồn bộ văn bản đó.
Có thể nói, hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật của HĐND
cấp tỉnh có vai trị rất quan trọng. Qua hoạt động này, mới loại bỏ được những
văn bản pháp luật sai trái, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất

của các văn bản quy phạm pháp luật.
* Thứ tư: Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, xét thấy cần
thiết phải xác minh, làm rõ một sự việc nào đó thì HĐND cấp tỉnh có thể
thành lập Đoàn giám sát.
Khi thực hiện nhiệm vụ giám sát do HĐND cấp tỉnh giao, Đồn giám
sát có trách nhiệm:
+ Thông báo nội dung, kế hoạch giám sát cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát chậm nhất là bảy ngày trước ngày bắt đầu tiến hành hoạt
động giám sát.


20
+ Mời đại diện Ban thường trực Uỷ ban MTTQ tỉnh, các tổ chức thành viên
của Mặt trận và yêu cầu đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia
giám sát; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này.
+ Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát và thẩm quyền, trình tự,
thủ tục giám sát; khơng làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng chịu
sự giám sát.
+ Trong trường hợp cần thiết, Đoàn giám sát yêu cầu các cơ quan tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi
phạm, xử lý người vi phạm nhằm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân bị vi phạm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu
cầu, kiến nghị qua hoạt động giám sát của mình.
* Thứ năm: Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu
Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu là một
hình thức giám sát mới được qui định trong Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 2003. Đây là công cụ quan trọng giúp đảm bảo sự giám sát của HĐND.
Với quy định này khẳng định sức mạnh của nhân dân - được thể hiện qua các
đại biểu HĐND. Nó chứng tỏ rằng, nhân dân có quyền mạnh tay nếu các cơng

bộc - các quan chức khơng vì lợi ích của họ.
Những chủ thể có quyền nêu ra vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm là: Thường
trực HĐND, các Ban HĐND, đại biểu HĐND, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp
tỉnh. Mặc dù theo quy định của pháp luật có nhiều chủ thể có quyền đặt ra vấn
đề bất tín nhiệm nhưng việc trình HĐND xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ
thuộc thẩm quyền của Thường trực HĐND.
Điều 65 Luật tổ chức HĐND và UBND cũng quy định về trình tự, thủ
tục, cách thức tiến hành việc bỏ phiếu tín nhiệm:
+ Thường trực HĐND trình HĐND về việc bỏ phiếu tín nhiệm
+ Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của
mình trước HĐND tỉnh, HĐND tỉnh thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm.


21
+ Trong trường hợp không được quá nửa tổng số đại biểu HĐND tỉnh
tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu người đó có trách
nhiệm trình HĐND tỉnh xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm
người khơng được HĐND tỉnh tín nhiệm.
Theo Khoản 7, Điều 53 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, cơ
sở để Thường trực HĐND tỉnh trình HĐND tỉnh bỏ phiếu tín nhiệm là theo đề
nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại
biểu HĐND (tức là hơn 33% tổng số đại biểu).
Những quy định trên cho thấy, đối với những người giữ chức vụ do
HĐND bầu, HĐND có quyền tìm kiếm cơ sở để quy kết trách nhiệm là bỏ
phiếu tín nhiệm. Nếu sự tín nhiệm khơng cịn thì có thể áp dụng các biện pháp
chế tài là miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các hình thức giám
sát đã được phân định rạch ròi và được quy định tương đối chi tiết, cụ thể.
Trong đó, bổ sung thêm một số hình thức mới như: xem xét văn bản quy
phạm pháp luật, thành lập Đồn giám sát của HĐND cấp tỉnh, bỏ phiếu tín

nhiệm. Việc quy định theo hướng mở rộng các hình thức giám sát giúp
HĐND cấp tỉnh chủ động, linh hoạt hơn rất nhiều trong hoạt động giám sát
của mình, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát.
1.1.2.4. Đặc điểm nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND tỉnh thực hiện tốt chức năng giám sát,
trước hết phải xác định rõ nội dung giám sát của cơ quan này. Theo các quy
định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, khi quyết định những
vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND ra Nghị quyết và giám
sát việc thực hiện Nghị quyết đó. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của HĐND, nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh bao gồm các lĩnh vực sau:
- Giám sát về lĩnh vực kinh tế (Điều 11).
- Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hố,
thơng tin, thể dục, thể thao (Điều 12).


22
- Giám sát các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học,
công nghệ, tài nguyên và môi trường (Điều 13).
- Giám sát việc thực hiện nghĩa vụ quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn
xã hội (Điều 14).
- Giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo
(Điều 15).
- Giám sát việc thi hành pháp luật (Điều 16).
- Giám sát việc xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới
hành chính (Điều 17).
Như vậy, nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh rất rộng, toàn diện, bao
quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng, xây dựng, củng cố chính quyền, thực hiện
pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.
1.1.2.5. Phân biệt hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp

tỉnh với một số hình thức giám sát khác
Khơng chỉ HĐND có chức năng giám sát mà một số cơ quan, tổ chức
khác cũng có chức năng này, như: Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban
Thanh tra nhân dân... Trong đó, giám sát của cơ quan dân cử nói chung, hoạt
động giám sát của HĐND cấp tỉnh nói riêng, mang tính đặc thù so với các
hoạt động giám sát của các cơ quan khác.
- Hoạt động giám sát của Đảng
Hướng dẫn từ số 03 đến số 08 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương năm
2007 đã quy định công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng cấp trên (bao
gốm cấp ủy, Ban thường vụ cấp ủy, các ban của cấp ủy, ủy ban kiểm tra) đối
với việc kiểm tra, giám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong
việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; việc thực hiện nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quy chế của cấp ủy cấp trên và cấp ủy cấp mình. Việc lãnh
đạo thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước; lãnh đạo việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và việc đảm bảo quyền của đảng viên.


