Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở thủ đô viêng chăn nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiều nước trên thế giới hiện nay đã và đang theo xu thế là chuyển từ
nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài ngun tự nhiên sang nền kinh tế trí
thức. Vì vậy, vấn đề con người - nguồn nhân lực ngày càng giữ vị trí trung
tâm đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Con người
đang được coi là động lực, đồng thời là mục tiêu cuối cùng trong quá trình
phát triển của các quốc gia.
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự
thành công hay không thành công trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia, do vậy tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nguồn
nhân lực. Coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn.
Trên thế giới của chúng ta, hơn một nửa dân số thế giới là nữ. Cho
nên, trong bất kỳ xã hội quốc gia nào, phụ nữ luôn là người đảm nhiệm vai trò
“kép”: vừa là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, vừa có trách nhiệm trực
tiếp tái sản xuất ra con người. Quan tâm đến sự phát triển của phụ nữ nói
chung, khai thác và bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ nói riêng khơng chỉ là vấn
đề nhân đạo của một quốc gia, một xã hội mà còn là đòi hỏi thiết yếu, ảnh
hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trong chiến lược chung về phát triển nguồn nhân lực, xuất phát từ
những nhu cầu khách quan và quan điểm mácxít về vai trị của phụ nữ, Đảng
Nhân dân cách mạng Lào luôn coi phụ nữ là động lực quan trọng của cách mạng
Lào. Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp và chính sách sử dụng nguồn
nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nữ nói riêng và đã huy động được sức mạnh
to lớn của phụ nữ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Định hướng chiến


2


lược của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay là đổi mới và phát triển.
Những cơ hội và thử thách đặt ra đã và đang đòi hỏi hơn bao giờ hết mọi tiềm
năng quốc gia phải được khai thác hợp lý, trong đó có nguồn nhân lực nữ.
Thủ đơ Viêng Chăn là một trong những địa phương có tốc độ tăng
trưởng cao với mức tăng GDP bình quân trên 12,10%/năm [23, tr.6]. Với sự
phát triển chung của Thủ đơ đất nước khơng thể khơng kể đến vai trị quan
trọng của phụ nữ. Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã tạo cơ hội cho sự phát triển của phụ nữ; Song, cũng đặt ra
nhiều khó khăn, thách thức cho phụ nữ trong việc tiếp cận với các cơ hội về
việc làm, giáo dục - đào tạo, trong hưởng thụ các thành quả của sự phát triển.
Trong khi đó, sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Thủ đô Viêng Chăn
đang yêu cầu ngày càng cao đối với nguồn nhân lực nữ về trình độ chun
mơn, thể lực, kỹ năng lao động...
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải biết khai thác, bồi dưỡng và phát huy
tiềm năng của nguồn nhân lực nữ tạo động lực cho sự phát triển của Thủ đơ.
Do đó, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ, tìm giải pháp để
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực này là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cấp thiết. Vì thế, tác giả luận văn chọn vấn đề “Phát huy nguồn nhân lực nữ
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng
hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học
Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa chiến lược quan trọng của nguồn nhân lực
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng đất nước, nên các nước đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề nguồn nhân lực.
- Trên thế giới:
Những quốc gia đi đầu trong việc phát triển nguồn nhân lực, gồm Mỹ,
Cộng hòa Séc, Nhật Bản, Hàn Quốc… là những quốc gia quan tâm và coi



3
trọng vấn đề nguồn nhân lực, thể hiện ở các chiến lược có tầm quy mơ rộng
lớn khác nhau.
Trung Quốc cũng là một nước đi đầu trong việc phát triển nguồn nhân
lực, “Chính sách phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ Trung Quốc”, Bài
tham luận của tác giả Xiao Mingzheng - Trường Đại học Bắc Kinh trình bày
tại Hội thảo “Cải cách hành chính dành cho các nước châu Á” do Bộ Thương
mại Trung Quốc tổ chức từ ngày 03/4 - 22/4/2008. Ngồi ra, cịn có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này.
Ở Việt Nam, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu. Ở đây chỉ nêu vài
cơng trình liên quan đến đề tài của mình, tiêu biểu như: “Con người và nguồn
lực con người trong phát triển” của Viện Thơng tin Khoa học xã hội (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995) Cơng trình KHCN cấp nhà nước KX - 07;
“Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội” năm 1995, “Phát triển nguồn nhân lực. Kinh nghiệm thế giới và thực
tiễn nước ta” của PTS Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1996), “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa” của Phạm Minh Hạc (Nxb Chính trị Quốc gia, 2001).
Nguồn nhân lực nữ là bộ phận quan trọng trong chiến lược xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực, vì thế đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ.
Tiêu biểu như: GS triết học Lê Thi với “Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập
nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay, Vài suy nghĩ về phương pháp luận
tiếp cận việc nghiên cứu người phụ nữ và vai trị của giáo dục gia đình trong
sự phát triển nguồn nhân lực” năm 1993, Tiến sĩ Trần Thị Vân Anh và Lê
Ngọc Hùng với “Phụ nữ, giới và phát triển” năm 2000.
- Đối với Lào:
Thấy được tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực trong
việc phát triển kinh tế - xã hội ở Lào, cũng có rất nhiều đề tài đã và đang
nghiên cứu về vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau. Tiêu biểu như: “Vai trò



4
của chính sách xã hội đối với việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện
nay” của nghiên cứu sinh Xỉ Tha LƯỜN KHĂM PHU VÔNG, năm 2005;
“Nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hiện đại hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Viêng
Chăn” của Xư Lao XÔ TU KY;“Phát huy nhân tố con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Viêng Chăn hiện nay” của Sỉ Sổm
Phon VÔNG PHA CHĂN, năm 2009; “Phát huy nguồn nhân lực trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thủ đơ Viêng Chăn hiện nay” của Đa
Von BÚT THA NU VÔNG, năm 2011; “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phát triển nguồn nhân lực ở Cơng hịa Dân chủ Nhân dân
Lào trong giai đoại mới” của Vi La Phăn SỈ LI THĂM, năm 2011; “Phát huy
vai trò của giáo dục đối với phát triển phụ nữ ở Thủ đô Viêng Chăn” của Sẳn
XAY NHA XẺNG, năm 2011.
Các cơng trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên, đề cập những khía cạnh
khác nhau về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực nữ. Tuy nhiên, cho đến nay các
nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ ở Thủ đơ Viêng Chăn cịn rất phân tán, thiếu
những chun khảo về thực trạng nguồn nhân lực nữ một cách tồn diện, hệ thống
để từ đó đề xuất các giải pháp phát huy nguồn nhân lực nữ ở Thủ đô Viêng Chăn
trên cơ sở đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm một cách cơng bằng giữa hai giới. Vì
vậy, tác giả mong muốn làm sáng tỏ hơn vấn đề này trong luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy
nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Viêng
Chăn, luận văn đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân
lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đơ Viêng Chăn nước
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực nữ, những
nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ;


5
+ Xác định tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ và
những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực nữ trong phát triển kinh tế - xã hội
ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay;
+ Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân
lực nữ ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay;
+ Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ
ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề về nguồn nhân lực nữ, hoạt động phát huy nguồn nhân
lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đơ Viêng Chăn nước
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, luận văn tập trung chủ yếu vào việc phân tích sự vận động và phát
triển của nguồn nhân lực nữ, hoạt động phát huy nguồn nhân lực nữ trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng hịa Dân chủ
Nhân dân Lào hiện nay. Thời gian từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cở sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về con người, nguồn lực con người, về vai
trò của phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong phân tích
những vấn đề thực tiễn xã hội, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp lịch sử
và lơgíc, phân tích - tổng hợp, trừu tượng - cụ thể.


6
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập xử lý
thông tin và áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu bình đẳng giới.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân
lực nữ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đơ Viêng Chăn nước
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp đặc thù nhằm phát huy nguồn nhân lực nữ
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng
hịa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về
nguồn lực phụ nữ, bổ sung thêm những cơ sở khoa học có thể tham khảo trong
hoạch định chiến lược tổng thể và chính sách cụ thể liên quan đến vấn đề nguồn
nhân lực nữ ở Thủ đơ Viêng Chăn nước Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào.
Dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về
nguồn nhân lực nữ trong các trường, các cơ quan chức năng ở Thủ đô Viêng
Chăn nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.


7
Chương 1

NGUỒN NHÂN LỰC NỮ, TẦM QUAN TRỌNG, YÊU CẦU CỦA NÓ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THỦ ĐƠ
VIÊNG CHĂN, NƯỚC CỘNG HỊA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC NỮ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
VIỆC PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC NỮ Ở THỦ ĐƠ VIÊNG CHĂN, NƯỚC
CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

1.1.1. Quan niệm mácxít về nguồn nhân lực
Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng
thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Luận đề nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoiơ-bắc: “Bản chất con người khơng phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ
những quan hệ xã hội” [10, tr.11]. Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất
con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là
lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người.
Khi nói đến “Nguồn nhân lực” tức là muốn nói đến một tài sản quý,
vốn quý có khả năng sinh sơi nảy nở và có thể đem ra sử dụng. Tài sản quý,
vốn quý đó gắn liền với con người - một đơn vị tế bào tạo nên nguồn nhân
lực, là đối tượng cần được đầu tư, được giáo dục và được đào tạo. Có thể
hiểu nguồn nhân lực ở một số nội dung như sau:
Thứ nhất, nói đến nguồn nhân lực là nói đến con người hiện thực
và chất lượng phát triển của con người gắn liền với bản chất xã hội.
Các nhà triết học mácxít đã khẳng định: con người hiện thực là một
chỉnh thể sinh học - xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực


8
của con người. Kết hợp hai mặt sinh học và xã hội, con người có một năng

lực tiềm ẩn (tiềm năng), khi được sử dụng và gặp môi trường thuận lợi thì
tiềm năng ấy được phát huy, lúc đó con người trở thành động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Mơi trường đó chính là hoạt động lao động hoạt động bản chất nhất của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ
cho cuộc sống: “Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người và như thế đến một mức mà trên một nghĩa nào đó chúng ta
phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [11, tr.641]. Và mặc
dù: “Bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta là
thuộc về tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên” [11, tr.665]
nhưng nhờ có lao động mà: “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao
động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” [11, tr.673]. Lao động
mang ý nghĩa nhân bản sâu xa bởi trong lao động con người đã làm biến đổi
tự nhiên, biến đổi cả bản thân mình và đã làm nên lịch sử của cả xã hội lồi
người. Điều đó cho thấy, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử xã hội thì đặc trưng bản chất nhất của nguồn nhân lực là sự phản ánh trình độ
phát triển, mức độ hoàn thiện con người trong thời kỳ lịch sử nhất định. Chính
các hoạt động nhận thức thực tiễn của con người đã làm hoàn thiện các chức
năng xã hội của mình. Vì vậy, khi đào tạo nguồn nhân lực cần phải phát triển
cả mặt sinh học (sức khỏe, nuôi dưỡng, vệ sinh, môi trường…) và mặt xã hội
(kiến trúc, kỹ năng, đạo đức, lối sống…) cho con người. Đây là điều kiện để
tạo ra những khả năng, tiềm năng của nguồn nhân lực, đồng thời cũng là cơ sở
để có giải pháp phát huy vai trị của nguồn nhân lực.
Thứ hai, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người trong tư cách
cá nhân và cá thể tồn tại, hoạt động, sống và tự biểu hiện đời sống của
mình trong mối liên hệ với những người khác, với cả cộng đồng, chịu ảnh
hưởng cũng như sự tác động của các quan hệ xã hội và điều kiện lịch sử xã hội mà cá nhân đó đang sinh sống.