23
Đối với cán bộ, đảng viên, giám sát về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, mối quan hệ với quần chúng
trong cơ quan và nơi cư trú. Giám sát việc thực hiện Điều lệ Đảng, thực hiện
nghị quyết của chi bộ, thực hiện nhiệm vụ do chi bộ phân công và nhiệm vụ
tiêu chuẩn đảng viên, ý thức tổ chức kỷ luật, tự phê bình và phê bình đồn kết
thống nhất nội bộ. Như vậy, hoạt động giám sát của Đảng khơng mang tính
quyền lực nhà nước như giám sát của HĐND, khơng mang tính nhân dân như
giám sát của Mặt trận Tổ quốc mà mang tính kỷ luật nội bộ Đảng, đó là sự
lãnh đạo của Đảng trong giám sát nhằm phát hiện, khắc phục những khuyết
điểm, thiếu sót trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, của cán bộ đảng
viên về nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương chính sách của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước và chấp hành Điều lệ Đảng. Nếu phát hiện

có dấu hiệu vi phạm thì chuyển cuộc giám sát sang cuộc kiểm tra của Đảng để
xem xét, thi hành kỷ luật đảng đúng thẩm quyền, theo quy định của Điều lệ
Đảng. Kỷ luật Đảng không thay thế kỷ luật hành chính và trách nhiệm pháp lý
khác mà cấp ủy quản lý đảng viên phải kịp thời chỉ đạo tổ chức nhà nước,
đồn thể chính trị - xã hội có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
công bố quyết định kỷ luật đảng phải xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính,
đồn thể theo quy định của cơ quan nhà nước và điều lệ của đoàn thể.
- Hoạt động giám sát của ban thanh tra nhân dân
Căn cứ vào Luật Thanh tra năm 2010 hoạt động giám sát của Ban
Thanh tra nhân dân khác với họat động giám sát của HĐND cấp tỉnh. Về mặt
tổ chức Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước để giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Như vậy, so với HĐND thì phạm vi giám sát
của Ban Thanh tra nhân dân hẹp. Ngoài ra, Ban Thanh tra nhân dân còn làm
nhiệm vụ xác minh những vụ việc nhất định theo yêu cầu của Chủ tịch UBND


24
xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước. Trong trường hợp này Ban Thanh tra nhân dân được
sử dụng như một cơng cụ để xem xét những hoạt động có dấu hiệu vi phạm
pháp luật. Đây là hoạt động hoàn tồn thụ động, khơng mang tính chủ động,
khơng nằm trong chương trình, kế hoạch giám sát như hoạt động của HĐND.
- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận
MTTQVN là tổ chức liên minh chính trị và liên hiệp tự nguyện của các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu
trong các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Điều 9 Hiến pháp 1992 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân… Giám
sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức
nhà nước”.
Như vậy, MTTQVN cũng có quyền thực hiện chức năng giám sát,
nhưng hoạt động giám sát này khơng mang tính quyền lực nhà nước mà
“mang tính nhân dân, hỗ trợ cho cơng tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của
Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” (Điều 12, Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam).
Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khác với giám sát của HĐND
ở những điểm sau:
- Về tính chất: hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
giám sát mang tính nhân dân, khơng mang tính quyền lực nhà nước, nhằm hỗ
trợ cho cơng tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước.
- Về đối tượng giám sát: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức.


25
- Về hình thức thực hiện: hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thực hiện dưới hình thức động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát,
tham gia giám sát cùng với cơ quan quyền lực nhà nước.
- Về hậu quả pháp lý: Mặt trận Tổ quốc khơng có quyền xử lý khi phát
hiện sai phạm mà chỉ kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Hoạt động giám sát của cơ quan tòa án
Theo quy định hiện hành, Tòa án nhân dân các cấp, trong phạm vi chức
năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giám sát thông
qua hoạt động xét xử nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hoạt động

giám sát của Tòa án nhân dân đối với hoạt động quản lý nhà nước khác với
các loại giám sát, thanh tra ở chỗ: sự giám sát của Tòa án chỉ tiến hành thông
qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế... Trong quá
trình xét xử, bên cạnh việc xác định tội phạm, Tịa án nhân dân cịn kiểm tra
tính hợp pháp trong hành vi quản lý (bao gồm cả quyết định quản lý) của các
cơ quan quản lý và người có chức vụ. Quyết định, bản án của Tịa án có thể
được gửi cho thủ trưởng cơ quan, tổ chức hữu quan. Điều 74 Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 quy định: Các cơ quan nhà
nước cấp trên khi nhận được quyết định, bản án (về hành chính) phải có trách
nhiệm đơn đốc, kiểm tra cấp dưới thi hành. Hoạt động giám sát của Tòa án
nhằm khôi phục lại quyền của đương sự bị xâm phạm cũng được quy định
trong Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989: “Khi
xét xử vụ án dân sự, Tịa án có quyền hủy quyết định rõ ràng trái pháp luật
của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong vụ án mà Tịa án có nhiệm vụ giải quyết”, hoặc “tạm đình chỉ việc thi
hành quyết định hành chính bị khiếu kiện”.
Hiện nay, chúng ta đã thành lập Tịa hành chính, đây cũng là một loại
hình kiểm tra, giám sát đối với hoạt động quản lý nhà nước. Tịa hành chính


×