9
Khi xem xét mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, các
nhà triết học mácxít đã chứng minh được: con người là sản phẩm của hoàn
cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Nhưng hoạt động sáng tạo ra

hoàn cảnh của con người lại chỉ được thực hiện trong mối quan hệ với cộng
đồng. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con người thể hiện bản tính
phong phú và tư duy sáng tạo của mình. Do đó, khả năng của con người hay
của nguồn nhân lực được huy động vào q trình phát triển xã hội sẽ trở thành
những thơng số quan trọng để nghiên cứu và điều chỉnh một cách có ý thức
nguồn nhân lực của từng quốc gia hoặc từng địa phương.
Thứ ba, nói tới nguồn nhân lực cần nhấn mạnh đến vai trị tích cực
sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn, nó thể hiện ở vai trị chủ
thể sáng tạo trong q trình phát triển, đồng thời cũng là khách thể của quá
trình phát triển, thể hiện trong việc con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội
và cải tạo bản thân.
Các nhà triết học mácxít khẳng định: Sự thay thế của các hình thái
kinh tế - xã hội trong lịch sử là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mà
trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố cách mạng và năng động nhất.
Chính con người làm nên những biến đổi về tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất để rồi đưa xã hội tiến lên. Với luận điểm, xã hội tạo ra con
người ở mức độ nào thì con người cũng tạo ra lịch sử ở mức độ đó đã cho
thấy: Trong tiến trình các cuộc cải biến xã hội, con người luôn là mục tiêu,
đồng thời là động lực của tiến trình đó. Thực tế đã chứng minh, ở đâu các lực
lượng cách mạng có ý thức đầy đủ về vai trò của con người, có giải pháp hiện
thực hóa vai trị của con người thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành được
thắng lợi. Với ý nghĩa đó, xét trong q trình phát triển thì con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn
sáng tạo có ý thức, là chủ thể của lịch sử.


10
Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức triết học

phương Đơng và vốn văn hố dân tộc, Hồ Chí Minh ln chú ý đến con
người. Theo Hồ Chí Minh “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”
[15, tr.644]. Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã
hội, là con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong
đó con người hoạt động và sinh sống. Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân
con người trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất
định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội
nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với
tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời. Con người
trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực,
tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm: sức
khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần... Người cho
con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi
con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là nhân tố quyết định
thành cơng của cách mạng.
Từ cơ sở đó có thể quan niệm rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể các
tiềm năng của con người trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa
phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào q
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương
cụ thể. Nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận
quan trọng nhất của dân số, của các nguồn lực, có khả năng tạo ra các giá trị
vật chất và tinh thần cho xã hội.
Nhận thức về nguồn nhân lực trên thế giới
Thuật ngữ nguồn nhân lực (hurman resourses) xuất hiện vào thập niên
80 của thế kỷ XX khi mà có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử
dụng con người trong kinh tế lao động.


11

Có khá nhiều những định nghĩa khác nhau về “nguồn nhân lực” chẳng
hạn như:
- Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy
mơ, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào
quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia, khu vực, thế giới [16, tr.256]. Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất
phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất,
tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của
các tổ chức.
- Trong báo cáo của Liên hợp quốc khi đánh giá về những tác động
của tồn cầu hóa đối với nguồn nhân lực đã đưa ra định nghĩa nguồn nhân lực
là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực thực có thực tế cùng với những
năng lực tồn tại dưới dạng tiềm năng của con người. Quan niệm về nguồn
nhân lực theo hướng tiếp cận này có phần thiên về chất lượng của nguồn nhân
lực. Trong quan niệm này, điểm được đánh giá cao là coi các tiềm năng của
con người cũng là năng lực khả năng để từ đó có những cơ chế thích hợp
trong quản lý, sử dụng.
- Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của
mỗi cá nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành
công, đạt được mục tiêu của tổ chức [4, tr.9].
Ở Việt Nam, theo quan niệm của các nhà khoa học thuộc chương trình
khoa học - cơng nghệ (KH - CN) cấp Nhà nước của Việt Nam: “Con người
Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” thì nguồn
lực con người được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể
chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong
cách làm việc... [5, tr.328]. Từ cách tiếp cận đó, có thể thấy rằng, nguồn lực
con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà nó
cịn gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc... của con người.



12
Giáo sư Hồng Chí Bảo cũng cho rằng: “Nguồn lực con người là sự kết hợp
thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động
và triển vọng mới phát triển con người” [2, tr.14]. Ngồi thể lực và trí lực,
theo tác giả “Cái làm nên nguồn lực là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những
kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận
dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm
tịi, sáng tạo” [2, tr.15]. Xét theo ý nghĩa đó, nguồn lực con người bao hàm
trong đó tồn bộ sự phong phú, sự sâu sắc, đổi mới thường xuyên các năng
lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý... Trong quan niệm này, tác
giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong của nguồn lực con người.
TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển nguồn lực con người được
coi là “quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân
lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội” [3,
tr.13]. Theo tác giả, quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả
năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức
sáng tạo của con người. Trong đó, nền văn hố truyền thống, lịch sử dân tộc
góp phần quan trọng hun đúc lên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.
Tóm lại, nguồn lực con người được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp như sau:
Theo nghĩa rộng: nguồn lực con người (Human Resouce) là tổng thể
các tiềm năng (lao động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ,
một địa phương đã được chuẩn bị để huy động vào quá trình phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể [18, tr.22]. Với
cách tiếp cận này, nguồn lực con người được xem như một bộ phận cấu thành
các nguồn lực của quốc gia, như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn tài
chính, nguồn lực trí tuệ (chất xám), những nguồn lực này có thể được huy
động một cách tối ưu tạo thành động lực để phát triển kinh tế-xã hội. Trong
đó, nguồn lực con người nằm ở vị trí trung tâm. Bởi vì, các nguồn lực tài
chính, nguồn lực vật chất, KH - CN... mà không được con người phát hiện



13
khai thác thì nó vẫn chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng mà thơi. Chính con người
thơng qua hoạt động của mình làm phát triển các nguồn lực khác, sử dụng nó
để phát triển xã hội. Do đó, nguồn lực con người được coi là một thứ tài
nguyên quý giá nhất, một nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vì vậy, thực chất chiến lược phát triển kinh tế-xã hội là chiến lược
phát triển con người và vì con người.
Theo nghĩa hẹp: Nguồn lực con người là toàn bộ lực lượng lao động
trong nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế), nghĩa là
bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao
động thực tế đang có việc làm và kể cả những người thất nghiệp.
Ở Lào, với khái niệm trên và căn cứ ở Lào, lực lượng lao động Lào
bao gồm những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm; những người
ngoài độ tuổi lao động thực tế đang làm việc và những người thất nghiệp.
Nghĩa là theo quan niệm này khơng bao gồm những người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động nhưng còn đang đi học hoặc đang làm nội trợ
trong gia đình hoặc khơng có nhu cầu làm việc. Bộ luật Lao động Lào quy
định độ tuổi lao động là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam, và từ 15 tuổi đến
55 tuổi đối với nữ.
Qua tiếp cận các khái niệm trên có thể hiểu: nguồn lực con người là
tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình
độ tri thức, vị thế xã hội..v.v... tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng
người có thể sử dụng phát huy trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Khi
nói tới nguồn lực con người là nói tới con người với tư cách là chủ thể hoạt
động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Tóm lại, nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm các yếu tố số
lượng, chất lượng và cơ cấu phát triển người lao động nói chung cả ở hiện tại
cũng như trong tương lai tiềm năng của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi
quốc gia, khu vực và thế giới.



14
1.1.2. Quan niệm về nguồn nhân lực nữ, thực chất phát huy nguồn
nhân lực nữ và những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân
lực nữ
- Quan niệm về nguồn nhân lực nữ, thực chất phát huy nguồn nhân
lực nữ
Nếu con người là nguồn lực có vai trị quyết định đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, thì phụ nữ là bộ phận cơ bản cấu thành nguồn lực ấy.
Phụ nữ là một phần nửa dân số không thể thiếu được trong đời sống
xã hội. Phụ nữ là một bộ phần cấu thành quan trọng có ý nghĩa quyết định đến
việc phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát
triển xã hội bền vững.
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đánh giá cao vị trí, vai trị của người
phụ nữ trong xã hội, coi phụ nữ là nguồn nhân lực chủ yếu trong cách mạng
xã hội. Theo các ông: “Trong lịch sử nhân loại, khơng có một phong trào to
lớn nào của những người áp bức mà lại khơng có phụ nữ lao động tham gia,
phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả những người bị áp
bức” [13, tr.60], chính vì vậy nên họ chưa bao giờ và khơng bao giờ đứng ngồi
các cuộc đấu tranh giải phóng. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải gắn liền với
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Phụ nữ có vị trí
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phụ nữ phải có
trách nhiệm phát triển kinh tế - xã hội. Nói cách khác, theo Ăngghen, phụ nữ
tham gia cơng việc xã hội chính là điều kiện đầu tiên để giải phóng phụ nữ.
Ăngghen đã khẳng định rõ hơn: “Người ta thấy rằng, sự giải phóng phụ nữ,
quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều khơng thể có được và mãi mãi khơng thể
có được; chừng nào mà người phụ nữ cịn bị gạt ra ngồi lao động sản xuất của
xã hội và còn phải bị bó hẹp trong cơng việc riêng tư ở gia đình” [12, tr.507].
Kế thừa, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kỳ mới, xây

dựng CNXH ở nước Nga Xôviết sau khi cách mạng XHCN tháng Mười Nga


15
thành công. V.I.Lênin cũng đã rất quan tâm đến vấn đề giải phóng con người,
nhất là phụ nữ. V.I.Lênin viết: “Nếu một phần lớn phụ nữ lao động không
tham gia một cách tích cực thì khơng thể có cách mạng xã hội chủ nghĩa
được” [8, tr.220]. Người còn khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ và chỉ ra
khả năng của họ có ảnh hưởng rất quan trọng đến nguồn lực cách mạng, có
mối liên quan mật thiết với sức mạnh nhân dân: “Không lôi kéo được phụ nữ
vào cơng việc chính trị thì khơng thể lơi kéo được quần chúng nhân dân vào
cơng việc chính trị được” [6, tr.13].
Có thể nói, cả Mác và Ăngghen, Lênin đều cho rằng, xã hội cần phải
giải phóng phụ nữ khỏi sự ràng buộc gia đình, phải làm cho phụ nữ và nam
giới bình đẳng bằng cách lơi cuốn phụ nữ tham gia vào công việc xã hội.
Hiểu theo nghĩa rộng: nguồn nhân lực nữ bao gồm tổng hồ các tiêu
chí của bộ phận dân số nữ đang có khả năng tham gia vào quá trình lao động
xã hội và các thế hệ phụ nữ nối tiếp sẽ phục vụ xã hội. Nói cách khác, nguồn
nhân lực nữ được hiểu khơng chỉ đơn thuần là lực lượng lao động nữ đã có và
sẽ có, mà cịn bao gồm sức mạnh trí tuệ, thể chất, tinh thần của các cá nhân nữ
trong một cộng đồng, quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng
vào quá trình phát triển xã hội.
Nguồn nhân lực nữ, theo nghĩa hẹp với tư cách là lực lượng lao động của
xã hội, bao gồm nhóm phụ nữ đến tuổi lao động trở lên có khả năng lao động.
Bộ luật lao động của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào quy định
về độ tuổi lao động đối với phụ nữ trong khoảng nhỏ hơn của độ tuổi lao động
nam (nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi, nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi), nên mặc dù dân
số nữ thường xuyên cao hơn (thường chiếm trên 50,01% dân số) song, lực lượng
lao động nữ lại thường chiếm tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng 49% lao động xã hội).
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ cần chú ý đến một số vấn đề sau:

Thứ nhất, việc quan niệm nguồn nhân lực nữ (rộng hay hẹp) chỉ mang
tính chất tương đối, phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chiến lược phát


16
triển kinh tế - xã hội. Còn với tư cách là một nửa phần của dân số và lực
lượng lao động xã hội, vừa là người trực tiếp tái sản xuất ra nguồn nhân lực
cho đất nước, phụ nữ luôn là vấn đề lớn đối với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Vì thế, nguồn nhân lực nữ phải được đề cập
đến theo nghĩa rộng, có nghĩa là các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
hướng tới khả năng lao động của các thế hệ phụ nữ.
Thứ hai, nghiên cứu về phụ nữ và nguồn nhân lực nữ địi hỏi phải có
phương pháp tiếp cận đúng đắn. Phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên
cứu ở đây là xem xét mối quan hệ giữa cái chung (con người) và cái riêng
(giới nam, giới nữ). Đó là quan điểm tiếp cận về giới. Điều này là do chính
đặc điểm của đối tượng nghiên cứu quy định.
Là con người, nam giới và phụ nữ giống nhau - đều vừa là thực thể tự
nhiên vừa là thực thể xã hội, nhưng họ có khác biệt về mặt tự nhiên - sinh học
của cơ thể. Những đặc điểm sinh học về giới tính là bẩm sinh và không thể
thay đổi được. Từ những đặc điểm sinh học, xét về mặt xã hội, phụ nữ đảm
nhiệm chức năng xã hội khác nam giới, đó là chức năng trực tiếp tái sản xuất
ra con người. Từ đó nảy sinh những khó khăn, thuận lợi khác nhau giữa giới
nam và giới nữ trong học tập, làm việc, sinh sống. Phụ nữ thường gắn với con
cái và gia đình. Họ có những nhu cầu cấp thiết hơn nam giới về những dịch
vụ y tế, dịch vụ gia đình, về điều kiện làm việc gần gia đình...
Sự phân biệt về giới tính giữa nam và nữ có tính tự nhiên, bẩm sinh
không tất yếu dẫn tới sự phân biệt về giới có tính xã hội. Tuy nhiên, từ trong
lịch sử kéo dài đến ngày nay đã tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong
đời sống xã hội và gia đình. Phụ nữ thường được coi là người hiển nhiên phải
chịu trách nhiệm và thích hợp với việc chăm sóc con cái, gia đình. Những
cơng việc này thường ít được nhìn nhận ở góc độ kinh tế. Sự đánh giá thấp

của xã hội về khả năng, giá trị của lao động nữ trong lao động sản xuất đã
giam hãm người phụ nữ ở địa vị thấp kém trong xã hội và gia đình với tất cả
những bất cơng và thiệt thòi.


17
Phát huy là tỏa ra tác động tốt. Phát huy nguồn nhân lực nữ là làm cho
nguồn nhân lực nữ tỏa ra cái tốt. Nghĩa là làm cho các yếu tố như: thể lực, trí
lực, tâm lực của nguồn nhân lực nữ tỏa ra tác dụng tốt. Cho nên, muốn phát
huy nguồn nhân lực nữ thì đầu tiên phải chú ý nâng cao thể lực, trí lực, tâm
lực cho lao động nữ.
Tóm lại, việc nghiên cứu về người phụ nữ nói chung và nguồn nhân
lực nữ nói riêng khơng thể tách rời việc nghiên cứu về giới tính và giới, về sự
bình đẳng giới và hậu quả đem lại cho sự phát triển chung khi lực lượng phụ
nữ bị kìm hãm, không phát huy được đầy đủ những tiềm năng cho việc cải tạo
thiên nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra trước hết đối với việc phát huy nguồn nhân
lực nữ là phải xác định được những nhân tố cơ bản tác động đến nguồn nhân
lực nữ trong quá trình phát triển.
- Những nhân tố tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ
Việc phát huy nguồn nhân lực nữ thực chất là quá trình một mặt dựa vào
năng lực chủ quan của con người, một mặt dựa vào những nhân tố khách quan
tác động tới sự tồn tại và phát triển của con người. Có thể thấy những nhân tố cơ
bản sau đây thường xuyên tác động đến việc phát huy nguồn nhân lực nữ:
Một là, tác động của giáo dục, đào tạo.
Do vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển trí tuệ và nhân
cách của con người nên nhân tố này đang được coi là phương thức phát triển
nhanh chất lượng nguồn nhân lực. Các quốc gia hiện nay đều coi đầu tư cho
giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư trực tiếp vào nguồn lực con
người. Đối với nguồn nhân lực nữ, sự tác động của giáo dục - đào tạo có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng vì không chỉ liên quan đến phần nửa của nguồn

nhân lực mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai của lực lượng
lao động. Điều này xuất phát từ mối liên hệ giữa học vấn của phụ nữ với sự
phát triển của xã hội theo tác động dây chuyền giữa trẻ em gái - người mẹ thế hệ tương lai. Quan trọng hơn, học vấn của mẹ cịn có tác động trực tiếp


18
đến việc học của con. Con của người mẹ có học vấn cao hơn có nhiều cơ hội
được đến trường hơn với tỉ lệ cứ ba năm học cao hơn của mẹ tạo ra 10% khả
năng đi học cao hơn cho con. Mối liên hệ giữa khả năng đi học của con với
học vấn của cha cũng có xu hướng tương tự nhưng thấp hơn.
Việc nâng cao địa vị phụ nữ và tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển
bền vững đất nước phụ thuộc rất nhiều vào sự kiên trì thực hiện quốc sách
giáo dục và đào tạo. Giảm khoảng cách về giới trong giáo dục - đào tạo sẽ
thúc đẩy sự phát triển toàn diện nguồn nhân lực trước mắt cũng như lâu dài.
Hai là, tác động của trình độ phát triển kinh tế của quốc gia.
Con người luôn là yếu tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế, đặc biêt
trong điều kiện cách mạng KH - CN hiện đại. Muốn nâng cao năng suất lao
động, tăng trưởng và phát triển kinh tế mà chỉ có các phương tiện cơng nghệ thì
chưa đủ, mà cịn cần phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử
dụng những phương tiện đó. Con người là yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát
triển kinh tế bền vững. Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng trưởng và phát triển kinh tế phải coi việc
đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát
triển. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ trong bao gồm các lĩnh vực
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý nghiệp
vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật.
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, chuyển đổi cơ chế song nên Lào vẫn là
nước có nền kinh tế yếu. Tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng quy mô nền kinh tế
vẫn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Khoảng cách
ngày càng xa giữa Lào với các nước ASEAN là một thách thức rất lớn tác

động không nhỏ đối với kinh tế đối ngoại của Lào nói riêng và hoạt động đối
ngoại nói chung. Lào nói chung, Thủ đơ Viêng Chăn nói riêng - là địa lý giàu
về tài nguyên, nhưng còn thiếu thốn về nguồn nhân lực có chất lượng để khai
thác tốt. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và những diễn biến trái chiều


19
của tồn cầu hố thì đây thực sự là một trở ngại trên con đường phát triển của
Lào. Cho nên, từ tác động của tốc độ phát triển kinh tế của đất nước đòi hỏi
phải khai thác, phát huy nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nữ để góp
phần trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Chiếm hơn một nửa dân số, nguồn nhân lực nữ của mỗi địa phương,
đất nước có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt là nguồn nhân lực nữ có chất lượng. Kinh nghiệm cho thấy, với
nhiều quốc gia nền kinh tế kém phát triển, nghèo về tài nguyên khoáng sản
nhưng nếu biết chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý đã
làm cho đất nước đó phát triển mạnh về khoa học - kỹ thuật với các ngành
công nghiệp chế tạo, điện tử, công nghệ thông tin, cơng nghiệp nặng tiên
tiến... có mức thu nhập bình qn đầu người cao hơn những quốc gia có dân
số đơng, giàu về tài nguyên nhưng chất lượng nhân lực thấp. Qua đó, có thể
thấy được là sự tác động của trình độ phát triển kinh tế đối với phát huy
nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực nữ nói riêng.
Ba là, tác động của cơ chế, chính sách.
Chính sách xã hội là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến
việc phát huy nhân tố con người, phát huy nguồn nhân lực. Chính sách xã hội
là một cơng cụ quan trọng của quản lý nhà nước nhằm thực hiện và điều chỉnh
các mối quan hệ của con người xoay quanh mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động
lực to lớn khơi dậy tiềm năng của con người, tạo điều kiện thuận lợi để con
người lao động phát huy năng lực sáng tạo của mình đóng góp cho sự phát

triển của cá nhân và cộng đồng xã hội.
Trong nhiều năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước Lào đã ban hành rất
nhiều chủ trường, đường lối, chính sách xã hội, chính sách phát triển nguồn
nhân lực, nhân lực nữ rất nhiều như: Tổng luận một số điều của Hiến pháp
CNDCND Lào (2003); Luật bảo vệ và phát triển phụ nữ (2004); Hiệp ước về


20
xóa bỏ mọi sự phân biệt đối với phụ nữ (2008); Bộ luật liên quan về quyền và
nghĩa vụ của phụ nữ (2010)… nhưng trong thực tế, vấn đề phụ nữ, nguồn
nhân lực nữ vẫn chưa ưu tiên thật sự cho phát triển nguồn nhân lực dù những
chính sách được ban hành ra để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là khơng
ít; vẫn làm chưa chuẩn, chưa đúng định hướng cho nên chất lượng nguồn
nhân lực vẫn giẫm chân tại chỗ. Phải làm đồng bộ tất cả các khâu: chú trọng
đào tạo nhân lực, có chính sách đúng đắn sử dụng, đãi ngộ họ. Ngược lại, nếu
hệ thống chính sách khơng phù hợp, thiếu đồng bộ thì nó sẽ trở thành rào cản
kìm hãm năng lực và tư duy sáng tạo của mỗi con người.
Đặc biệt là trong yêu cầu mới đặt ra trong q trình tồn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nguồn nhân lực đơng đảo nữ càng phải cần chính
sách xã hội được quan tâm hơn bao giờ hết, nếu khai thác tốt nguồn lực lượng
này sẽ tạo thành sức mạnh góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì vậy, chính sách xã hội đối với phụ nữ phải phản ánh được lợi ích và
nguyện vọng của nữ giới. Chính sách xã hội phù hợp với phụ nữ khi nó tạo
điều kiện cho phụ nữ phát triển năng lực của mình trong mọi hoạt động của
đời sống xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.
Bốn là, tác động của nhân tố quốc tế.
Trong xu thế phát triển chung của tồn thế giới hiện nay, đặc biệt là
trong q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế như ngày nay nó địi hỏi một
quốc gia dân tộc muốn có nền kinh tế phát triển thì phải đảm bảo được nhân
lực, nguồn lực lượng lao động ổn định và có chất lượng.

Đối với Lào nói chung cũng như Thủ đơ Viêng Chăn nói riêng, mặc
dù trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong sự
nghiệp phát triển đất nước, nhưng trong xu thế mới hiện nay khi Lào đã
tham gia vào q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là khi đã
chính thức trở thành thành viên Tổ chúc Thương mại Thế giới (WTO) trong
Tháng 10 năm 2012 vừa rồi càng đòi hỏi chúng ta phải tham gia một cách
tích cực và chủ động.


21
Thủ đô Viêng Chăn với tư cách là trái tim của đất nước, là nơi tập
trung nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi, trong đó có cơ hội và điều kiện
thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực, nhất
là mở rộng quan hệ hợp tác trong giáo dục với các nước trên thế giới và khu
vực. Từ đó, Lào đã có một nền giáo dục phát triển hơn so với những năm
chưa mở của, chưa tiến hành công cuộc đổi mới. Nhờ nền giáo dục có hợp tác
với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực đó, nguồn nhân lực của
Lào nói chung, nguồn nhân lực nữ của Thủ đơ Viêng Chăn nói riêng đã có
những thay đổi đáng kể.
Mặc dù đã có những nỗ lực, đóng góp to lớn nhưng ở phía trước vẫn
cịn nhiều khó khăn, thách thức đối với phụ nữ, nguồn nhân lực nữ. Phụ nữ
còn chịu nhiều bất lợi trong việc học tập, nâng cao trình độ, kỹ thuật nghề
nghiệp trong điều kiện cạnh tranh xã hội, quốc tế ngày càng cao. Từ thực tiễn
đó, trong q trình tồn cầu hóa, hiện đại hóa càng địi hỏi phụ nữ Thủ đơ
Viêng Chăn phải được quan tâm trong giáo dục, đào tạo tạo nên nguồn nhân
lực nữ có trình độ và chất lượng, đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển kinh tế
đất nước.
Năm là, tác động của nhân tố văn hóa truyền thống.
Các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc là nhân tố quan trọng, là mơi
trường lành mạnh để hình thành và phát triển nguồn lực con người. Một dân

tộc, một quốc gia có truyền thống tốt, những tập quán lành mạnh, có nền văn
hố phát triển cao thì đó chính là cơ sở điều kiện tốt để xây dựng một nguồn
nhân lực vừa có trình độ chun mơn kỹ thuật cao, vừa có thái độ, tinh thần,
tác phong làm việc tốt. Ngược lại, nếu một dân tộc, một quốc gia có những
phong tục, tập qn lạc hậu thì sẽ kìm hãm sự vươn lên của chính quốc gia,
dân tộc đó. Mặt khác, những đặc trưng văn hố - xã hội của một dân tộc còn
là cơ sở cho việc sử dụng nguồn nhân lực hợp lý và hiệu quả cao. “Yếu tố văn
hoá và truyền thống dân tộc như tinh thần lao động, tính kỷ luật cao, tinh thần


22
học tập và niềm tự hào dân tộc đã đưa Hàn Quốc vươn lên vị trí xứng đáng
trong chưa đầy 1/2 thế kỷ qua” [17, tr.125].
Những truyền thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Lào
chính là sức mạnh, là điểm tựa tinh thần để phụ nữ vươn lên đáp ứng yêu cầu,
đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đảng NDCM Lào cho rằng: “Con người là yếu tố của sự phát triển và coi
con người là đối tượng ưu việt của sự phát triển” [25, tr.56]. Liên quan đến
việc phát triển nguồn nhân lực nữ hiện nay, bên cạnh việc phát huy các giá trị
văn hoá, truyền thống dân tộc đề cao vai trò của phụ nữ, quan tâm đến sự phát
triển của phụ nữ, thì phải loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu... để tạo
điều kiện cho sự phát triển mọi mặt của phụ nữ vì mục tiêu phát triển kinh tế
và tiến bộ xã hội.
Sáu là, tác động của nhân tố tâm lý, sinh học trong thể chất của người
phụ nữ.
Do cấu tạo cơ thể của phụ nữ khác với nam giới (phụ nữ thường thấp,
bé, nhẹ cân hơn) và do đặc điểm sinh lý của phụ nữ cũng khác nam giới (phụ
nữ phải sinh con và ni con) nên nhìn chung sức khoẻ của phụ nữ thường
yếu hơn so với nam giới.
Phụ nữ gắn liền với việc sinh con duy trì sự tồn tại và phát triển của

nhân loại. Việc sinh con vì thế là hiện tượng xã hội, nhưng trước hết cũng là
hiện tượng tự nhiên, sinh học. Song, chức năng sinh học đó được thực hiện
trong mối liên hệ chặt chẽ và chịu sự tác động của nhiều nhân tố như gia đình,
mơi trường kinh tế, mơi trường giáo dục, môi trường cộng đồng. Không quan
tâm đúng mức đến các nhân tố tự nhiên - sinh học của phụ nữ sẽ không chỉ
ảnh hưởng ngay trong hiện tại về năng suất, hiệu quả lao động, tác động tiêu
cực đến việc phát triển trí lực của phụ nữ mà cịn là những cái giá phải trả
trong một vài thế hệ tương lai của dân tộc xét về mặt giống nòi và phát triển
bền vững đất nước.


23
Phát huy nguồn nhân lực nữ vì thế cần thấy được những đặc điểm
riêng về mặt tự nhiên - sinh học của phụ nữ để có những giải pháp và chính
sách xã hội hợp lý.
Tóm lại, việc phát huy nguồn nhân lực nữ chủ yếu chịu sự tác động
của các nhân tố trên. Mỗi một nhân tố tác động đến từng mặt của nguồn nhân
lực nữ. Tuy nhiên, do các đặc điểm về giới tính và giới nên phụ nữ thường
phải chịu những tác động tiêu cực nhiều hơn nam giới. Vì thế khi xem xét,
đánh giá, xây dựng chiến lược phát triển, phát huy nguồn nhân lực nữ cần
phải phân tích đầy đủ và sử dụng tổng hợp tất cả các nhân tố này.
1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC NỮ
VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC NỮ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI Ở THỦ ĐƠ VIÊNG CHĂN, NƯỚC CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO HIỆN NAY

1.2.1. Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực nữ ở Thủ
đô Viêng Chăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
Là bộ phận cơ bản của nguồn lực con người, nguồn nhân lực nữ có vai
trị quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia.

Vấn đề phát huy nguồn nhân lực nữ đã được Đảng NDCM Lào luôn
coi trọng. Đảng NDCM Lào khẳng định: “Phát triển phụ nữ, khuyến khích
bình đẳng nam - nữ là một chính sách lớn của Đảng - Nhà nước” [26, tr.82].
Có thể khẳng định rằng, xuất phát từ nhu cầu khách quan về các
nguồn lực, trước hết là nguồn lực con người, Đảng NDCM Lào luôn coi phụ
nữ là động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Để phát huy
nguồn lực phụ nữ, các chính sách của Đảng và Nhà nước đã có một cách nhìn
nhận tương đối tồn diện về các vai trò khác nhau mà người phụ nữ gánh vác
trong gia đình và ngồi xã hội. Nhờ kiên trì quan điểm phát huy nguồn lực
phụ nữ mà Đảng đã động viên được các tầng lớp phụ nữ tham gia vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Vai trò và địa vị xã hội của phụ nữ Lào
được nâng cao qua từng giai đoạn phát triển. Điều này chứng tỏ rằng một


24
trình độ mới về tiến bộ xã hội thể hiện ở mức độ bình đẳng giới có thể được
tạo lập ngay trong điều kiện kinh tế còn kém phát triển.
Rõ ràng là nhu cầu phát triển CNH, HĐH của Thủ đơ tự bản thân nó
đã đặt ra u cầu khách quan cấp bách phải đầu tư để phát triển nhanh nguồn
lực con người của Thủ đô. Khẳng định điều này, Đại hội lần thứ V của Đảng
bộ Thủ đô Viêng Chăn (2011) đã xác định mục tiêu: Tiếp tục đẩy mạnh cơng
cuộc đổi mới, xây dựng Thủ đơ thốt khỏi tình trạng đói nghèo; tiến hành
CNH, HĐH trong một số ngành, xây dựng Thủ đơ có mơi trường xanh sạch
và mang đậm bản sắc văn hoá của các bộ tộc Lào. Đảm bảo giảm thiểu
khoảng cách chênh lệch giữa Thủ đô Viêng Chăn với các Thủ đô của các
nước trong khu vực. Nâng cao dần vị thế của Viêng Chăn, phấn đấu đưa
Viêng Chăn trở thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá lớn đối
với khu vực và thế giới. Phát huy hơn nữa các lợi thế về vị trí địa lý, vị thế
chính trị, kinh tế của Viêng Chăn trong quan hệ hợp tác, cạnh tranh với các
nước trong khu vực và thế giới, trong đó phát huy nội lực, khai thác có hiệu

quả các nguồn lực cho sự phát triển, đặc biệt là nguồn lực con người, con
người phải được quan tâm hàng đầu và là chủ thể đảm bảo cho sự phát
triển... [23, tr.47-48].
Ngày nay, phát huy nguồn nhân lực nữ càng có ý nghĩa quyết định đối
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của Thủ
đơ Viêng Chăn nói riêng. Tầm quan trọng của việc phát huy nguồn nhân lực
nữ được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phụ nữ là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc tái sản
xuất con người. Phát huy nguồn nhân lực nữ sẽ tác động trực tiếp và lâu dài
đến sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con người.
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng: sản xuất ra
của cải vật chất, tinh thần và tái sản xuất ra bản thân con người. Hai mặt này
của sản xuất xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau trong sự


25
thống nhất biện chứng. Sản xuất vật chất, tinh thần là cơ sở của tái sản xuất
con người. Ngược lại, tái sản xuất con người lại là tiền đề của sản xuất vật
chất, tinh thần. Vai trò hay ảnh hưởng của phụ nữ đối với xã hội được xét trên
hai phương diện chủ yếu: thứ nhất, phụ nữ tác động đến sự phát triển của xã
hội thông qua các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của họ ; thứ
hai, phụ nữ tác động đến xã hội thông qua việc thực hiện chức năng trực tiếp
tái sản xuất ra bản thân con người. Chiếm phần nửa trong lực lượng lao động
xã hội, nên đương nhiên phụ nữ giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh
tế - xã hội.
Sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay không chỉ chú ý đến vấn đề
số lượng dân số - như một lực lượng lao động chủ yếu, mà điều quan trọng
hơn là nâng cao chất lượng dân số như là mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Con người là nhân tố hàng đầu, quyết định sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của KH - CN đã đặt con người vào q trình

lao động hết sức phức tạp, địi hỏi con người phải có năng lực sáng tạo,
một trình độ kỹ thuật cao và ý thức trách nhiệm rất lớn. Có như vậy, lực
lượng vật chất to lớn, đồ sộ của xã hội mới được sử dụng một cách tốt nhất,
hiệu quả nhất và đồng thời chính con người lại đạt đến một bước phát triển
mới, tăng thêm sức mạnh chinh phục thiên nhiên, tăng thêm động lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó càng cho thấy, chức năng tài sản sinh ra con người ở người
phụ nữ là nhu cầu tự nhiên tất yếu đối với gia đình và xã hội, và ngay từ đầu
đã mang tính người, tính xã hội. Đây là chức năng đặc biệt dành cho phụ nữ,
trải qua các thời đại, chức năng này ngày càng có vai trị quan trọng hàng đầu
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. “Chất lượng của tái sản xuất xã hội được
thực hiện thông qua người phụ nữ là yếu tố chủ yếu của phát triển nguồn nhân
lực và hơn nữa là nguồn đầu tư đặc biệt dài hạn” [19, tr.26].


×